ẢNH HƯỞNG CỦA KHUYNH HƯỚNG TƯỢNG TRƯNG, SIÊU THỰC TRONG THƠ MỚI VIỆT NAM
trong dòng chảy văn học, hiện tượng kế thừa, tiếp thu những thành tựu tư tưởng, nghệ thuật là hiện tượng phổ biến, như một quy luật. Kế thừa thơ truyền thống dân tộc, tiếp thu chủ nghĩa lãng mạn, tượng trưng, siêu thực của văn học Pháp, thanh niên trí thức Việt Nam đầu thế kỷ XX đã sáng tạo ra một thời đại thi ca hoàn toàn khác trước. Phải nói rằng Thơ mới 1932 - 1945 là một sự tích hợp nghệ thuật kỳ diệu, độc đáo trong lịch sử văn học Việt Nam và nó đã đi trọn hành trình thi ca trước lúc hạ cánh để chuyển sang bước ngoặt mới khi lịch sử đã sang trang. Một thế kỷ thi ca Pháp với những đỉnh thơ lừng danh như: Lamartine, V.Hugo, Chateaubriand, Baudelaire, Verlaine, Valéry, Mallarmé... đã được các nhà thơ mới thâu tóm, tiếp biến trong vòng 13 năm. Thơ mới, một hiện tượng độc đáo có một không hai trong tiến trình thơ Việt Nam. Chỉ trong một thời gian ngắn của lịch sử, Thơ mới đã khởi đi từ lãng mạn, đến tượng trưng và siêu thực. Ba trào lưu thơ đã tích hợp, tổng hoà, đan xen nhau trong trong khá nhiều tác giả, tác phẩm tiêu biểu, làm cho Thơ mới trở nên giàu có, đa thanh, đa sắc, trong đó, ngoài sự hiện diện tiên phong của chủ nghĩa lãng mạn, còn có phần đóng góp không nhỏ của nghệ thuật tượng trưng - siêu thực, được các nhà thơ mới tiếp biến đầy sáng tạo.
Chuyên đề:
ẢNH HƯỞNG CỦA KHUYNH HƯỚNG TƯỢNG TRƯNG, SIÊU THỰC TRONG THƠ MỚI VIỆT NAM
A. CHỦ NGHĨA SIÊU THỰC
I. Về sự ra đời và kết thúc của chủ nghĩa siêu thực
Chủ nghĩa siêu thực là một trào lưu nghệ thuật xuất hiện vào những năm 20 thế kỷ XX ở Pháp do Andre Breton và P.Soupault đề xướng với sự tham gia của L.Aragon và P.Eluard.
Sự ra đời của chủ nghĩa siêu thực về thực chất là một sự nổi loạn đối với văn minh tư sản và sự khủng hoảng tinh thần của một bộ phận thanh niên trí thức trước thực trạng xã hội hỗn độn và sự bất lực của mình về mặt nghệ thuật. Trường phái này chống lại chủ nghĩa hiện thực và mang tính chất suy đồi. Vì thế nhiều nhà văn tài năng như L.Aragon và P. Éluard dần dần rời bỏ trường phái này và chuyển sang chủ nghĩa hiện thực vào cuối những năm 30 của thế kỉ XX đồng thời cũng trở thành những nhà thơ nổi tiếng.
Trước khi phát xít Đức chiếm đóng đất Pháp, chủ nghĩa siêu thực chính thức kết thúc lịch sử của nó.
II. Định nghĩa
Chủ nghĩa siêu thực là một trào lưu nghệ thuật và văn học có nguồn gốc từ Pháp, được đặc trưng bởi sự thể hiện tư tưởng theo cách tự phát và tự động, chỉ được cai trị bởi sự thúc đẩy của tiềm thức, coi thường logic và phủ nhận các tiêu chuẩn đạo đức và xã hội đã thiết lập.
Nguồn gốc của thuật ngữ "siêu thực" xảy ra vào năm 1917, thông qua G. Apollinaire, là một từ có nghĩa là "những gì ở trên chủ nghĩa hiện thực". Tuy nhiên, như một phong trào nghệ thuật và văn học, nó chỉ xuất hiện ở Pháp vào những năm 1920.
Chủ nghĩa siêu thực dự định vượt ra khỏi giới hạn của trí tưởng tượng được tạo ra bởi tư tưởng tư sản và truyền thống logic của nó và bởi những ý tưởng nghệ thuật đã có hiệu lực từ thời Phục hưng.
Phong trào siêu thực phát triển mặc dù có nguy cơ bị tiêu diệt, bởi vì những biểu hiện trái ngược phát sinh dựa trên chủ nghĩa vô chính phủ. Nhiều nhà tư tưởng của phong trào đã trao đổi những lời buộc tội, nói rằng họ không tuân theo mục đích của chủ nghĩa siêu thực. Bất chấp bầu không khí căng thẳng này, chủ nghĩa siêu thực phát triển mạnh và ảnh hưởng đến suy nghĩ của con người, bởi vì nó tạo ra một quan niệm mới về thế giới và con người, nhưng cũng là một sự thay đổi có liên quan trong quá trình nghệ thuật.
Một số học giả cho rằng chủ nghĩa siêu thực đang trong quá trình mang thai cho đến năm 1924, khi Manifeste du Surréalisme (Tuyên ngôn của chủ nghĩa siêu thực), bởi Breton, xuất hiện. Thay thế hệ thống các giá trị mà họ dự định sẽ xóa bỏ, những người theo thuyết Dada và những người theo chủ nghĩa siêu thực đầu tiên đã dùng đến các lý thuyết phân tâm học về sự khuếch tán gần đây để hình thành một tư tưởng thi ca mới.
Với sự khởi đầu của Thế chiến II, những người theo chủ nghĩa siêu thực lan rộng và ngay sau đó phong trào đã bị giải thể ở châu Âu vì có sự khác biệt về ý kiến giữa các thành viên và các vị trí chính trị khác nhau.
Kiểm tra các tính năng chính của chủ nghĩa siêu thực.
Quan điểm và thi pháp của họ chống lại sự sùng bái các trào lưu văn học hiện thực và lãng mạn thế kỷ 19, đưa ra một phương pháp sáng tác mà họ gọi là “lối viết tự động”, tức là ghi lại những ảo giác tự phát theo “trạng thái của những người bị thôi miên”... nói tóm lại, là theo chủ quan của người nghệ sĩ thoát ly mọi liên hệ với thực tế xã hội.
Trong bản tuyên ngôn của các nhà chủ nghĩa siêu thực viết năm 1924. André Breton đã viết như sau: “Các tư tưởng được tự do bộc lộ, không phải chịu bất kỳ một sự kiểm soát nào của lý trí, hay của những thành kiến đạo đức và thẩm mỹ” .
Chủ nghĩa siêu thực là một khuynh hướng nghệ thuật lớn bao trùm nhiều loại hình của nghệ thuật. Bắt đầu từ thơ, siêu thực lan tới hội họa rồi tiếp đến điện ảnh, tiểu thuyết.
III. Một vài đặc điểm về chủ nghĩa siêu thực
1. Những nguyên tắc của trường phái siêu thực:
- Chủ nghĩa siêu thực thẳng tay gạt bỏ mọi quy tắc trong ngữ pháp và thi pháp, mọi nguyên tắc logic trong tư duy, giành lấy sự tự do tuyệt đối cho cảm xúc tuôn trào. Sáng tác của họ do đó thường được cấu thành bằng những dòng tiềm thức rời rạc, gián cách, không thể khắc họa được bức tranh thực tại toàn vẹn.
- Hướng về thế giới vô thức của con người mà họ cho là một lĩnh vực vô hạn đối với sự khám phá sang tạo nghệ thuật.
- Đề cao các ngẫu hứng, chú trọng ghi những cái xuất hiện lướt qua trong đầu, không qua sự kiểm soát của lý trí.
- Vứt bỏ sự phân tích logic, xóa bỏ các gông cùm của lý trí, đạo đức, tôn giáo và chỉ tin cậy ở trực giác, giấc mơ, ảo giác, ở những linh cảm bản năng và sự tiên tri.
- Dựa theo thuyết “tự động tâm linh” của Bréton họ kêu gọi hướng tới sự hồn nhiên không suy nghĩ của trẻ thơ, tới trạng thái mê sảng, tới những ảo giác.
Vì thế chủ nghĩa siêu thực chủ trương thơ ca phải được tuôn trào tự do, không cần sử dụng các dấu chấm câu, không cần tuân thủ trật tự ngữ pháp, đề cao sự liên tưởng tự do của cá nhân.
2. Về phong cách và đề tài
Họ chủ trương giải phóng thơ khỏi những qui cách lề lối gò bó trước đó mà họ cho là khuôn sáo, hàn lâm, chủ trương dùng những từ ngữ kiểu cách, kỳ lạ, âm luật và cú pháp bất thường.
Đề tài của họ là những mơ tưởng huyền ảo quái dị, là sự đau khổ nhớ nhung quá khứ, là tình yêu. Họ cho rằng chỉ với lối sáng tác ấy người ta mới đạt đến một hiện thực cao hơn hiện thực tầm thường hằng ngày, một “siêu hiện thực”, chữ mà A.Breton đặt ra. (Bách khoa toàn thư Việt Nam).
3. Về quan điểm chính trị
Các tác giả chủ nghĩa siêu thực nói chung đều là những người phản kháng lại trật tự xã hội tư bản. Họ đấu tranh cho nhân quyền, chống chủ nghĩa thực dân lúc đầu rơi vào tinh thần nổi loạn vô chính phủ và những cá nhân tư bản cực đoan. Có người ngay từ đầu đã tán thành chính sách chống đế quốc và thực dân của những người cộng sản.
4. Về nghệ thuật
Loại trừ những bài thơ điên loạn, vô nghĩa, chơi chữ, cần thừa nhận những cải cách của các nhà thơ siêu thực về mặt thi pháp như: từ ngữ và hình tượng thơ, thơ tự do và thơ văn xuôi. Các nhà siêu thực xây dựng tác phẩm hoàn toàn dựa trên những thủ pháp như sự tương tự, cái nghịch lý, sự bất ngờ, sự thống nhất những cái không thể thống nhất được. Từ đó ở tác phẩm xuất hiện một bầu không khí nghệ thuật đặc biệt, có tính huyền ảo, phi lý...
5. Các tác giả tiêu biểu
Thủ lĩnh và phát ngôn nhân đầu tiên của trào lưu thơ siêu thực là André Breton. Nhân vật quan trọng bên cạnh Bréton là nhà thơ, tiểu thuyết gia rất quen thuộc với bạn đọc Việt Nam : Louis Aragon. Mặc dù có vị thế quan trọng như vậy, nhưng sau Aragon lại từ bỏ chủ nghĩa siêu thực trở về với văn chương truyền thống kiểu Balzac. Những ngôi sao nổi tiếng khác như Tristan Tzara, Philippe Soupault, Jacques Prévert... Ngoài ra có những người theo chủ nghĩa siêu thực nhưng không hoàn toàn tuân thủ các nguyên tắc của nó, nhưng cũng rất nổi tiếng như Federico Garcia Lorca (Tây Ban Nha), Anais Nin, Henry Miller, Charles Henry Ford (Mỹ), Hugh Sykes Davies, Dylan Thomas (Anh), St.J.Perse, Paul Eluard (Pháp)...
IV. Ảnh hưởng của chủ nghĩa siêu thực đến Thơ mới Việt Nam ( 1932 – 1945 )
Trong văn học Việt Nam thế kỷ XX, chủ nghĩa siêu thực không trở thành một dòng riêng biệt, nhưng bút pháp hoặc thi pháp siêu thực thì đã được các nhà thơ sử dụng và đạt được những thành công nhất định. Ta có thể thấy được điều đó đậm nhạt ở Hàn Mặc Tử trong tập Thơ điên, ở Nguyễn Xuân Sanh trong Xuân Thu Nhã Tập, Nguyễn Đình Thi với những bài thơ không vần, ở Hoàng Cầm trong tập Về Kinh Bắc, ở thơ Ngô Kha và trong ca từ Trịnh Công Sơn...
Ở Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng không dễ dàng trong việc xếp đặt các nhà Thơ Mới Việt Nam theo một trường phái nhất định: lãng mạn, hoặc tượng trưng hay siêu thực, mà Thơ mới chủ yếu là được sáng tác theo quĩ đạo chủ nghĩa lãng mạn, sau đó, men tới chủ nghĩa tượng trưng và chủ nghĩa siêu thực. Hiện tượng đan xen giữa các yếu tố lãng mạn, tượng trưng, siêu thực như trong nhiều bài thơ của Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Đinh Hùng là điển hình.
1. Trường Thơ Loạn, một trường thơ mang đậm yếu tố siêu thực
Trường thơ loạn ( Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, Yến Lan…) đã bẩy cái đẹp qua một địa hạt khác cái đẹp để tiệm cận với cái kinh dị, cái ghê rợn, cái xấu và đem những cái ấy làm thi liệu cho thơ, đẩy thơ đến bờ chủ nghĩa siêu thực: Hồn, máu, sọ người, xương khô, tủy, đám ma… tràn đầy trong thơ Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên:
“Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút;
Mỗi lời thơ đều dính não cân ta
Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt
Như mê man chết điếng cả làn da”.
( Rướm máu -Hàn Mặc Tử)
“Trên một nắm mộ tàn ta nhặt được
Khớp xương ma trắng tựa não cân nguời,
Tuỷ đã cạn, nhưng vẫn dầm hơi ướt,
Máu tuy khô, còn đượm khí tanh hôi.”
( Xương khô - Chế Lan Viên)
Điêu tàn dựng lên một thế giới đầy sọ dừa, xương máu, cùng yêu ma hồn, não, máu, chết, nắm mộ tàn, khớp xương, ma, dầm hơi ướt, khí tanh hôi. Đây là lời thơ miêu tả một yêu tinh nhớ nơi trần thế.
“ Rồi lấy ra một khớp xương rợn trắng
Nút bao dòng huyết đẫm khí tanh hôi
Tìm những “ miếng trần gian” trong tủy cạn
Rồi say sưa, vang cất tiếng reo cười “
Rồi: “ … những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn
Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau đi “.
Rồi nhà thơ kêu lên:
” Hồn của ai trú ngụ ở đầu ta?
Ý của ai trào lên trong đáy óc,
Để bay đi theo tiếng cười, điệu khóc?”
( Dưới ngọn cờ của chủ soái Hàn Mặc Tử, các thành viên trong Trường thơ loạn say sưa sáng tác. Có những đêm cả bọn đem chăn màn ra bờ biển ở lại suốt đêm để thả hồn theo những vần thơ kỳ dị. Thơ của các thi sĩ Trường thơ loạn tràn ngập trăng, hồn, máu, bóng ma, sọ người, xương cốt, tinh tủy... Tất cả say sưa bước chân vào thế giới rùng rợn đó...
Việc nhóm thơ Bình Định cho ra đời Trường thơ loạn khiến văn, thi hữu khắp nơi bàn tán xôn xao. Nhiều người hoan nghênh nhưng cũng không ít người chê bai. Hoài Thanh kể: "Tôi đã nghe người ta mạt sát Hàn Mặc Tử nhiều lắm. Có người bảo: Hàn Mặc Tử thơ với thẩn gì, toàn nói nhảm!".
Có người còn nghiêm khắc hơn nữa: "Thơ gì mà rắc rối thế. Mình tưởng có ý nghĩa khuất khúc gì, cứ đọc đi đọc lại hoài, thì ra nó lừa mình!". Đặc biệt Xuân Diệu là người ghét cay ghét đắng những vần thơ điên của Tử...
Đúng là những vần thơ điên của các thi sĩ đã gây shock cho nhiều người. Nhưng thật ra đó chỉ là một cách giải quyết sự bế tắc trong tư tưởng mà thôi. Hàn Mặc Tử đã dẫn dắt các thi sĩ sáng tác khá nhiều vần thơ kỳ dị cho đến lúc chàng rời bỏ cuộc đời vào năm 1941.
Sang năm 1942, đến lượt Bích Khê cũng vĩnh viễn ra đi. Trường thơ loạn từ đó tan rã.)
Trích bài Tựa tập thơ Điêu tàn (1937) do Chế Lan Viên viết:
Hàn mặc Tử viết: Làm thơ tức là điên. Tôi thêm: Làm thơ là sự phi thường. Thi sĩ không phải là Người. Nó là Người mơ, Người say, Người điên. Nó là Tiên, là Ma, là Quỷ, là Tinh, là Yêu, Nó thoát Hiện Tại. Nó xáo trộn Dĩ vãng. Nó ôm trùm Tương Lai.
Người ta không hiểu được nó vì nó nói những câu vô nghĩa, tuy rằng những cái vô nghĩa hợp lý. Nhưng thường thường nó không nói. Nó gào, nó thét, nó khóc, nó cười. Cái gì của nó cũng tột cùng. Nó gào vỡ sọ, nó thét đứt hầu, nó khóc trào nước mắt, nó cười tràn cả tuỷ là tuỷ. Thế mà có người tự cho là hiểu được nó, rồi đem nó so sánh với Người, và chê nó là giả dối với Người. Với nó, cái gì nó nói đều có cả. )
Một trong những nhà thơ lớn của phong trào Thơ mới, đặc biệt với tập “Thơ Điên” đã được rất nhiều người biết đến và tập thơ này chúng ta có thể thấy đâu đó đôi nét của chủ nghĩa siêu thực trong thơ ông, một hồn thơ mãnh liệt nhưng luôn quằn quại đau đớn, dường như có một cuộc vật lộn và giằng xé và dữ dội giữa linh hồn và xác thịt. Linh hồn muốn thoát khỏi xác phàm để bay tới cõi siêu nhiên sáng láng, thơm tho, tinh khiết nhưng thực ra vẫn gắn bó với cuộc đời, với con người mà ông thiết tha yêu thương bằng một tình yêu trần thế.
Ông tạo ra cho mình một thế giới nghệ thuật điên loạn, ma quái xa lạ với đời thực. Lời thơ mê man, mê sảng như trong cõi mơ, trong thế giới đó có hai hình tượng sống động như hai con người, như hai người bạn tâm tình đó là: Ta và trăng:
Say trăng (Hàn Mặc Tử)
Ta khạc hồn ra ngoài cửa miệng
Cho bay lên hí hửng với ngàn khơi
Ở trên kia, có một người
Ngồi bên sông Ngân giặt lụa chơi
Nước hóa thành trăng trăng ra nước
Lụa là ướt đẫm cả trăng thơm
Người trăng ăn vận toàn trăng cả
Gò má riêng thôi lại đỏ hườm
Ta hẵng đưa tay choàng trăng đã
Mơ trăng ta lượm tơ trăng rơi
Trăng vướng lên cành lên mái tóc cô ơi,
Hãy đứng yên tôi gỡ cho rồi cô đi
Thong thả cô đi
Trăng tan ra bọt lấy gì tôi thương
Tối nay trăng ở khắp phương
Thảy đều nao nức khóc nường vu qui
Say! say lảo đảo cả trời thơ
Gió rít tần cao trăng ngã ngửa
Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô
Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra
Những tư tưởng của chủ nghĩa siêu thực đậm nét nhất trong bài “Rượt trăng”:
Ha ha! Ta đuổi theo trăng
Ta đuổi theo trăng
Trăng bay lả tả trên cành vàng
Tới đây là nơi tôi được gặp nàng
Rủ rê, rủ rê hai đứa tôi vào rừng hoang
Tôi lượm lá trắng làm chiếu trải
Chúng tôi kê đầu trên khối sao băng
Chúng tôi soi chuyện bằng hơi thở
Dần dần hao cỏ biến ra thơ
Chúng tôi lại là người của ước mơ
Không xác thịt chỉ là linh hồn đang mộng
Chao ôi! Chúng tôi rú lên vì kinh động
Vì trăng ghen, trăng ngã, trăng rụng xuống mình hai tôi.
Hoảng lên nhưng lại cả cười
Tôi toan níu áo nàng thời theo trăng
Hô hô! Ta đuổi theo trăng! Ta đuổi theo trăng!
Trăng! Trăng! Trăng! Trăng!
Thả nàng ra, thôi thả nàng ra
Hãy buông nàng xuống cho ta ẵm bồng
Đố trăng trăng chạy đàng trời
Tôi rú một tiếng trăng rơi tức thì
Hàn Mặc Tử đã sáng tạo một thế giới thơ kỳ lạ, bí hiểm, thơ ông vừa lãng mạn, vừa tượng trưng - siêu thực, vừa có chất cổ điển, lại vừa hết sức tân kỳ. Cho đến nay, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng chưa thể khám phá hết thơ Hàn Mặc Tử - một thế giới vô cùng huyền nhiệm. Thế giới thơ Hàn Mặc Tử rộng rinh không bờ bến như ông đã trình bày trong Thơ điên: “Tôi sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng hồn, tôi đã phát triển hết các cảm giác của tình yêu. Tôi đã vui, buồn, giận, hờn đến gần đứt sự sống. Thôi mời cô cứ vào… Ánh sáng lạ trong thơ tôi sẽ làm cho gò má cô đỏ gấc. Và một khi cô đã vào là cô sẽ lạc, vườn thơ tôi rộng rinh không bờ bến. Càng đi xa, càng ớn lạnh”.
Mắc phải trọng bệnh khi còn rất trẻ, Hàn Mặc Tử hoàn toàn tuyệt vọng; trên đỉnh đau thương tột cùng, thơ ông viết ra như người đến từ một cõi khác, Thơ điên, một hiện tượng thơ khác lạ trong dòng chảy thơ Việt đến hồi bấy giờ, “lối viết tự động” thoát ra từ bản năng vô thức đã làm thơ ông ít nhiều mang sắc thái của trường thơ siêu thực.
"Sẽ không thể giải thích được đầy đủ hiện tượng Hàn Mặc Tử nếu chỉ vận dụng thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn và ảnh hưởng của Kinh thánh. Chúng ta cần nghiên cứu thêm lý luận của chủ nghĩa tượng trưng và chủ nghĩa siêu thực. Trong những bài thơ siêu thực của Hàn Mặc Tử, người ta không phân biệt được hư và thực, sắc và không, thế gian và xuất thế gian, cái hữu hình và cái vô hình, nội tâm và ngoại giới, chủ thể và khách thể, thế giới cảm xúc và phi cảm xúc. Mọi giác quan bị trộn lẫn, mọi lôgic bình thường trong tư duy và ngôn ngữ, trong ngữ pháp và thi pháp bị đảo lộn bất ngờ. Nhà thơ đã có những so sánh ví von, những đối chiếu kết hợp lạ kỳ, tạo nên sự độc đáo đầy kinh ngạc và kinh dị đối với người đọc." (Nhà phê bình văn học Phan Cự Đệ )
2. Trong Xuân Thu Nhã Tập.
Đây là một nhóm văn chương nghệ thuật có cùng quan điểm: Nguyễn Đỗ Cung, Phạm Văn Hạnh, Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Lương Ngọc, Nguyễn Xuân Sanh, Đoàn Phú Tứ. Thành lập năm 1942.
Theo các tác giả, thơ "là cái gì siêu thoát, ra ngoài ước lệ, ở trên lí trí"; thơ thuộc về "những lớp dày đặc của tiềm thức và vô ý thức" nên không giải được mà chỉ "cảm" được; thơ không được băn khoăn về thiện ác, không được tả tình hay tả cảnh, "một bài thơ là do sự phối hợp những âm thanh, chữ, hình ảnh...
Thơ là sự rung động, sự quyến rũ- không thể cưỡng lại, một cách tự nhiên, hoàn toàn. Thơ - vì thế, không cần để hiểu mà cốt để cảm. Ví dụ:
“Màu thời gian không xanh
Màu thời gian tím ngắt
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh”.
( Màu thời gian – Đoàn Phú Tứ )
Những câu thơ trên tưởng chừng như hiện ra trước mắt người đọc về một hình ảnh quen thuộc vì nó được miêu tả tỉ mỉ về màu sắc, về hương sắc nhưng thực ra nó không có bất kỳ tính hiện thực nào.
Hay như bài “Buồn Xưa” của Nguyễn Xuân Sanh:
“ …Lẵng xuân
Bờ giũ trái xuân sa
Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà
Nhài đàn rót nguyệt vú đôi thơm
Tỳ bà sương cũ đựng rừng xa…”
Những câu thơ trên người đọc khó có thể xác định nghĩa thực của nó, như “đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà” chẳng hạn ta không tìm thấy nghĩa thực của nó ( XTNT chủ trương: thơ không cần rõ nghĩa, chỉ cần gợi và rung cảm). Đồng thời XTNT đi theo hướng:” một bài thơ có thể hiểu ra nhiều lối dù có cảm một cách duy nhất, nên độc giả tuỳ theo trình độ tri thức mà hưởng thụ ít hay nhiều ví dụ cùng một ánh trăng, một nụ cười, một tiếng đàn mọi người đều rung động nhưng mức độ không giống nhau.
( Gv mở rộng: Trong thơ Hoàng Cầm ví dụ như bài Lá Diêu Bông ta thấy lá diêu bông chính là một hình tượng không có thực, một ảo tưởng tình yêu:
“Hai ngày sau em tìm thấy lá
Chị chau mày:
Đâu phải lá Diêu Bông
Mùa đông sau em tìm thấy lá
Chị lắc đầu
Trông nắng vãn bên sông…”
( Lá Diêu Bông)
Hoàng Cầm thường hay nói về việc ông sáng tác một số bài thơ, những bài hay nhất của mình, là do một người nữ vô hình nào đó đọc cho chép. Có khi một câu, có khi một đoạn, thậm chí có khi trọn vẹn cả bài. Việc sáng tác bài thơ Lá Diêu Bông là một trường hợp tiêu biểu: “ chẳng có chuyện gì phải lo nghĩ, chẳng có ý định gì trong đầu mà sao về quá nửa đêm một mùa rét ấy, tôi vẫn không ngủ được. Im lặng, chợt bên tai văng vẳng lên một giọng nữ rất nhỏ nhẹ mà rành rọt, đọc chậm rãi, có tiết điệu, nghe như từ thời nào xa xưa vẳng đến, có lẽ từ tiền kiếp vọng về:
“Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng…” )
3. Đinh Hùng với “Mê hồn ca” - mang đậm yếu tố siêu thực
Đinh Hùng sinh ngày 3 tháng 7 năm 1920 - tại làng Phương Dực, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây, mất ngày 24/8/1967 tại Sài Gòn vì bệnh ung thư. Ông là bạn thân của nhà văn Thạch Lam. Và nhà thơ Vũ Hoàng Chương là anh rể của ông. Từ tuổi đôi mươi Đinh Hùng đã bắt đầu sáng tác thơ, văn và có thơ được đăng trên Hà Nội Tân Văn của Vũ Ngọc Phan, giai phẩm Đời Nay của Tực Lực Văn Đoàn. Trong sáng tác, Đinh Hùng còn ký các bút danh Hoài Điệp Thứ Lang, Thần Đăng. Năm 1943, Đinh Hùng xuất bản tập văn xuôi "Đám ma tôi" . Ông được nhà thơ Thế Lữ khuyến khích, bắt đầu nổi tiếng trên thi đàn với bài thơ "Kỳ nữ". Năm 1954, Đinh Hùng cho ra đời tập thơ "Mê hồn ca". Mê hồn ca" là câu chuyện thơ đầy mộng mỵ, ma quái, bí hiểm như truyện Bồ Tùng Linh,
Không như những nhà Thơ Mới khác, Đinh Hùng - Người kiến trúc chiêm bao ( Đỗ Lai Thúy), ông đã kiến trúc một thiên nhiên ảo diệu, thần bí. Thiên nhiên của thời hồng hoang, thái cổ còn tinh khôi, nguyên thuỷ. Ở đó, lóe lên ngọn lửa của đêm hồng hoang man rợ, “sông núi giao thần”; trong không gian Thái Cổ ấy, người thơ cùng Người gái thiên nhiên - Kỳ nữ kết tình ân ái “làm đôi người cô độc thủa sơ khai”:
"Chúng tôi gặp nhau bên dòng suối ngọt,
Làm đôi nguời cô độc thuả sơ khai,
Nàng bâng khuâng đốt lửa những đêm dài,
Ta từng buổi bơ vơ tìm bộ lạc.
Nàng là Gái - Muôn - Đời không đổi khác:
Bộ ngực tròn nuôi cuộc sống đương xuân.
Ta đến đây làm chủ hội phong trần,
Lấy hoa lá kết nên Tình Thái Cổ ".
( Đinh Hùng - Người gái thiên nhiên)
Đến Đinh Hùng, có thể nói, những sáng tác buổi đầu thơ ông (Mê hồn ca) đã nghiêng hẳn sang trường thơ siêu thực, ngôn từ thơ ông được chuốt trau bóng bẩy, lời lẽ trang trọng, ý tưởng thơ kỳ lạ, bí hiễm, giọng thơ buồn đau , bi thiết:
“Trăng ơi! đừng bỏ kinh thành.
Hồn Cố Đô vẫn thanh bình như xưa.
Nhỡn tiền chợt sáng thiên cơ
Biết chăng ảo phố mê đồ là đâu?
Ta say ánh lửa tinh cầu
Dựng lên địa chấn, loạn màu huyền không”.
(Đinh Hùng - Sông Núi giao thần)
Mê hồn ca như lạc bước vào thế giới khác, một thế giới biệt lập với thế giới hiện hữu, thế giới đó do thi nhân “ kiến trúc ” trên một nền chiêm bao; và trong chiêm bao ấy, nhà thơ tiếp tục tạo ra những giấc mơ kỳ diệu, giấc mơ về thế giới, con người của thời hồng hoang, nguyên thủy với những bóng hình man rợn: Rồi những đêm sâu bỗng hiện về,/ Vượn lâm tuyền khóc rợn trăng khuya./ Đâu đây u uất hồn sơ cổ,/ Từng bóng ma rừng theo bước đi.” (Đinh Hùng - Những hướng sao rơi ).
Đinh Hùng đã đi vào Mê hồn ca với một không gian siêu thực, mộng mị, lẫn lộn giữa cõi dương thế với âm phần: “Trời cuối thu rồi- Em ở đâu?./ Nằm bên đất lạnh chắc em sầu?/ Thu ơi đánh thức hồn ma dậy,/ Ta muốn vào thăm nấm mộ sâu./ ...Thần chết cười trong bộ ngực điên,/ Ta nghe em thở tiếng ưu phiền./ Nỗi lòng xưa dậy tan Thanh Vắng./ Hơi đất mê người- Trăng hiện lên”. (Đinh Hùng - Gửi người dưới mộ).
Từ bỏ thế giới thực tại, đi sâu vào thế giới siêu nhiên, siêu cảm, có thể nói thơ Đinh Hùng đã vượt qua từ trường của thơ lãng mạn và men tới lãnh địa của siêu thực: Mê hồn ca được kiến tạo không phải để phản ánh hoặc tô điểm cho thế giới thực tại, mà độc lập với thế giới thực tại. Đây là điều hầu như không có ở các nhà thơ Lãng mạn. (Đỗ Lai Thúy - Mắt thơ I, trang 178 - HN 2000). Chính vì vậy mà Nguyễn Tấn Long - nhà nghiên cứu văn học trước đây đã nhận xét: “Từ bỏ một thế giới hiện hữu, tìm về một một thế giới thuở sơ khai, tạo dựng một không gian mới cho tâm tư, thi nhân không sống bằng thực tại, mà sống bằng nguồn siêu tưởng...” Vậy nên, một lần nữa, có thể nói, với Mê hồn ca, thơ Đinh Hùng đã vươn sang trường thơ siêu thực, và chính ông đã góp phần tạo tiền đề cho nhóm Dạ đài và Xuân thu nhã tập ra đời sau đó.
B. Chủ nghĩa tượng trưng
I. Vài nét về chủ nghĩa tượng trưng
1. Lịch sử hình thành
Chủ nghĩa tượng trưng là một trào lưu nghệ thuật và là một quan điểm triết học - mỹ học xuất hiện ở Phương Tây cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, bao gồm nhiều hiện tượng văn học - nghệ thuật như: thơ, kịch, tiểu thuyết, hội hoạ …
2. Khái niệm:
Luận giải về chủ nghĩa tượng trưng, các nhà nghiên cứu có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, dù xuất phát từ cách tiếp cận nào thì những nội dung chính được các nhà nghiên cứu quan tâm đến cũng tập trung vào khái niệm “tượng trưng”, sự ra đời của chủ nghĩa tượng trưng và cơ sở triết học của chủ nghĩa tượng trưng.
Từ điển Cambridge định nghĩa “symbol” (tượng trưng) nghĩa là: 1/ Một vật, biểu tượng hoặc đối tượng được dùng để đại diện cho một điều nào đó, ví dụ: trái tim là tượnga trưng cho tình yêu; 2/Một vật được sử dụng để biểu thị cho chất lượng hoặc ý tưởng, ví dụ: nước, biểu tượng của sự sống; 3/Con số, bức thư, ký hiệu được sử dụng trong toán học, âm nhạc, khoa học,… ví dụ: Kí hiệu của Oxy là O; 4/Một vật có thể được mô tả như biểu tượng của một vật khác nếu nó được xem như là đại diện bởi vì nó kết nối rất nhiều ý tưởng của mọi người với nhau. Qua định nghĩa trên ta có thể thấy rằng “tượng trưng” và “biểu tượng” là hai khái niệm rất gần gũi. Khi chuyển dịch khái niệm “symbol” sang tiếng Việt, thuật ngữ này được dùng với cả nghĩa “tượng trưng” và “biểu tượng”. Từ điển tiếng Việtcủa Hoàng Phê chủ biên, định nghĩa tượng trưng là: “1/dùng một sự vật cụ thể có hình thức hoặc tính chất thích hợp để gợi ra sự liên tưởng đến một cái trừu tượng nào đó, ví dụ: Chim bồ câu tượng trưng cho hòa bình; 2/ sự vật cụ thể được dùng để tượng trưng cho một cái trừu tượng nào đó, ví dụ: Xiềng xích là tượng trưng cho nô lệ” [102, tr.1082].
Theo Hegel, tượng trưng được hiểu như một kiểu tư duy nghệ thuật và đã xuất hiện từ rất lâu: “là một sự vật bên ngoài, một dấu hiệu trực tiếp nói thẳng với trực giác chúng ta: tuy sự vật này không phải được lựa chọn và được chấp nhận như nó tồn tại trong thực tế vì bản thân nó. Trái lại, nó được chấp nhận với một ý nghĩa rộng lớn và khái quát hơn nhiều. Do đó, phải phân biệt ở trong tượng trưng hai yếu tố: ý nghĩa và biểu hiện. Ý nghĩa là sự gắn liền với một biểu hiện hay một sự vật dù cho nội dung của biểu hiện này hay của sự vật này là cái gì. Còn sự biểu hiện là một tồn tại cảm quan hay một hình ảnh nào đó” [53, tr.496-497]. Cách định nghĩa này xem xét khái niệm tượng trưng trong phạm trù nghệ thuật, trong đó bao gồm cả văn học nghệ thuật.
Theo Chu Quang Tiềm, tượng trưng là: “dùng những sự vật cụ thể để diễn tả những gì mang tính chất trừu tượng. Mỹ cảm phát sinh ở chỗ trực giác được hình tượng, cho nên tác phẩm văn nghệ là sự biểu hiện những ý tưởng cụ thể, nó trực tiếp lay động sự xúc cảm của giác quan” [137, tr.24]. Khi nhắc đến khái niệm tượng trưng, các nhà nghiên cứu thường đề cập đến khái niệm “biểu tượng” vì trong nhiều trường hợp, hai khái niệm này được đồng nhất với nhau. Từ điển thuật ngữ văn học viết: “Biểu tượng như là thuật ngữ của mĩ học, lí luận văn học và ngôn ngữ học còn được gọi là tượng trưng, nó có nghĩa rộng và nghĩa hẹp” [49, tr. 24]. Theo chúng tôi, hai khái niệm này có điểm thống nhất vì mọi biểu tượng đều có tính tượng trưng nhất định. Tuy nhiên, trong mỗi biểu tượng ngoài tính tượng trưng nó còn có những ý nghĩa khác. Đồng thời, mỗi hình ảnh tượng trưng cũng mang trong nó những thông điệp khác nhau. Chính vì thế, không thể đồng nhất tượng trưng và biểu tượng.
Trong luận án này, tượng trưng được hiểu với nội hàm là một phương diện đặc thù của sáng tạo nghệ thuật, nó trở thành phương thức khái quát đời sống, nghiêng về tính chất ổn định và đa nghĩa. Tượng trưng phải xuất phát từ một hình tượng nghệ thuật nhất định, từ đó mở ra nhiều liên tưởng phong phú, có khả năng khám phá hiện thực và nâng tầm hình tượng ở mức độ ngưng kết ý nghĩa.
3. Đặc điểm:
- Chủ nghĩa tượng trưng quan niệm nghệ thuật không phải phản ánh thế giới thực tại, thế giới của hiện tượng mà là một thế giới siêu tưởng, một thế giới mơ hồ của sự tương hợp giữa ánh sáng, sắc màu, âm thanh, mùi hương và nhạc điệu.
Chủ thể tiếp nhận thơ tượng trưng cùng một lúc có thể cảm ứng tổng hòa thế giới âm thanh, sắc màu, mùi hương bằng tất cả các giác quan tương ứng. Các nhà tượng trưng xem thế giới hữu hình chỉ là hình ảnh, là cái bóng, là biểu trưng cho một thế giới mà ta không thấy được. Họ quan niệm chính cái không nhìn thấy đó mới là bản thể của thế giới. Nhà thơ nhận thức thế giới bằng trực giác, bởi chỉ có trực giác mới nắm bắt được cái đằng sau, vô hình, mới ứng cảm được thế giới đích thực mà ta không nhìn thấy. Họ cho rằng, nghệ thuật, muốn phản ánh thế giới phải tìm ra những “hiện thực ẩn dấu” và thể hiện nó bằng các biểu trưng thẩm mỹ. Họ quan niệm thơ là kẻ thù của “sự mô tả khách quan”, thơ“trước hết phải có nhạc tính”.
1- Về quan niệm thơ: Chủ nghĩa tượng trưng xem thơ như một thứ siêu cảm giác, không giải thích được. Thơ phải gắn chặt với âm nhạc, phải gợi chứ không vẽ các đường nét, hình thể (Verlaine). Nghĩa là thơ không cần có hình tượng rõ nét, và được quan niệm như một bản hoà âm huyền ảo. Mỗi từ trong thơ phải gắn liền với một nốt nhạc.
2- Về đặc điểm thơ tượng trưng: Chủ nghĩa tượng trưng xem thế giới hữu hình chỉ là hình ảnh, là cái bóng, là tượng trưng cho một thế giới mà ta không nhìn thấy được. Đây mới chính là bản thể của thế giới. Cho nên, nhà thơ phải đến với cuộc sống bằng trực giác vì chỉ có trực giác mới tìm ra cái bí ẩn nằm sau thế giới hữu hình, mới nhìn thấy thế giới đích thực là cái thế giới không nhìn thấy ấy.
3- Về mặt ngôn từ và phương thức thể hiện: Thơ tượng trưng dùng biểu tượng như là một cấu tạo hình tượng đặc biệt để chống lại lối miêu tả và biểu lộ tình cảm trực tiếp của chủ nghĩa lãng mạn. Nói cách khác, chủ nghĩa tượng trưng tôn trọng điều bí ẩn của thơ. Họ tránh dùng miêu tả mà dùng những từ gợi lên ý nghĩa. Tức là dùng biểu tượng như là một phương tiện biểu hiện.
Đến thời kỳ cuối thơ tượng trưng rơi vào tình trạng phi giao tiếp, có tính chất loại bỏ sự giao tiếp của người đọc.
II. Ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng đến Thơ mới Việt Nam ( 1932 – 1945 )
Quan niệm Tương ứng các giác quan trong thơ tượng trưng của Baudelaire đã ảnh hưởng sâu sắc đến Thơ mới Việt Nam. Mùi hương, màu sắc và âm thanh tương hợp lẫn nhau. Xuân Diệu là nhà thơ đã thể hiện cảm quan hết sức tinh nhạy, bằng sự tương hợp các giác quan, ông có thể “nghe” được những âm thanh bí ẩn huyền diệu của đất trời, cảm nhận được các “gam” của sắc màu không gian, và “chiết suất” hương thơm tạo vật muôn loài qua thơ: “Này lắng nghe em khúc nhạc thơm,/ Say người như rượu tối tân hôn;/ Như hương thấm tận qua xương tuỷ,/ Âm điệu, thần tiên, thấm tận hồn./ Hãy tự buông cho khúc nhạc hường,/ Dẫn vào thế giới của Du Dương:/ Ngừng hơi thở lại, xem trong ấy,/ Hiển hiện hoa và phảng phất hương”.
( Xuân Diệu - Huyền diệu).
Sự tương ứng các giác quan tạo nên hiệu ứng lan tỏa, đan xen nhiều tầng cảm xúc và thực sự đem lại cho thơ những cảm nhận mới lạ. Một khúc nhạc, đối với Xuân Diệu, không phải chỉ để thưởng thức một cách thuần túy bằng những cung bậc “du dương” của thanh nhạc (tương ứng với thính giác) mà cùng một lúc, nhiều giác quan ứng cảm, hợp phối để có thêm khúc nhạc hường (màu của nhạc), rồi lan tỏa thành khúc nhạc thơm (hương của nhạc) và rồi, hãy uống thơ tan trong khúc nhạc (vị của nhạc). Chỉ một khổ gồm bốn câu thơ, Xuân Diệu đã tổng hòa bốn giác quan tương ứng, nghe - nhìn - ngửi - uống, nhà thơ như đã nhập thần, hóa thân, hòa tan vào khúc nhạc đất trời Huyền diệu.
Sự tương ứng các giác quan cũng thể hiện rất rõ nét trong một số bài thơ của Huy Cận. Thế giới thơ ông là một thế giới ngát mùi hương với âm thanh, sắc màu xen lẫn, cùng các giác quan giao hòa, cảm ứng, phức hợp hơn là cụ thể; mỗi câu thơ luôn mở ra nhiều tầng cảm xúc, khơi gợi, dẫn dắt bước chân người thơ dập dìu đi giữa đường thơm:
"Đường trong làng: hoa dại với mùi rơm…/ Người cùng tôi đi dạo giữa đường thơm;/ Lòng giắt sẵn ít hương hoa tưởng tượng./ Đất thêu nắng, bóng tre, rồi bóng phượng/ Lần lượt buông màn vướng nhẹ chân lâu:/ Lên bề cao hay đi xuống bề sâu?/ Không biết nữa.– Có chút gì làm ngợp/ Trong không khí…hương với màu hoà hợp…". ( Huy Cận - Đi giữa đường thơm).
Mùi hương, màu sắc, âm thanh cùng tương hợp gây hiệu ứng mơ hồ lẫn lộn giữa các giác quan. Đoàn Phú Tứ, Thơ mới còn có thêm một cảm quan mới về thời gian, đó là“màu thời gian”: "Màu thời gian không xanh/ Màu thời gian tím ngát/ Hương thời gian không nồng/ Hương thời gian thanh thanh". Với “màu thời gian”, Đoàn Phú Tứ đã góp thêm cách cảm nhận mới, ông đã điểm thêm vào diện mạo thời gian, làm cho thời gian vừa có hương, lại vừa có sắc.
Ngoài quan niệm Tương ứng các giác quan, chủ nghĩa tượng trưng rất chú trọng tiết điệu, âm nhạc trong thơ. Các nhà thơ tượng trưng đều thống nhất là sự quan tâm đến nhạc điệu tinh tế của thơ. Không phải ngẫu nhiên Thơ mới đạt tới sự tuyệt tác ở những bài thơ nội dung trực tiếp là nhạc cảm: Nhị hồ, Nguyệt cầm (Xuân Diệu), Thu (Chế Lan Viên), Tỳ bà (Bích Khê)...
Âm nhạc trong thơ tượng trưng được khai thác triệt để, âm nhạc được chú trọng đến mức nhiều khi từng chữ thơ chỉ cần vang mà không cần nghĩa như: Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà của Nguyễn Xuân Sanh.
Yếu tố nhạc trong thơ tượng trưng được khai thác tối đa ở thơ Bích Khê; toàn bộ thơ Bích Khê, trước hết, được dựng lên trên một nền nhạc; trong rất nhiều sáng tác, ông đã dụng ý chọn những từ ngữ thanh bằng (bình thanh) đưa vào trong mỗi câu thơ, mỗi khổ thơ, thậm chí nguyên cả bài thơ. Trên nền nhạc -thơ hòa phối ấy, âm thanh, màu sắc, mùi hương cứ truyền lan vang tỏa, tạo nên sự liên tưởng trùng phức, đầy mê hoặc: “Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng./ Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông” – Câu thơ mà Hoài Thanh cho là hay vào bậc nhất trong thơ Việt Nam.
Trong một bài thơ khác, bài Hoàng hoa, dài 18 câu, Bích Khê cũng đã “thiết kế” toàn những thanh bằng, từ đầu cho đến cuối bài thơ:
"Lam nhung ô! Màu lưng chừng trời;/ Xanh nhung ô! Màu phơi nơi nơi./ Vàng phai nằm im ôm non gầy;/ Chim yên eo mình nương xương cây./ Đây mùa Hoàng hoa, mùa Hoàng hoa:/ Đông nam mây đùn nơi thành xa…/ Oanh già theo quyên quên tin chàng!/ Đào theo phù dung: thư không sang!/ Ngàn khơi, ngàn khơi, ta ngàn khơi!:/ Làm trăng theo chàng qua muôn nơi;/ Theo chàng ta làm con chim uyên/ Làm mây theo chàng bên nhung yên./ Chàng ơi! hồn say trong mơ màng,/- Hồn ta? Hay là hồn tình lang?/ Non yên tên bay ngang muôn đầu…/ Thâm khuê oan gì giam xuân sâu?/ - Ai xây bờ xanh trên xương người?!/ Ai xây mồ hoa chôn đời tươi?! (Bích Khê - Hoàng hoa)
Bài thơ hiện lên toàn những từ ngữ mang hình ảnh tượng trưng, ám gợi, rất mơ hồ về nghĩa; chỉ có thanh âm của nhạc-thơ cứ vang rung trùng điệp. Nếu không có tiêu đề Hoàng hoa, một điển tích lấy từ Kinh Thi nói về người lính đi thú phương xa nhớ nhà, có lẽ ta sẽ mất hẵn sự gợi ý liên tưởng, khi tìm hướng để cảm nhận bài thơ.
Kết luận
Tóm lại, trong dòng chảy văn học, hiện tượng kế thừa, tiếp thu những thành tựu tư tưởng, nghệ thuật là hiện tượng phổ biến, như một quy luật. Kế thừa thơ truyền thống dân tộc, tiếp thu chủ nghĩa lãng mạn, tượng trưng, siêu thực của văn học Pháp, thanh niên trí thức Việt Nam đầu thế kỷ XX đã sáng tạo ra một thời đại thi ca hoàn toàn khác trước. Phải nói rằng Thơ mới 1932 - 1945 là một sự tích hợp nghệ thuật kỳ diệu, độc đáo trong lịch sử văn học Việt Nam và nó đã đi trọn hành trình thi ca trước lúc hạ cánh để chuyển sang bước ngoặt mới khi lịch sử đã sang trang. Một thế kỷ thi ca Pháp với những đỉnh thơ lừng danh như: Lamartine, V.Hugo, Chateaubriand, Baudelaire, Verlaine, Valéry, Mallarmé... đã được các nhà thơ mới thâu tóm, tiếp biến trong vòng 13 năm. Thơ mới, một hiện tượng độc đáo có một không hai trong tiến trình thơ Việt Nam. Chỉ trong một thời gian ngắn của lịch sử, Thơ mới đã khởi đi từ lãng mạn, đến tượng trưng và siêu thực. Ba trào lưu thơ đã tích hợp, tổng hoà, đan xen nhau trong trong khá nhiều tác giả, tác phẩm tiêu biểu, làm cho Thơ mới trở nên giàu có, đa thanh, đa sắc, trong đó, ngoài sự hiện diện tiên phong của chủ nghĩa lãng mạn, còn có phần đóng góp không nhỏ của nghệ thuật tượng trưng - siêu thực, được các nhà thơ mới tiếp biến đầy sáng tạo.
C. LUYỆN TẬP
ĐỀ Bài 1:
Thơ không phải là một vòng quay chậm rãi của cảm xúc mà là một lối thoát của cảm xúc, không phải là sự biểu hiện của tính cách mà là một lối thoát cho cá tính. (T.S. Eliot)
Anh/Chị hiểu như thế nào về ý kiến trên? Hãy làm sáng tỏ qua tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử)
ĐỀ BÀI 2:
Văn chương sẽ là hình dung của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương lại còn sáng tạo ra sự sống. Vũ trụ nầy tầm thường chật hẹp không đủ thỏa mãn mối tình cảm dồi dào của nhà văn. Nhà văn sẽ sáng tạo ra những thế giới khác.
(Hoài Thanh – Nhiệm vụ của văn chương, Tao Đàn số 7, 1/6/1939)
Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy tìm hiểu sự sáng tạo trong văn chương qua một số tác giả tiêu biểu trong phong trào Thơ Mới 1932 – 1945.
Hướng dẫn
1. Giải thích
- Thơ là hình thức sáng tác văn học đầu tiên của loài người, thực sự hình thành khi con người có nhu cầu tự biểu hiện. Thơ phản ánh cuộc sống qua những cảm xúc dạt dào, chất chứa, những liên tưởng, tưởng tượng mạnh mẽ, ngôn ngữ hàm súc và gợi cảm, hình ảnh phong phú và rất giàu nhịp điệu…
- Vòng quay chậm rãi của cảm xúc: biểu hiện cảm xúc một cách đều đều, mờ nhạt, không cuộn trào, không thăng hoa, không mãnh liệt…
- Lối thoát của cảm xúc: cảm xúc trong thơ phải được biểu hiện ra, thoát ra, tuôn trào mãnh liệt qua những đợt sóng ngôn từ, nếu không có thơ, người nghệ sĩ sẽ rơi vào bế tắc. Thơ là lối thoát duy nhất của thi sĩ.
- Tính cách: là tổng thể nói chung những đặc điểm tâm lí ổn định trong cách xử sự của một con người. Nói thơ không phải là sự biểu hiện của tính cách là khẳng định: mục đích của thơ không nhằm biểu hiện bản chất xã hội, con người xã hội của nhà thơ.
- Thơ là một lối thoát cho cá tính: Cá tính là cái riêng, diện mạo riêng của một người, phân biệt với những cá nhân khác trong cộng đồng. Trong đời sống, cá tính được thể hiện qua suy nghĩ, tình cảm, hành động của con người trong những tình huống cụ thể. Trong nghệ thuật, cá tính được hiểu là phong cách nghệ thuật, là cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ.
-> Bằng cách diễn đạt giàu hình ảnh, T.S. Eliot đã khẳng định được đặc trưng cơ bản của thơ ca là sự bộc lộ của tình cảm, cảm xúc, mong muốn được giãi bày, tâm sự, chia sẻ và nhận được sự đồng điệu từ người đọc; đồng thời thơ ca chính là nơi mà người nghệ sĩ khẳng định cá tính qua sự độc đáo, sáng tạo về cả nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật.
2. Bình
- Thơ không phải là một vòng quay chậm rãi của cảm xúc mà là một lối thoát của cảm xúc
+ Người nghệ sĩ sáng tạo không chỉ phản ánh đời sống mà còn thể hiện những tư tưởng, tình cảm trước hiện thực.
+ Thơ là thể loại trữ tình, vạch xuất phát của thơ là tình cảm, đích đến của thơ cũng là tình cảm. Người nghệ sĩ bao giờ cũng là những người nhạy cảm hơn hết trước cuộc đời, trước đời sống tâm hồn mình. Họ đến với thơ, dùng tiếng thơ để được giãi bày tất cả những hỉ, nộ, ái, ố và mong muốn nhận được sự tri âm, đồng điệu từ người đọc. Thơ là cách giải thoát cho những nỗi niềm, là điệu hồn đi tìm những hồn đồng điệu…
+ Tình cảm trong thơ phải chân thành, mãnh liệt chứ không thể nhạt nhòa, đơn điệu. Bởi nếu không đủ mãnh liệt thì thi nhân không đủ rung động để sáng tạo, thơ cũng không thể ra đời, hoặc nếu có, tiếng thơ ấy cũng không thể tìm được sự đồng điệu cùng độc giả
- Thơ không phải là sự biểu hiện của tính cách mà là một lối thoát cho cá tính
+ Tính cách thể hiện bản chất con người xã hội của nhà thơ nhưng cá tính mới là cái riêng biệt, phân biệt con người này với con người khác. Trong thơ ca, cá tính sáng tạo đòi hỏi phải được khẳng định thông qua sự độc đáo, mới lạ trong nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của tác phẩm.
+ Xuất phát từ yêu cầu của sáng tạo văn chương: Bản chất của nghệ thuật là sáng tạo, vì vậy thơ ca cũng đòi hỏi nhà thơ phải in dấu ấn riêng của mình trong tác phẩm. Nhờ khả năng sáng tạo tuyệt vời mà các thi nhân luôn tìm ra những cách nói mới từ những điều đã cũ. Nếu không có sáng tạo, không có phẩm chất riêng thì tác phẩm và tác giả sẽ bị lãng quên. Những sáng tạo về hình thức biểu hiện rất phong phú qua thể loại, cấu tứ tác phẩm, ngôn ngữ thơ, hình ảnh thơ,... Mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức… Nhờ có cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ mà cảm xúc chân thành mãnh liệt mới đến được và tìm được tiếng nói tri âm nơi người đọc,…
3. Phân tích, chứng minh
- Phân tích dẫn chứng cần tập trung vào các vấn đề sau:
+ Phân tích tình cảm, cảm xúc mãnh liệt, thăng hoa thể hiện trong thi phẩm.
+ Chỉ ra cá tính sáng tạo của nhà thơ thể hiện qua nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật tác phẩm.
4. Bàn luận, đánh giá ý nghĩa của vấn đề
Ý kiến của T.S. Eliot đã khẳng định được một đặc trưng quan trọng của thơ ca, có ý nghĩa định hướng cho người sáng tác và tiếp nhận :
- Nhà thơ cần trau dồi vốn sống, sống sâu sắc, mãnh liệt trong từng cảm xúc, đồng thời luôn luôn sáng tạo để mang đến sự độc đáo, mới lạ cho tác phẩm, khẳng định được cá tính trong nghệ thuật.
- Người đọc trong quá trình tiếp nhận văn học cần trân trọng công sức của nhà thơ, đọc không chỉ thấy cái hay của câu chữ mà còn thực sự đồng điệu tri âm với tâm hồn, với tiếng nói sâu lắng mà nhà thơ gửi gắm vào tác phẩm.
Đề bài:
Văn chương sẽ là hình dung của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương lại còn sáng tạo ra sự sống. Vũ trụ nầy tầm thường chật hẹp không đủ thỏa mãn mối tình cảm dồi dào của nhà văn. Nhà văn sẽ sáng tạo ra những thế giới khác.
(Hoài Thanh – Nhiệm vụ của văn chương, Tao Đàn số 7, 1/6/1939)
Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy tìm hiểu sự sáng tạo trong văn chương qua một số tác giả tiêu biểu trong phong trào Thơ Mới 1932 – 1945.
Hướng dẫn
Yêu cầu chung: Biết làm bài NLVH; vận dụng tốt các thao tác giải thích, phân tích, bình luận văn học; biết kết hợp kiến thức lí luận với kiến thức về tác phẩm để bàn luận, đánh giá; văn viết có hình ảnh và giàu cảm xúc, có giọng điệu riêng, có sáng tạo.
Yêu cầu cụ thể:
* Giải thích
– Văn chương sẽ là hình dung của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương lại còn sáng tạo ra sự sống:
Văn chương không chỉ giúp hình dung sự sống – hiểu biết hiện thực cuộc sống phong phú đa dạng mà còn giúp khám phá, sáng tạo lại thực tại. Vì hiện thực khách quan được soi chiếu qua tâm hồn người nghệ sĩ, cho nên sáng tạo ra sự sống thực chất là hiện thực được nhào nặn trong tác phẩm ghi dấu ấn tư tưởng,tình cảm và sức sáng tạo của người ngheej sĩ.
– Vũ trụ nầy tầm thường chật hẹp không đủ thỏa mãn mối tình cảm dồi dào của nhà văn.
Sự đối lập giữa hiện thực khách quan và chủ thể sáng tạo được nhấn mạnh ở phương diện tâm hồn, tình cảm mãnh liệt, nguồn cảm hứng sáng tạo của tác giả vượt khỏi khuôn khổ hiện thực. Quan điểm của Hoài Thanh gắn với tư tưởng của chủ nghĩa lãng mạn đề cao vai trò cái Tôi chủ quan cá thể, muốn khẳng định bản sắc, phong cách riêng trong sáng tạo nghệ thuật.
– Nhà văn sẽ sáng tạo ra những thế giới khác.
Thế giới khác do nhà văn sáng tạo chính là thế giới nghệ thuật được tạo dựng bằng ngôn từ nghệ thuật, hướng tới những đề tai hiện thực mà nhà văn quan tâm, qua đó gửi gắm quan niệm nghệ thuật, cảm hứng của tác giả về con người và cuộc sống, biểu đạt qua sắc thái thẩm mỹ đậm cá tính sáng tạo của nhà văn.
* Phân tích, bình luận
– Cơ sở nhận định của Hoài Thanh gắn với sự phát triển của văn học giai đoạn 1930 – 1945 với sự phát triển đa dạng của các khuynh hướng văn học. Thời điểm 1939 đã xuất hiện những đỉnh cao trong sáng tác, hình thành nhiều phong cách tác giả độc đáo, đặc biệt phong phú là phong trào Thơ Mới với những đỉnh cao, chẳng hạn như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính… (theo đánh giá trong công trình nghiên cứu Ba đỉnh cao Thơ Mới của TS. Chu Văn Sơn). Các nhà thơ đã khẳng định cái Tôi cá nhân cá thể mạnh mẽ, tạo dựng không gian thơ của riêng mình…
– Một số gợi ý về dấu ấn sáng tạo trong thơ của các đỉnh cao Thơ Mới:
+ Xuân Diệu tạo dựng nên một “vũ trụ tình yêu đầy hoan lạc” (ý GS. Nguyễn Đăng Mạnh) để khẳng định vị trí ông Hoàng tình yêu, nhà thơ phát hiện mối quan hệ gắn kết con người – hiện thực bằng niềm khát khao giao cảm, bằng cảm xúc, cảm giác, bằng niềm vui,nỗi buồn của tâm hồn luôn sống vội vàng, cuống quít tận hưởng vẻ đẹp trần gian. Qua đó khẳng định vị trí nhà thơ mới nhất trong số các nhà Thơ Mới.
+ Hàn Mặc Tử là minh chứng sự phát tiết tinh hoa rực rỡ, phát triển sự sáng tạo từ thơ Đường luật đến thơ Lãng mạn và tiếp tục phát triển đến ranh giới siêu thực, tượng trưng trên tiến trình hiện đại hóa Văn học Việt Nam. Ông tạo dựng một thế giới khiến các tác giả Thi nhân Việt Nam như lạc vào một vườn thơ “rộng rinh và ớn lạnh”. Thế giới thơ Hàn Mặc Tử là “hương thơm”, “mật đắng”,”máu cuồng và hồn điên” thể hiện một khát khao tình người đậm đà. Trong thơ Hàn là sự trộn hòa kỳ lạ giữa thực và ảo, những câu thơ lấp lánh tài hoa…
+ Nguyễn Bính – “thi sĩ chân quê” tạo dựng một thế giới riêng của “trai hiền bạn với gái đồng trinh”, thấm đượm hồn quê, tình quê mang đậm phong vị Bắc Bộ. Trong khuôn khổ thi ca truyền thống, cảm xúc cá nhân được bộc lộ với nhiều cung bậc khi thiết tha dịu ngọt,lúc chua chát khinh bạc,mang tâm trạng tha hương sầu xứ ….
==> Các nhà thơ đã đóng góp những thế giới thơ riêng biệt nhưng góp phần tạo nên thế giới chung của tình cảm dồi dào với cuộc đời và con người.
* Mở rộng, nâng cao.
– Khẳng định vai trò chủ thể sáng tạo góp phần cho văn chương đến với cuộc đời thông qua con đường tình cảm. Đóng góp về nội dung – nghệ thuật trong tác phẩm giúp nhà văn định hình phong cách độc đáo.
– Cần tránh quá đề cao chủ quan dễ đi đến bóp méo, xuyên tạc sự thật, đi ngược lại những giá trị Chân – Thiện – Mỹ của cuộc sống.