Chuyên đề: Chế Lan Viên và quan niệm về thơ
Phần I. Con đường thơ Chế Lan Viên.
Chế Lan Viên là người có năng khiếu thơ từ nhỏ, 17 tuổi,
ông đã xuất bản tập Điêu tàn, xuyên
suốt tập thơ là nỗi buồn không dứt về thân phận mất nước. Nỗi buồn ấy dù mơ hồ
nhưng có những nét đáng quí và có ảnh hưởng lớn đến toàn bộ sáng tác của nhà
thơ, đó là cơ sở để Chế Lan Viên nhận thấy ánh sáng của cách mạng, nhận đúng
con đường phải đi cho đời mình khi xảy ra sự lựa chọn quyết định. Ông có nhiều
phát biểu mang chất tuyên ngôn nghệ thuật đưa ra nhiều định nghĩa về thơ, diễn
biến theo hành trình sáng tác hơn 50 năm. Cả cuộc đời cầm bút, con đường thơ
của Chế Lan Viên trải qua nhiều giai đoạn với những biến đổi trong tư tưởng và
nghệ thuật nhưng hành trình thơ thơ ấy vẫn thống nhất trong một con người - con
người Chế Lan Viên.
I.Trước cách mạng tháng Tám:
Chế Lan Viên là một trong số những nhà thơ tiêu biểu của
phong trào thơ ca lãng mạn với xu hướng thoát ly hiện thực nhưng ở ông ta cũng
thấy có quan điểm thẩm mỹ riêng. Ông đã viết trong lời tựa tập Điêu tàn “ Làm thơ là làm sự phi thường.
Thi sĩ không phải là người. Nó là người Mơ, người Say, người Điên. Nó là Tiên,
là Ma, là Quỷ, là Tinh, là Yêu. Nó thoát hiện tại, nó xáo trộn dĩ vãng, nó ôm
trùm tương lai. Người ta không thể hiểu được vì nó nói những cái vô nghĩa, tuy
rằng những cái vô nghĩa hợp lý”. Quả là Chế Lan Viên cùng với
trường thơ Loạn “ muốn xác lập một thế giới mới trong thi ca khác với quan hệ
của đời thường” ( Hà Minh Đức ).
Đó là một thế giới dị thường với bóng tối, mồ hoang, sọ người, xương khô, máu
tủy và hồn ma vất vưởng :
Nhắm mắt lại cho cả bầu bóng tối
Mênh mang lên bát ngát tựa đêm sầu
Cho hồn phách say sưa trong giả dối
Về cõi âm chờ đợi đã bao lâu
Cách nhìn
thế giới như vậy chịu ảnh hưởng khá rõ ở quan điểm mỹ học của thơ tượng trưng
Pháp. Chế Lan Viên say mê cái phi thường, ông đã tìm thấy cái” thiêng liêng” ở
các nền tôn giáo và sau này ông bắt gặp cái “ cao cả phi thường “ trong hiện
thực cách mạng của dân tộc. Về phương diện nghệ thuật “ cái phi thường “ chính
là sự độc đáo. Và đây chính là nét nhất quán trong phong cách thơ ông.
II. Sau cách mạng tháng Tám:
Chế Lan Viên từ bỏ thế giới quan siêu hình với quan điểm
mỹ học có phần cực đoan “ kinh dị “ và từng bước hoàn thiện thế giới quan cộng
sản hiện thực cách mạng, khơi nguồn sáng tạo đưa ông từ lầu thơ với thế giới
quan của “ trăng, mây “ về với cuộc sống thực tại của nhân dân. Ông nói về “
kinh nghiệm tổ chức sáng tác “ Trước hết chúng ta làm văn nghệ
là để tả sự thật. Vả chăng sau này muốn truyền cảm cho người đọc, cố nhiên
không chỉ nói cái cảm xúc của ta mà nói cả sự việc” , ông nhìn
lại thơ mình và” Bỗng hối tiếc nghìn câu thơ nước chảy - Chửa
vì người bằng một bữa cơm ăn “.Ông
dứt khoát lựa chọn nhiệm vụ mới cho thơ: “Thơ xưa chỉ hay than mà ít
hỏi- Đảng dạy ta thơ phải trả lời”, “Xưa tôi hát mà
bây giờ tôi tập nói- Chỉ nói thôi mới nói hết được lời” Ông
đem thơ phục vụ lợi ích cách mạng, xem thơ là vũ khí để cải tạo tư tưởng, xung
trận chiến đấu:
Đây là
quan niệm phù hợp với thời đại. Niềm say mê, sự độc đáo phi thường vẫn còn
nhưng nhà thơ không để thơ rơi vào cõi siêu hình huyền bí mà để nó giữa hiện
thực hào hùng của nhân dân.
III. Những năm cuối đời:
Quan điểm sáng
tác văn học phục vụ sự nghiệp cách mạng, phản ánh hiện thực xã hội vẫn tiếp tục
được phát huy. Nhưng càng về sau, Chế Lan Viên càng bộc lộ những băn khoăn trăn
trở. Chưa bao giờ là dễ dãi trong nhận thức, ông không chấp nhận những lối chạy
theo thời thượng, học đòi khi đất nước đang trong bước chuyển mình mạnh mẽ, ông
hiểu rõ mình cần làm gì để văn chương phù hợp với bước đi của lịch sử, ông sẵn
sàng chấp nhận câu thơ mình không còn “ nguyên sắc đỏ “ với cuộc đời mà:
Anh chỉ mong câu thơ anh sống khỏi một đêm, có ích quá một ngày
Đúng cái đêm bà mẹ chết con cần một câu thơ đỡ khổ
Đúng cái ngày người chiến sĩ trên chiến hào ôm xác bạn ngã vào tay
.
( Thơ bình phương - đời lập phương )
Nhưng bản
chất của nghệ thuật luôn không thay đổi nên ông rơi vào mâu thuẫn. Khi chiêm
nghiệm về thơ:
Ở đất nước ta ba tuổi đã rời nôi lên ngựa sắt
Tuổi trẻ chơi lau đã chơi trò đánh giặc
Kiếm làm cho con rùa không thể yên thân trong cuộc sống thường...
Thơ chỉ sống một phần cho mình còn ba phần cho nhiệm vụ
Nghĩ mà thương!
(Sử)
Những kinh nghiệm từng trải và
quỹ thời gian còn lại quá ít ỏi khiến nhà thơ không ham mê “ làm sự phi thường
“ nữa. Ông mong muốn “ Vực sự sống ba chiều - lên
trang thơ hai mặt phẳng “ nhưng không thể, ông chới với hoang
mang ngay những vấn đề cá nhân ông chọn lựa. Ông muốn tìm về cái bản ngã, đúng
với yêu cầu của nghệ thuật “ Tất cả phải lấy mình ra che chở - Tự sâu thẳm đời mình, sâu thẳm tận cùng sâu “
Nhưng rồi bệnh tật lấy đi mong
ước cuối đời ấy; những Di cảo là sự
bổ sung đầy ý nghĩa cho hành trình tự nhận thức và sáng tạo của ông. Ở
giai đoạn này, ông cố gắng tìm đến sự dung hòa các quan điểm về thơ, các hình
thức tư duy thơ vốn tách bạch dẫn đến trái ngược ở hai giai đoạn trước:
Người dệt thảm mặc áo rách và cuộc đời xám xịt
Ấy thế nhưng cái nghề dệt mà, ta cứ dệt thảm hoa
Lật trái trang thơ may ra anh đọc được trên kia đời tôi một ít
Thơ không phản ảnh đời mình thì nó cũng phản ảnh những mùa hoa
( Dệt thảm)
Chế Lan Viên là nhà thơ luôn có sự tìm tòi, khám phá và
sáng tạo. Ông luôn biết kế thừa, phát huy những tinh hoa của nền văn chương và
nhân loại để mang lại cho tác phẩm của mình một vẻ đẹp riêng. Ông có sự nhận
thức sâu sắc về chức năng của văn chương và sứ mệnh thiêng liêng của người nghệ
sĩ đối với cuộc sống.
Thành tựu nghệ thuật Chế Lan Viên đã đạt được trong quá
trình sáng tạo chính là những đóng góp lớn lao đối với sự phát triển của thơ ca
Việt Nam nói riêng và văn chương Việt Nam nói chung.
Phần II. Quan niệm về thơ, sự luận bàn về thơ
của Chế Lan Viên.
Cũng như
một số nhà thơ khác, Chế Lan Viên đã bàn luận khá nhiều về thơ
qua văn xuôi chính luận và sau này được tập hợp lại trong những cuốn tiểu luận
phê bình như: “Suy nghĩ và bình luận”, “Phê bình văn học”, “Bay theo đường dân
tộc đang bay”, “Từ gác Khuê văn đến quán Trung Tân”, “Nghĩ cạnh dòng thơ”,
“Ngoại vi thơ”, “Nói chuyện thơ văn”, “Vào nghề” ... Ông cũng bộc lộ quan niệm
của mình về thơ qua các bài giới thiệu, các bài “tựa” và “bạt” cho một số tác
giả mà ông am hiểu và quý trọng như Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Yến Lan, Tế
Hanh. Bằng vốn sống và vốn văn hoá uyên bác, bằng trí tuệ sắc sảo và trực cảm
nghệ thuật tinh tế, những trang tiểu luận - phê bình thơ
của Chế Lan Viên đã đem đến nhiều thú vị bất ngờ cho độc
giả.
Phát biểu, bàn
luận về thơ qua hàng loạt những bài văn chính luận kể trên, dường như Chế Lan Viên vẫn
cảm thấy mình chưa nói được nhiều về thơ. Sự suy nghĩ, trăn trở của ông còn
được tiếp nối liên tục qua một loạt các bài thơ viết về thơ. Đó chính là những
quan niệm, những nung nấu, kiếm tìm của Chế Lan Viên về thơ
nhưng đã được hoá thân thành các hình tượng lung linh lắm sắc màu. Ở những bài
thơ ấy, những nguyên lý trừu tượng khô khan đã được ông nâng lên thành cảm xúc,
hình ảnh, âm điệu ... nên dễ đi vào lòng người và để lại ấn tượng lâu bền. Từ
mấy chục năm qua, Chế Lan Viên đã được nhiều người thừa
nhận là “nhà vô địch” về các tuyên ngôn thơ cả trong lý luận và trong sáng tác.
Và khi cần đến những dẫn chứng làm sán tỏ lý luận về thơ, mọi người thường nghĩ
ngay đến Chế Lan Viên. Nhìn tổng quát, chúng ta có thể thấy
những quan niệm về thơ của Chế Lan Viên phát triển, biến
đổi song hành cùng các chặng đường tư tưởng và sáng tác của ông. Nếu xét theo
chiều lịch đại, quan niệm về thơ của Chế Lan Viên vận động
qua ba thời kỳ: trước năm 1945, sau năm 1945 đến hết thập niên 70 và những năm
80 được thể hiện tập trung qua ba tập Di cảo thơ.
1.Trước cách mạng, cùng với Hàn Mặc
Tử, Chế Lan Viên là chủ tướng của nhóm thơ Bình Định với
cái tên khá rùng rợn Trường thơ loạn. Thay mặt cho nhóm thơ
này, ChếLan Viên đã có một tuyên ngôn về thơ nổi tiếng trong lời
tựa tập Điêu tàn: “Hàn Mặc Tử nói: làm
thơ tức là điên. Tôi nói thêm: làm thơ là sự phi thường. Thi sĩ không phải là
người. Nó là người Mơ, người Say, người Điên. Nó là Tiên, là Ma, là Quỷ, là
Tinh, là Yêu. Nó thoát hiện tại, nó xối trộn dĩ vãng. Nó ôm trùm tương lai”.
Chính cái quan niệm độc đáo khác người này đã hướng hồn
thơ Chế Lan Viên đến một thế giới đầy “Kinh dị, lẻ loi và
bí mật” như Hoài Thanh đã nhận xét về Điêu tàn.
Tuy không có bài thơ nào
viết riêng về thơ, nhưng rải rác đây đó trong tập Điêu tàn, chúng ta có thể
thấy có một số câu đã thể hiện khá đậm quan niệm
của Chế Lan Viên về thơ.
* Đối
với ông, thi sĩ phải là người thoát ly triệt để thực tại để tìm giải thoát ở
cõi siêu hình bất tận:
Hãy
cho tôi một tinh cầu giá lạnh
Một
vì sao trơ trọi cuối trời xa
Để
nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh
Những
ưu phiền, đau khổ với buồn lo.
(Những
sợi tơ lòng)
·
Đối
với ông, cảm xúc thẩm mỹ lẫn đối tượng thẩm mỹ của thơ chính là nỗi đau khổ
khôn cùng của thi nhân trên cõi trần gian.
-Trời hỡi trời hôm nay ta chán hết
Những sắc
màu hình ảnh của trần gian
(Tạo
lập)
-Vì u buồn
là những đoá hoa tươi
Và đau khổ
là chiến công rực rỡ
(Đừng
quên lãng)
Với một quan niệm về thơ như
vậy lại gặp điều kiện mảnh đất Bình Định với gợi mở là thành cổ Đồ Bàn cùng
những ngọn tháp Chàm chứng tích của một dĩ vãng đau thương, uất hận đã hướng
thơ Chế Lan Viên càng ngày lạc sâu vào cõi siêu hình, mờ ảo
để đến mức ông phải hoảng loạn thốt lên “Có ai không nắm giùm tay ta lại! Hãy
bẻ giùm cán bút của ta đi ! Lời thơ ta đầy những điệu sầu bi. Đầy hơi thịt, yêu
ma cùng sắp chết” (Tiết trinh). Và ông nghi ngờ chính sự tồn tại, hiện hữu của
mình “Ai bảo dùm: Ta có, có ta không?”.
Cũng chính quan niệm “làm
thơ là làm sự phi thường”, quyết không đi lại những con đường của các nhà Thơ
Mới thời ấy, đã khiến cho Điêu tàn trở thành hiện tượng độc nhất vô nhị trong
lịch sử thơ ca dân tộc. Ngay từ lúc ấy,
chính Chế Lan Viên đã ý thức được sự cô đơn trên nẻo đường
riêng của thơ mình:
Đường về thu trước
xa lắm lắm
Mà kẻ đi
về chỉ một tôi.
2. Sau Cách mạng.Trong
lúc Chế Lan Viên đang lạc vào cõi hư vô, siêu hình và ngày
càng bi quan; bế tắc vì chưa tìm được hướng đi cho đời, cho thơ mình, thì cách
mạng Tháng Tám bùng nổ. Chính cách mạng đã làm “Thay đổi đời tôi, thay đổi đời
tôi” như sau này ông từng khẳng định. Từ một người mộng mơ, suy tưởng về thế
giới huyền ảo, ông trở thành một người hành động. Ông chân thành tham gia vào
hoạt động cách mạng cùng quần chúng nhân dân. Ông sung sướng “được quên thơ đi”
như quên một cái già không thiết thực với cuộc sống sôi động trước mắt. Tuy tư
tưởng chính trị và tình cảm của ông rất gần với cách mạng, với nhân dân, nhưng
tư tưởng nghệ thuật và tư duy nghệ thuật của ông vẫn còn một khoảng cách khá
xa. Do đó, phải mất hơn 10 năm trăn trở trong cuộc “nhận đường”, Chế
Lan Viên mới có được sự thay đổi căn bản về quan niệm nghệ thuật và
tư duy thơ. Tập thơ Ánh sáng và phù sa ra đời vào năm 1960 đã đánh dấu một bước
ngoặt trong sự nghiệp thơ của Chế Lan Viên. Ánh sáng của Đảng và
phù sa của cuộc đời đã giúp ông chiến thắng được nỗi đau riêng để vương tới
niềm vui chung của dân tộc. Và từ đây, những bài thơ hay nhất của ông lần lượt
xuất hiện. Và cũng từ đây, thơ ca cách mạng có được một loạt bài thơ viết về
thơ mang dấu ấn phong cách rất đậm nét của Chế Lan Viên.
Qua
thơ viết về thơ của Chế Lan Viên, chúng tá có thể thấy rõ quá
trình chuyển hướng thơ của ông hoàn toàn không dễ dàng, đơn giản.
Xưa phù du mà nay đã phù sa
Xưa bay đi
mà nay không trôi mất
Cho đến
được lúa vàng đất mật
Phải trên
lòng bao trận gió mưa qua.
(Thư
gửi Tế Hanh)
Và cũng chính là nhờ “bao
trận gió mưa qua” ấy trong cuộc đấu tranh, phấn đấu để tự vượt lên mình đã
giúp Chế Lan Viên “sáng mắt sáng lòng” trên con đường thơ
cách mạng, để ông càng thêm tin tưởng, tự hào thực hiện sứ mạng vinh quang của
một nhà thơ chiến sĩ.
* Trước
hết, Chế Lan Viên đặc biệt quan tâm đến những vấn đề cơ bản
nhất của thơ. Đó là mục đích của thơ,
đối tượng và mạch nguồn sức sống của thơ, là nhiệm vụ của nhà thơ trong sự
nghiệp cách mạng. Và để giải đáp được các vấn đề
trên, Chế Lan Viên đã trả lời dứt khoát được câu hỏi về bản
thể từ lâu đã làm ông suy tư, trăn trở:
“Ta
là ai? Như ngọn gió siêu hình
Câu
hỏi hư vô thổi nghìn nến tắt
“Ta
vì ai?” Khẽ xoay chiều ngọn bấc,
Bàn
tay người thắp lại triệu chồi xanh.
(Hai
câu hỏi)
Từ “Ta là ai?” đến “Ta vì
ai?” là cả hai chân trời khác nhau trong sáng tạo thơ ca, là cả hai hướng đối
lập nhau trong quan niệm nghệ thuật. Mục đích của thơ ông giờ đây đã khác xưa:
thơ phải vì cách mạng, vì nhân dân mà phục vụ, mà hướng tới. Mục đích đã thay
đổi thì đối tượng thơ cũng thay đổi. “Tôi viết cho ai? Cho tất cả mọi người...
Cho ai cũ thơ tôi làm ướt áo. Nay họ về sưởi ấm giữa thơ tôi” (Nghĩ về thơ).
Sống gắn bó với nhân dân,
với thực tiễn cuộc đời, Chế Lan Viên đặc biệt quan tâm đến
mối quan hệ gắn bó hữu cơ giữa thơ và đời, đời và thơ. Cũng là một nguyên lý
quen thuộc của quan niệm Mácxít về văn nghệ: cuộc đời là cội nguồn, là sức sống
của nghệ thuật, nhưng vào thơ Chế Lan Viên, chân lý ấy trở nên
cụ thể hơn, sinh động hơn, dễ đi vào lòng người hơn nhờ những cách diễn đạt
lung linh hình ảnh đa dạng của thơ ông:
-Chẳng có
thơ đâu giữa lòng đóng khép.
-Cuộc sống
đánh vào thơ trăm nghìn lớp sóng.
Chớ ngồi
trong phòng ăn bọt bể anh ơi!
-Sau câu
thơ hồi hộp những tâm tình
Những vui
buồn đời ký thác cho anh.
Từ tháp ngà của nghệ thuật,
của cái tôi cá nhân quẩn quanh bế tắc trước đây, Chế LanViên đã
từng xót xa và thấm hiểu thứ thơ “vô ích” “cách xa” “đối lập” với cuộc đời
thực: “Thơ xuôi tay như nước chảy xuôi dòng”, từ đó ông càng thấm thía thơ hôm
nay cần có ích. Hãy bắt đầu từ nơi ấy mà đi. Và để thơ hoàn thàNh sứ mệnh cao
cả, nhà thơ cần hoà mình vào cuộc sống của nhân dân, phải đi đến “Trăm miền đất
nước”, để lắng nghe và rung động với âm thanh ríu rít, tràn đầy sức sống của
cuộc đời.
Đi ra, lấy cuộc đời dân làm cuộc đời mình
Cơn nắng,
cơn mưa làm điều suy nghĩ
Một tiếng
chim gù cũng đến nơi rừng lạ để mà nghe.
(Nghĩ
về nghề, nghĩ về thơ, nghĩ...)
Một lần khác, quan niệm “nhà
thơ phải bám sát cuộc sống hiện thực” lại được ChếLan viên hình
tượng hoá thành hình ảnh con tằm ăn trăm vạn lá dâu xanh, con ong cần mẫn hút
nhụy của những vườn hoa trăm miền để tạo ra thứ tơ óng ả, tạo nên chất mật ngọt
cho đời.
-Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành mật
Mỗi giọt
mật thành đòi vạn chuyến ong bay
Nay rừng
nhãn non Đoài mai rừng cam xứ Bắc
Ngọt mật
đồng bằng mà hút nhụy tận miền Tây.
(Ong
và mật)
-Dù ong
phải bay ngàn cánh bay mới giọt mật
Hay tằm
giam mình tại chỗ nhả ra tơ,
Trong sáng
tạo chúng ở hai đầu cực
Nào con
nào đã được nhởn nhơ.
(Thơ
bình phương - Đời lập phương)
Như vậy hiện thực cuộc sống chính
là cội nguồn, bầu sữa mẹ nuôi dưỡng mọi
hồn thơ chân chính.Song,đến cuộc sống như thế
nào lại là điều Chế Lan Viên luôn nghĩ suy để tìm câu trả
lời đúng nhất. Đối với ông, thu thập vốn sống mới chỉ là bước khởi đầu, bởi
sáng tạo thơ không phải là sự sao chép một cách thụ động những gì trông thấy,
nghe thấy, mà là một quá trình lao tâm khổ trí, là sự nghiền ngẫm về hiện thực,
là ấp ủ nung nấu sáng tạo lại vốn sống, vốn thực tiễn để tạo nên chất thơ tinh
lọc, đẹp đẽ bởi trí tuệ, tài năng và tâm hồn của nhà thơ. Đó là thứ “muối thơ”
kết tinh từ đại dương bao la của hiện thực.
Cái kết tinh của mỗi vần thơ và muối bể
Muối lắng
ở ô nề và thơ đọng ở bề sâu.
(Nghĩ
về thơ)
Hiện
thực cuộc đời phải biến thành câu chữ, hình ảnh, âm điệu trên mỗi trang thơ và
từ đấy sức mạnh, sức nặng của sự sáng tạo nghệ thuật mà nhà thơ tác động trở
lại với cuộc đời, và tô điểm thêm cho bao sắc đẹp của sự sống.
Mỗi câu thơ là một lần lặn vào trang giấy.
Lặng vào
đời rồi lại ngoi lên.
(Nghĩ
về đời, nghĩ về thơ, nghĩ ...)
Chế Lan Viên là
người trở đi trở lại nhiều lần bàn luận và khẳng định con mắt nhìn đời của nghệ
sĩ. Đó không phải là cách nhìn một chiều, xuôi chiều đơn giản về hiện thực, mà
là cái nhìn đầy sức phát hiện ở “cái bề sâu, ở cái bề sau và ở cái bề xa”.
Thơ không chỉ đưa ru mà còn thức tỉnh Không
chỉ “ơi hời” mà con đập bàn quát tháo lo toan,....
Trong xu hướng thơ của ta
trong những năm 60,70 đang còn quá thiên về việc làm say mê người đọc hơn là
tác động vào trí tuệ của họ thì hướng thơ có tác dụng thức tỉnh con người trên đây
của Chế Lan Viên là một khuynh hướng thơ có nhiều ý nghĩa
đổi mới. Muốn làm được điều này, Chế Lan Viên quan niệm nhà
thơ phải “chịu suy nghĩ”, phải đào sâu, lật đi lật lại các vấn đề để phát hiện
ra cái mới trong mạch ngầm của hiện thực, để có cách nói mới, tác động sâu sắc
vào trí tuệ người đọc. Do đó chúng ta hiểu vì sao ngay từ cách đặt tiêu đề các
tập thơ và cách đặt tiêu đề các tập thơ và các bài thơ như: Ánh sáng và phù sa,
Hoa ngày thường chim báo bão, Hoa trên đá, Người đi tìm hình của nước, Đối
thoại mới về câu chuyện cổ v.v... và hàng loạt bài thơ có tiêu đề “nghĩ” (Nghĩ
suy 68, Nghĩ về thơ, nghĩ...) đã là sự biểu hiện cho những nghĩ suy, trăn trở
thường trực trong tư duy thơ của Chế Lan Viên. Ta hiểu vì sao
phẩm chất trí tuệ trong thơ ông lại trở thành một hạt nhân toả sáng lấp lánh
bao sắc màu trên mỗi trang thơ, trở thành một nét phong cách tiêu biểu nhất của
thơ ông.
Không chỉ quan tâm và bộc lộ
quan niệm của mình về các vấn đề cốt lõi của nội dung
thơ, Chế Lan Viên còn hết sức chú ý đến các vấn đề của hình
thức thơ. Ông đã công khai tuyên ngôn rất hàm súc, rất ấn tượng về sức mạnh và
vai trò của hình thức trong thơ:
Hình thức cũng là vũ khí
Sắc đẹp
câu thơ cũng phải đấu tranh cho chân lý
(Nghĩ
về thơ)
Bây giờ đọc lại những câu
thơ này có lẽ mọi người chẳng thấy điều gì mới mẻ. Nhưng nếu ta đặc nó vào thời
điểm những năm 60, khi ý thức nghệ thuật của toàn xã hội (từ sáng tác, nghiên
cứu đến phê bình, tiếp nhận nghệ thuật) trong một hoàn cảnh chiến tranh ác liệt
đã đặc biệt đề cao mặt nội dung tư tưởng của tác phẩm, đề cao chức năng giáo
dục của văn nghệ thì dĩ nhiên rất nhiều người sợ bị quy cái mũ “duy mỹ”, “vị
nghệ thuật”, nếu đề cao vấn đề cái đẹp, đề cao hình thức của nghệ thuật. Do
vậy, quan niệm trên đây của ChếLan Viên trở nên khá táo bạo.
Trong tiểu luận, phê bình, ông cũng khẳng định: “Đi tìm cái thiện, cái chân nhưng phải biểu hiện ra bằng hình thức đẹp”
(Nghĩ cạnh dòng thơ – tr.136). Ở một bài thơ
khác, Chế Lan Viên lại nhắc quan niệm trên bằng hình ảnh
khác:
Đời một
thi sĩ là thơ, như đời một nông dân là lúa
Nhan sắc
của viên ngọc ư? Có khi là nhiệm vụ nó đấy rồi!
(Sổ
tay thơ)
Xét cho cùng, cái cốt tử làm
cho tên tuổi nhà thơ, cái cốt tử khiến cho thơ sống mãi không chỉ là ở tư
tưởng, ở nội dung hay câu chữ. Tất cả là sẽ vô nghĩa nếu nó nằm trong bài thơ
dở. Thơ hay, đó là mục đích tối hậu, là cái duyên chinh phục của
thơ. Chế LanViên đã nhận thức rất rõ điều ấy:
Câu thơ hay như người con gái đẹp
Ở đâu, đi
đâu cũng lấy được chồng.
(Sổ
tay thơ)
Và muốn trở thành cô gái đẹp
ấy, nhà thơ phải luôn tìm tòi, đổi mới, sáng tạo về hình thức (“Cuộc đời cần đẻ ra nhiều hình thức/ Dù là
ngọc thì cũng nhiều viên ngọc/ Chứ phải đâu cứ xanh xanh vĩnh viễn
một màu”). Nhiều khi nhà thơ phải biết vượt qua văn phạm cứng nhắc, vượt
qua những “xác chữ” để vương tới vẻ đẹp “phi lý” của thơ:
Đừng làm những câu thơ khuôn mình theo văn
phạm
Như những
cây quá thẳng chim không về.
(Sổ
tay thơ)
Cũng
có khi nhà thơ phải là người “làm xiếc với ngôn từ” để sáng tạo ra những hình
ảnh, những ý tứ mới lạ trong thơ:
Căng cái dây hình ảnh ngữ ngôn ngang qua
Vực tâm
hồn sâu thẳm
Không bao
giờ anh ở độ chùng dây.
(Nghĩ
về thơ)
Hình
thức thể loại đối với Chế Lan Viên là phải hợp lý, cái gì
đáng viết dài, cái gì đáng ngắn gọn là nội dung quy định. Ông khuyên người và
cũng tự nhắc mình:
Đừng bóp cây đa thành củ thuỷ tiên
Cô đúc bản
trường ca thành bài tứ tuyệt
(Sổ
tay thơ)
Chế Lan Viên cũng
là người sớm nhận ra một điều rất quan trọng của thơ: cần phải có giọng điệu
thơ thích hợp với thời đại mới:
Xưa tôi hát mà bây giờ tôi tập nói
Chỉ nói
thôi mới nói hết được đời
Bao giờ
thuộc hết tiếng của đời, ta xin hát lại
Khúc hát
hay đâu có lắm lời
(Sổ
tay thơ)
Nói đúng ra, xưa, ông có
giọng thơ ảo não, đau thương, rên rỉ. Ông khóc than cho một dân tộc đã bị tiêu
vong, ông gào thét một nỗi chán chường, uất hận trước thực tại. Nay, thơ ông
cần phải là tiếng nói khoẻ khoắn về cuộc đời, là tiếng thét căm thù quân xâm
lược, là khúc ca hùng tráng ngợi ca Tổ quốc, là tiếng thủ thỉ tâm tình với
người thân và bè bạn... Và như vậy, tựu trung lại khi bàn luận, phát biểu quan
niệm của mình về hình thức thơ,Chế Lan Viên sớm nhận ra từ kinh
nghiệm từng trải của mình cái lý của hình thức. Đó không chỉ giản đơn là các
biện pháp nghệ thuật, mà sâu xa hơn, đó là bản chất của sự thống nhất giữa nội
dung và hình thức để tạo nên một bài thơ hay. Đó cũng chính là một đóng góp
của Chế Lan Viên vào lý thuyết thi pháp học hiện đại.
3.Khi viết bài thơ đề tựa cho tập thơ “Hoa trên đá”, xuất bản
năm 1984, Chế Lan Viên thổ lộ:
Đời ngoài tuổi năm mươi
Mong gì
hương sắc lạ
Mọc chùm
hoa trên đá
Mùa xuân
đâu chịu lùi.
Không phải. Bạn đọc nào cũng
nhận ra rằng mùa xuân trong thơ ông vẫn bừng nở những hương sắc mới lạ, lại
quyến rũ bao người, ngay cả khi ông ngoài sáu mươi, thậm chí cận kề cái chết.
Với ba tập Di cảo thơ, mà phần lớn những bài thơ này được viết ở cuối đời, ông
vẫn tiếp tục làm ngạc nhiên độc giả. Hàng loạt những bài thơ trong di cảo vẫn
tiếp nối những suy nghĩ không ngừng, không nghỉ
của Chế Lan Viên trong quan niệm về thơ ở một hoàn cảnh xã
hội mới.
Nếu nhìn khái quát cả ba tập
di cảo, chúng ta có thể nhận ra khá rõ điều này: quan niệm về thơ ông có nhiều
thay đổi, thậm chí đối lập với các thời kỳ trước.
Chẳng
hạn, nếu ở giai đoạn thơ chống Mỹ, Chế Lan Viên sung sướng
tự hào biết bao khi nhà thơ có sứ mạng vinh quang của một nhà thơ – chiến sĩ: “Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến luỹ / Bên
những chiến sĩ ngoài đồng và hạ trực thăng rơi”, thì nay trở lại đời thường,
vị trí của nhà thơ trở nên thật khiêm tốn:
“Tôi chỉ là một nhà thơ cưỡi trâu
Đánh giặc
cờ lau...
Đã lâu ta
không còn nghe hồn lau gọi nữa
Chỉ nghe
danh vọng ầm ào
Vinh quang
xí xố ....”
(Cờ
lau Đinh Bộ Lĩnh)
Và
trong một hoàn cảnh xã hội đầy biến động phức tạp, các thang giá trị thay đổi
đến bất ngờ, có lúc ông đã phẫn uất thốt lên:
“Giờ là thế giới của xe cúp, tivi, phim màu
ngũ sắc
Của quyền
lực tuổi tên đốp chát
Vị trí nhà
thơ như rác đổ thùng”
(Thời
Thượng)
Nếu
trước đây, ông đề cao, khẳng định và ước mong thơ mình thành “Tiếng sáo thổi lòng thời đại/ Thành giao
liên dẫn dắt đưa đường”, thì nay ở những năm tháng cuối đời, ông thật sự
xót xa, cay đắng nhận ra
“Tôi chưa có câu thơ nào
Giúp người
ấy nuôi đàn con nhỏ
Giữa buồn
tủi chua cay vẫn có thể cười”
“Ôi văn
chương có lỗi với bao người”,
“Nghìn lẻ
câu viết ra
Người ta
quên cả một nghìn”
“Chữ nghĩa
thơ anh, nước ốc nhạt phèo”....
Chế Lan Viên cũng
viết nhiều bài thơ có tính chất tổng kết về đời thơ mình. Nhưng khác với một số
bài thơ “nhìn lại” thời “Ánh sáng và phù sa” trước đây (nhìn lại là để tự kiểm
điểm, nhằm dứt khoát dứt bỏ một giai đoạn thơ lạc hướng trước cách mạng, để
thêm tin tưởng vào hiện tại), những bài thơ sau này như đem toàn bộ thơ ông lên
bàn cân để chính ông ngồi trầm tư cân đong thành những còn - mất, được – thua,
để nhận ra những khiếm khuyết của thơ mình mà một thời khó có thể nói ra. Tổng
kết lại thơ mình không phải để phủ nhận, quay lưng, chối bỏ quá khứ mà là sự
phản tỉnh, tự vấn đầy ý thức trách nhiệm với thơ của mình hôm nay. Nhờ cái bất
ổn, cái xôn xao, xáo động của tư tưởng và tâm hồn ấy
mà Chế Lan Viên đã gợi mở biết bao điều thú vị, bất ngờ qua
các trang di cảo:
Câu thơ phải luôn luôn bất ổn và xôn xao
Không thể
nằm yên mà ngủ được nào.
(Bất
hoàn toàn)
Góc nhìn, tầm nhìn của thơ ông giờ đây không còn ở
tư thế cao vòi vọi – tư thế của cái ta cộng đồng đứng ở đỉnh cao của thời đại
để phát ngôn cho toàn dân tộc mà chính từ đời thường, từ chính cuộc sống cá
nhân với bao đa đoan, phức tạp của kiếp người. Trước đây, dù ông luôn tâm niệm
nhà thơ “phải đào, phải xới, phải chắt, phải lọc” các chất liệu của đời sống,
phải nhìn vào ba chiều của hiện thực để đưa vào trang thơ “hai mặt phẳng”, thì
vẫn chỉ để đi đến một mục đích: tìm ra chất thơ cao đẹp của cuộc đời. Giờ đây,
cuộc sống vào các trang thơ từ nhiều phía, nhiều góc độ: mặt phải và mặt trái, bề
nổi và chiều sâu, niềm vui và nỗi đau, thế giới hữu hình và vô hình... Do đó,
nhiều mặt còn khuất lấp của hiện thực và tâm trạng như được phơi trần trên các
trang thơ di cảo. Đó cũng chính là hành trình đi tìm lại chính mình
của Chế Lan Viên
“Con rồng ôm hạt châu
Rồi nhả ra
Rồi tìm
lại
Ta là ta
mà luôn bối rối?
Tìm lại ta
...”
(Bất
hoàn toàn).
Để tiếp tục sáng tạo ở tâm
thế mới của đời thướng, Chế Lan Viên đã chủ động thay đổi
giọng điệu trang nghiêm xen vào giọng điệu cười cợt, giọng xót xa phẫn uất, xen
lẫn giọng tự trào hóm hỉnh, giọng độc thoại đan vào giọng đối thoại, giọng trữ
tình thấm đẫm cảm xúc bên cạnh giọng tự sự khách quan lạnh lùng, v.v...Nhưng
nổi bật hơn cả vẫn là cái giọng trầm buồn của một thi nhân đang trầm tư, chiêm
nghiệm, triết luận về thế sự và con người.
Ba tập di cảo thơ
của Chế Lan Viên ngổn ngang bao ý tưởng, quan niệm về thơ
còn đang ở dạng phác thảo: từ những vấn đề cốt thiết của bản chất thơ đến bao
chuyện thuộc về kỹ thuật của công việc làm thơ. Ông đã ra đi nhưng còn bao dự
định chưa thành, bao câu hỏi còn vương vấn chưa đủ lời giải đáp. Và những câu
trả lời của Chế Lan Viên không phải không còn những điều bất
cập. Song có một điều mà không ai có thể phủ nhận được – Đó là ý thức trách
nhiệm rất cao của ông về thơ trong suốt cả cuộc đời.
Phần
III. Quan niệm về thơ và bạn đọc
- Nhà
thơ và bạn đọc là tri âm.
Theo Chế Lan Viên, “giữa tác giả và độc giả có mối quan hệ tri âm tri
kỷ, nghe một chữ cũng hiểu nhau, có khi chỉ cần hiểu ngầm” (2). Ông còn chỉ rõ:
đây mà mối quan hệ biện chứng. Người đọc là niềm khắc khoải tri âm của nhà thơ:
“Tuổi tên là phù vân/Ông chỉ mong ta bền một chữ tâm/ Nhỏ một giọt sương người
trên khoé mắt/ Cái Nguyễn chờ là giọt lệ hồi âm”. (Lệ hồi âm). Và ngược lại,
nhà thơ cũng chính là niềm khắc khoải tri âm của người đọc:
Bạn
đọc cần những bài thơ như tâm hồn thứ hai của họ.
Ngoài
tâm hồn họ ra, họ cần thêm một tâm hồn.
Sao anh
tả cảnh, tả nhà, tả ao, tả phố...
Để thêm
anh vào họ rồi, cho họ trăm thứ rồi, họ vẫn cô đơn.
(Thơ
và bạn đọc)
Riêng về mối quan hệ giữa người đọc
với nhà thơ, Chế Lan Viên còn chỉ rõ: “Người
đọc tìm đến nhà thơ, là để đòi hỏi một cách sống, không phải chỉ hỏi
lý tưởng như với một nhà triết học, mà hỏi cách cảm xúc, cách thương, cách nhớ,
cách giận, cách ghét như với một người yêu”(3). Bởi lẽ nói đến sáng tạo và
tiếp nhận là nói đến cuộc đối thoại giữa tác giả và người đọc thông qua tác
phẩm. Cuộc đối thoại ấy là cuộc đối thoại của những kẻ tri âm, của những tâm
hồn đồng điệu tìm đến những tâm hồn đồng điệu. Quan niệm này của Chế Lan Viên
cũng tương đồng với quan niệm của Tố Hữu: “Thơ là chuyện đồng điệu. Nó là tiếng
nói của người nào đó đến với những người nào đó có sự cảm thông chung dựa trên
cơ sở đồng ý, đồng tình” (4) và rất gần với quan niệm: “bài thơ là sợi dây
truyền tình cảm cho người đọc” của Nguyễn Đình Thi (5). Thật ra quan niệm về
mối quan hệ tri âm của Chế Lan Viên cũng như của Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi đều
bắt nguồn từ quan niệm tri âm của lý luận tiếp nhận truyền thống phương đông:
“Tri âm thực là khó thay, cái âm thực là khó biết, người biết thực là khó găp.
Gặp được người tri âm nghìn năm mới có một lần” (Lưu Hiệp)(6). Song điều đặc
biệt của Chế Lan Viên ở đây là ông đã tiếp nhận nó một cách linh hoạt trên cơ
sở kết hợp với quan niệm tiếp nhận hiện đại. Với Chế Lan Viên, tri âm là chuyện
để suy tư, để suy tưởng, để đối thoại giữa nhà thơ và người đọc. Và mỗi độc giả
có một cách đọc khác nhau tuỳ vào tuổi tác, tâm lý, vị thế xã hội,... của mình:
“Đọc thơ, có người như nhà thực
vật/Đọc mùa quả, hoa chói mắt/Có người như nhà địa chất/Đọc ngầm cái gì ở sâu
trong đất,/Cái mạch ngầm văn bản phía sau văn./Kẻ đọc dương, người lại nghe cái
âm âm./Cái nhạc trưởng chỉ huy trong tiềm thức” (Đọc thơ mạch ngầm văn bản).
Tuy không đề cập đến “tầm đón đợi của người đọc”, một phát hiện có tính chất
hạt nhân của mỹ học tiếp nhận, nhưng quan niệm của Chế Lan Viên rất gần với
quan điểm của lý luận tiếp nhận hiện đại phương Tây.
Và cũng xuất phát từ quan niệm mới về người đọc, mà quan niệm về mối quan hệ
tri âm giữa nhà thơ với người đọc của Chế Lan Viên là quan niệm mở, chứ không
khép như quan niệm truyền thống. Với Chế Lan Viên, muốn có tri âm nhà thơ phải
chủ động hướng đến các loại người đọc:
Làm
thơ có lúc như lấy người điếc lác ù tai làm bạn tri âm,
Cứ phải
hét vào tai những tiếng nói thầm.
Làm thơ có
lúc là thi sĩ câm
Ra hiệu
bằng tay, bằng mắt, bằng toàn thân,
Đóng
kịch để nói điều rất thật
(Tri âm)
Và cái gốc của tri âm theo ông chính là ở tấm lòng, là sự cảm thông, độ lượng,
đồng cảm: “Người đọc người, thương nhau/Ta cần chi giữ kẽ/Ai tri âm tri kỷ/Xin
mở lòng trời bể/Gặp mỗi dòng mỗi ý/Tìm lòng ta phía sau” (Đề từ).
2. Nhà thơ - Người đọc: Sự đồng hành trong sáng tạo thơ ca
Lý thuyết tiếp nhận hiện đại đã chỉ ra rằng: người đọc không chỉ là
người tiếp nhận tác phẩm một cách thụ động mà là người lấp đầy khoảng trống
trong tác phẩm, là người đồng sáng tạo với nhà thơ bởi “Mỗi tác phẩm văn học là
một tiếng gọi” (J.P. Sartre)(7). Đây chính là tính chất mở của văn bản nghệ
thuật, là “điều kiện của mọi sự thưởng thức thẩm mỹ, và tất cả mọi hình thức
thưởng thức, nếu mang giá trị thẩm mỹ đều mở” (Umberto Eco)(8). Không biết Chế
Lan Viên đã tiếp cận lý thuyết tiếp nhận hiện đại ở thời điểm nào hay là sự gặp
gỡ của những tư tưởng lớn? Chỉ biết rằng những câu thơ ông viết về người đọc
như là sự chuyển hoá ngôn ngữ lý luận sang ngôn ngữ hình tượng và biểu cảm của
thơ:
“Rồi tác phẩm rời anh như con thuyền rời bến/Sống cuộc đời
riêng anh không dự kiến/Nó trôi đến các thời gian xa, những năm tháng mơ hồ/Với
ngọn gió anh thổi vào buồm trang giấy lúc xa bờ./(...)/Nhưng từ đấy bổ sung
anh, đối lập anh, tác phẩm sống riêng mình/May ra người ta tìm ở đáy thuyền,
hạt gạo, đó là anh” (Con thuyền).
Như vậy, trong quan niệm của Chế Lan Viên, người đọc hiển nhiên trở thành người
đồng sáng tạo với nhà thơ. Và sự sáng tạo của người đọc nhiều khi tạo ra cho
tác phẩm những ý nghĩa mới mà chính tác giả, người sáng tạo ra tác phẩm cũng
không ngờ đến. Điều này cũng rất gần với quan niệm của nhóm Xuân Thu Nhã Tập:
“Làm xong một bài thơ, người thi sĩ chưa thể gọi đã hoàn tất sáng tác của mình
mà phải chờ đợi một tác giả thứ hai, tức là độc giả” (9). Việc đồng sáng tạo
của người đọc cũng là một quy luật tất yếu trong tiếp nhận thơ ca. Bởi vì “không nên quan niệm tác phẩm như
một cái gì đó cố định, bất biến, trái lại về hình thức cũng như về nội dung, nó
mang ý nghĩa của một cuộc đối thoại” (Huỳnh Như Phương) (10). Và cuộc đối
thoại trong tác phẩm thơ chính là cuộc đối thoại giữa tác giả và người đọc mà
trong đó người đọc là người đồng sáng tạo, là người viết tiếp những trang thơ,
là đối tượng mà nhà thơ luôn hướng đến. Điều này đối với Chế Lan Viên không chỉ
là quan niệm mà còn là một tâm niệm, một ý thức trách nhiệm của người cầm bút:
“Tôi viết cho ai? Cho cả mọi người” (Nghĩ về thơ).
Chế Lan Viên trong quan niệm của mình đã tự nguyện lấy người đọc làm động lực
sáng tạo. Vì thế đối với ông, nhà thơ cần phải quan tâm đến người đọc, phải xem
những nhu cầu của người đọc là mục đích sáng tạo của thơ ca: “Tả một môi son, có khi anh chỉ nói sắc sen
hồ/Phải giấu tình cảm của anh đi như ém quân trong rừng vắng/Chỉ vì anh nghĩ
đến người độc giả mai sau có cái thú đi tìm vàng trên trang giấy/Đang bơi
thuyền giữa sen hồ bỗng bắt gặp môi son” (Tín hiệu).
Văn Cao khi bàn đến vai trò của người đọc đã viết: “họ không muốn nghe lại
những lời đã cũ như không muốn mua lại những đồ cũ mà họ thải đi từ lâu rồi”
(11). Như vậy, cả Văn Cao và Chế Lan Viên cũng đều nhận ra rằng: những đòi hỏi
của người đọc chính là động lực để nhà thơ phát huy cá tính sáng tạo của mình.
Và bởi người đọc là người đồng hành trong sáng tạo, là động lực sáng tạo của
nhà thơ nên chính người đọc cũng là người quyết định số phận của thơ ca.
3. Người đọc, “vị quan toà” quyết định số phận của thơ ca
Khi bàn đến vai trò của người đọc trong việc thẩm định giá trị của thơ,
Chế Lan Viên đã chỉ ra rằng: “Và những
giọt lệ rưng rưng trên mi người đọc/Ngọc của người còn trong gấp mấy/Ngọc thơ
anh”(Lệ ngọc). Và khi người đọc trở thành nhân tố quyết định sự sáng tạo
của nhà thơ, thì theo ông, họ có quyền tiếp nhận hoặc không tiếp nhận thơ nếu
thơ ấy không phải là thứ tinh hoa được kết tinh từ tài năng và lao động nghệ
thuật của nhà thơ, nghĩa là họ có quyền quyết định sự tồn tại của nhà thơ và xác
quyết giá trị của thơ:
Ôi!
chỉ cần một độc giả dù vô tâm đến mấy
Là cũng
đủ cho nhà thơ thoát khỏi vạc dầu
Và bay lên
chín tầng cao.
(Sợ
nhất)
Chính vì nhận thức sâu sắc điều này
nên Chế Lan Viên luôn trăn trở khi nghĩ về mối quan hệ giữa nhà thơ và người
đọc: “Nghìn lẻ một câu thơ viết ra, người
ta quên cả một nghìn/May lẻ một có người còn nhớ đời nhớ mãi/Nếu lẻ hai, lẻ ba,
lẻ tư nữa thì hay quá/Ấy thế mà đã được nghìn câu đâu, mong lẻ nỗi gì?” (Nghìn
lẻ). Không những thế, trong quan
niệm về mối quan hệ Nhà thơ-Người đọc, Chế Lan Viên còn đề cập đến một loại
người đọc đặc biệt đó là nhà phê bình. Ông cho rằng quan hệ giữa nhà thơ với
nhà phê bình như quan hệ vợ chồng: “Nàng yêu chồng, hẳn thế rồi, nhưng đôi khi
thường e ngại ông ta và nàng thích đi dạo một mình... Nhưng làm sao nàng ta có
thể sống không có anh ta được chứ, anh ta với tất cả khuyết điểm đáng yêu đáng
ghét của mình” (Thơ và phê bình) (12), như là quan hệ bè bạn: “Thơ và phê bình,
phê bình và thơ, chỉ có hai bạn trên đường ấy thôi mà. Trái tim và khối óc, cái
cá nhân và cái xã hội, ý thức và vô thức, thơ và phê bình, đấy chỉ là hồng cầu
và bạch cầu của một sức khoẻ chung”(13). Chế Lan Viên cũng đã phân định rõ các
loại nhà phê bình: “Nhà phê bình đại diện cho lý trí, không phải thứ lý trí
hách dịch, ba hoa, thứ lý giết chết cả thơ lẫn lý “càng luận vào càng đuối lý
ra” mà đó là “một thứ lý biết điều, có lý có tình, nhân hậu, nó là người tâm sự
của chính tác giả”(14). Ông cho rằng nhà phê bình thơ vừa phải có “tâm” nhưng
cũng cần phải có “tầm”, phải có năng lực cảm thụ thơ để “phê bình có thể thấy
xa, chỉ vì nó đã được hứng cảm bởi hồn thơ không có thơ trong hồn, anh chỉ có
thể thốt lên những lời càu nhàu, chửi rủa, chứ đâu có phải phê bình”(15). Chính
vì thế, điều ông sợ nhất là kiểu phê bình xoi mói, thiếu thiện chí, sẵn sàng
ném nhà thơ vào vạc dầu của quỉ: “Sợ nhất
khi xuống địa phủ, bên vạc dầu của quỷ/Lại thi nhân cùng thi nhân chạm trán, va
đầu./Nếu bên vạc dầu có nhà phê bình cầm roi càng nguy hơn nữa/Dẫu nhà thơ có
chạy trốn đi thì phê bình gia cũng tóm cổ ném vào!” (Sợ nhất). Quan niệm về nhà phê bình như một đối tượng
tiếp nhận của Chế Lan Viên cũng là một điểm nhìn rất gần với lý thuyết tiếp
nhận hiện đại. Và đây chính là những nét độc đáo trong quan niệm của Chế Lan
Viên về quan hệ giữa thơ với người đọc
Mặt khác, ở bình diện quan niệm của Chế Lan Viên về quan hệ Nhà thơ và Người
đọc cũng có sự vận động. Nếu trước kia trong Điêu tàn, người
đọc trong quan niệm của Chế Lan Viên cũng phải khác thường, nghĩa là: “Đọc tập Điêu
tàn này xong (...) mà cái Buồn, cái Chán, cái Hãi hùng cùng ùa nhau
đến bọc lấy hồn anh làm cho anh phải cười, phải gào, phải khóc, thì xin anh chớ
hẹp hòi gì mà cười cho mênh mang, gào cho vỡ cổ, khóc cho hả hê rồi gửi cái
cười, cái gào, cái khóc ấy cho không trung” (16) thì về sau này, đặc biệt là từ
khi đi theo cách mạng và kháng chiến, quan niệm về Nhà thơ-Người đọc của Chế
Lan Viên đã có sự thay đổi. Nhà thơ bây giờ không còn là Tinh, là Ma...mà là
con người trần thế gắn số phận mình với số phận nhân dân, và người đọc trong
thơ ông lúc này là những người bình thường gần gũi, nhà thơ sáng tác là để
hướng về họ, dành cho họ:
Những phong thư
anh gửi cho hư vô đều bị trả về
Dù tem
vẽ các vĩ nhân, thần thánh.
Chi
bằng anh đưa cho cô hàng xóm ở hàng rào bên cạnh
Viết
cho người độc giả bình thường gần gụi đọc thơ anh
.
(Thơ
cao cả)
Tóm lại: Cũng như Xuân Diệu, Nguyễn Đình Thi, Tố Hữu, Văn
Cao...Chế Lan Viên đã thấy được vai trò của người đọc trong việc tiếp nhận thơ
ca. Nhưng nếu các nhà thơ khác chú trọng đến sự tác động của nhà thơ đối với
người đọc: “Người làm thơ biết thành lập cho mình một cá tính trong suy nghĩ,
trong tình cảm, trong cảm giác những điều mới lạ bao nhiêu là làm phong phú
thêm cho người đọc về mặt tư tưởng cảm xúc hay cảm giác. Người đọc bị cuốn sau
cùng vào cái khuynh hướng của nhà thơ” (Văn Cao)(17) thì Chế Lan Viên lại chú
trọng đến sự tác động của người đọc đối với quá trình sáng tạo của nhà thơ.
Người đọc trong quan niệm của ông là người quyết định sự tồn tại của thơ ca và
ảnh hưởng đến tư duy sáng tạo của người nghệ sĩ. Và điều sợ nhất với ông là
“không có độc giả”, không có người đồng cảm với nhà thơ nghĩa là không có người
nối dài cuộc sống cho những câu thơ: “Chả
có gì sủi tăm ở cái hồ lãng quên anh ném câu thơ vào đó/May ra thế kỷ sau, từ
viên sỏi thơ anh sủi lên giọt máu như máu con bông bống/”Bống bống bang
bang!”... Sẽ có người đến bên hồ mà gọi thơ anh/Câu thơ trồi lên, đáp lại tiếng
gọi mình” (Sủi tăm). Và chính điều này tạo
nên sự độc đáo trong quan niệm về thơ của Chế Lan Viên, chi phối mạnh mẽ đến
quan niệm thơ của ông không những ở bình diện thơ với người đọc mà còn ở nhiều
bình diện khác của thơ.
Phần IV. Yêu cầu đặt ra
cho thơ và cho nhà thơ khi sáng tác.
Thơ, là gây ra một đám cháy
trong hồn
1.Chế Lan Viên nói về việc
chọn đề tài:
Thấy vạn sông hồ, thấy vạn trời mây/ Rồi lui
về chạm một cánh chim trên gác nhỏ/ Đấy là cái trọng điểm giữa đất, trời mà anh
chốt giữ/ Chớ làm sao anh bao quát vạn đề tài. Từ vạn sông hồ, vạn trời mây
của cuộc đời, nhà thơ chọn cho mình một đề tài. Nhà thơ không nên ôm đồm khi
chọn đề tài. Không phải đề tài rộng rãi to lớn thì thơ hay. Có khi cái bé nhỏ
như một cánh chim trên gác nhỏ lại hóa diệu kỳ. Hãy chốt giữ một cái trọng điểm
nhỏ, nhẹ thôi, nhưng hãy biết gọi về trùng lớp trùng lớp suy tưởng, ý nghĩa của
đề tài, làm cho mọi người thấy được những chân trời, đến được những chân trời.
Và Chế Lan Viên gọi cái trọng điểm giữa đất, trời là muốn nói: đề tài mang cái
tinh, chắt lọc, đồng thời mang cái bao la, phong phú của đời. Thơ đứng giữa hai
chiều biện chứng đó:
Lấy tinh binh thắng đa binh
Lấy hạt muối có khối hình,
thắng mặt bể to, không kết tụ kết tinh
… Nhưng cũng đừng tham một hạt muối con mà vứt bể
Vứt cả cái sóng gió xôn xao rất đỗi bể trời
Câu thơ nằm giữa bể sóng không yên và hạt muối chói ngời
Giữa hai mặt đối lập và thống nhất kia,
chếnh choáng câu thơ ở giữa.
2.Chế Lan Viên nói về tính
hàm súc của thơ:
Nhân
loại đi xa chớ có vẽ bày/ Từ ngữ kềnh càng, văn chương vô lối/ Cả đời anh, anh
thu nhỏ lại/ Chỉ còn cái lõi/ Cho nhân loại mang cùng, nhân loại cầm tay. Với thơ, nhân loại thường tránh dùng nhiều lời
truyền đạt ít ý, mà cố gắng thâu tóm được nhiều ý trong ít lời. Tứ tuyệt Đường
thi chẳng hạn. Thơ cần phải hàm súc. Nhưng không phải vì thế mà lược bỏ từ ngữ
của thơ một cách giản đơn, máy móc. Không nên gạt bỏ cái đáng lẽ mang lại ánh
sáng trên toàn thể câu thơ. Thơ không phải hàm súc, cô đặc đến mức thành một
câu đố hóc búa. Chính sự phong phú và sức mạnh của tư tưởng khiến cho thơ được
biểu lộ một cách gãy gọn và nhiều ý nghĩa. Còn lối diễn đạt cồng kềnh, dông dài
thường đi liền với một sự tối tăm mơ hồ của tư tưởng. Cái sâu trong thơ không
đồng nhất với từ ngữ đao to búa lớn, những lối diễn tả lạ thường, những câu thơ
dài, khoa trương, chải chuốt:
Chỗ này sâu ư? Không – chỉ là nước đục ngầu
Chỗ này cạn ư? Không – chính nhờ nước trong
nên ta nhìn thấy đáy
Cái sâu cạn trong thơ là thế đấy.
2.Chế Lan Viên nói về
ngôn ngữ thơ.
Ai cũng biết ngôn ngữ
bao la trước hết là của cuộc đời. Người làm thơ lặn vào trong bể ngôn ngữ đó
để chọn nhặt cho mình những a, những b cần thiết. Rồi từ đó qua cảm xúc, ý tưởng
riêng và cách trình bày riêng, ngôn ngữ của đời trở thành ngôn ngữ thơ, của nhà
thơ, trở thành ngôn ngữ nghệ thuật. Đó là thứ ngôn ngữ của cảm xúc, của ẩn dụ,
của một tầng nghĩa khác không còn là lớp nghĩa thông thường. Mà vẫn phải là thứ
ngôn ngữ đong đầy cuộc đời. Chế Lan Viên viết mỗi câu thơ là một lần lặn vào
trang giấy/ Lặn vào cuộc đời. Rồi lại ngoi lên, là một lần nữa nhắc lại cái lao
động nghệ thuật ngôn từ của nhà thơ.
3.Yêu cầu với nhà thơ.
a.Quá trình sáng tạo trong thơ.
Nhiều
người đến với thơ như một cuộc chơi. Thế nhưng, không thể phủ nhận tính lao
động sáng tạo một cách nghiêm túc trong thơ. Tài năng trời phú chưa đủ, còn
phải lao động say mê nữa mới mong có thơ cho đời. Thi hứng về rồi, nhà thơ đã
nghe thấy tiếng thơ dâng lên rồi; trước trang giấy, hãy viết đi, viết và cứ
viết. Câu thơ thứ nhất chưa thành, hãy còn câu thứ hai, câu thứ ba… Thơ vẫn chờ
ở phía trước, chờ lúc ta chạm vào, lóe sáng lên.
Một đêm ư? Phù du bay đến có muôn nghìn
Có phải con nào đến chết trước trang thơ đều đem thi tứ cả
…Trăm câu thơ xóa đi cho một câu khỏi ném vào trong gió
…Chữ được mùa; chữ ủ chua; chữ phóng xạ; chữ mùa trăng
và chữ đêm rằm;
chữ lên men; chữ thành “gien”, mật mã; chữ đu bay, voi lồng…;
chữ hừng đông và chữ chớp đông; chữ ra đồng;
chữ hồng huyết cầu, tế bào vỏ não;
chữ thụ phấn, thụ tinh sáng tạo…
Dù trăm thứ chữ kia để được gì nào
Số phận chữ à? Là tan biến vào câu
Câu hay ư? Là câu không còn chữ nữa
Lửa cháy lên rồi, chỉ còn có lửa.
Người làm thơ như
chàng Prométe đi tìm lửa, thật gian khó mới đến lúc gây ra một đám cháy trong
hồn – mới tìm ra thơ.
b.Phải mang con mắt thời đại anh để nhìn trời mưa cũ
Thơ vốn là tiếng vọng thẳm sâu từ tâm hồn con người, nên có đôi
khi tưởng như thơ là ở một cõi nào vời xa cuộc sống. Đâu biết rằng, tâm hồn
chính là “trái tinh thần” được nuôi lớn trong mỗi con người qua năm tháng cuộc
đời.
Cuộc sống vỗ vào thơ anh muôn nghìn lớp sóng
Đừng ngồi trong phòng ăn bọt bể anh ơi
Tâm hồn anh là của đời một nửa
Một nửa kia lại cũng của đời.
Không có hồn thơ trên mây, không có hồn thơ trong mộng. Phải
sống giữa cuộc đời, đó mới chính là cội nguồn của mọi cảm hứng, cho thơ bay
lên. Làm thơ, là vực sự sống ba chiều lên trang thơ hai mặt phẳng. Nhà thơ như
con tằm xe sợi tơ, như con ong lấy khách thể hoa làm bản ngã mật của mình. Mỗi
bài thơ là tơ, là mật, là hoa quả cuối cùng của một vụ mùa lao động cần mẫn,
bền bỉ, sáng tạo.
Đời cho anh nắm đất
Anh làm nên cái bình
Đời cho anh nhành hoa
Anh vẽ lên mùi sứ.
Và mỗi bài thơ, khi
thoát thai đều mang một giá trị thẩm mỹ, bước ra và đem đến cho đời; mỗi câu
thơ đều muốn hóa tin lành, đều sửa soạn một nắng mai lên.
Thơ, trước hết là nhu cầu tự thân, là cách tỏ bày cá nhân mình.
Nhưng thơ, từ nói lên tình cảm của mỗi con người nghệ sĩ qua đó nói tâm tư nhân
loại quanh mình. Tiếng hát của nhà thơ là tiếng hát tiêu biểu cho một tập thể;
nhà thơ tiêu biểu cho một hoàn cảnh, một dân tộc.
Này ai viết nên Nguyễn để Nguyễn viết nên câu Kiều thế hở?
Sông Tiền Đường chăng? Cỏ Đạm Tiên chăng?
Hay mái tóc hoa râm? Hay cuộc đời đi sứ?
Hay vầng trăng chia đôi giữa cô gái Long Thành
và Trường Lưu nhị nữ?
Hay cỏ áy bóng tà, tà huy lịch sử?
Có phải mỗi trang Kiều đều có mưa phùn thời đại
nhuốm vào chăng?
Thơ dựng lại những khoảnh khắc của thời đại, để cho mọi người
nghe được năm tháng mình đang sống, hiểu được những tâm tình, trước hết là
những tâm tình nhà thơ tự giải tỏa, sau đó sẻ chia với mọi người.
Hoạt động sáng tạo của nhà thơ gắn liền với
thời đại, điều đó thể hiện ở chất liệu nghệ thuật lấy từ cuộc sống, ở xu hướng
thi pháp chung của từng thời kỳ nhất định, ở quan điểm tư tưởng nhân sinh quan,
lý tưởng nghệ thuật… Nhà thơ phải đặt mình trong mối quan hệ thẩm mỹ với cuộc
sống thời đại, phản ánh đúng những giá trị thẩm mỹ của thời đại. Vẫn là cơn mưa
cũ, cơn mưa của muôn đời, nhưng nhà thơ phải mang con mắt thời đại mình để nhìn
trời mưa cũ ấy:
Vô vàn thi nhân trước anh đã viết về thơ
Mắt anh chả còn hồn nhiên đâu sau nhiều từ ngữ
Khéo cơn mưa anh viết bây giờ là cơn mưa của họ.
Thơ in dấu ấn của thời đại nhà thơ đang sống,
đồng thời thơ vẫn âm ỉ mang theo trong nó những giá trị truyền thống. Ta nối
liền ta trong bề dọc thời gian, câu thơ thế kỷ XX liền hơi với hồn cha ông
trong truyện Kiều, Chinh Phụ… Chế Lan Viên thường hay nhắc đến Lý Bạch, Mozart,
Rimbaud, Holderlin, Nguyễn Du, Tú Xương, Ôn Như Hầu, Yên Đỗ… là muốn nhắc đến
mối quan hệ giữa xưa và nay, quá khứ và bây giờ, truyền thống và hiện đại… Thơ
ca nhân loại không phải là một dàn đồng ca, mà là một đa âm; chính truyền thống
là cái đem lại tính thống nhất cho tất cả mọi giọng điệu và các khuynh hướng.
Thời đại hôm nay nối tiếp trong lòng thời đại hôm qua; thơ hôm nay mang dòng
của thơ hôm qua chảy tiếp qua những bến, bờ bãi khác. Bao đời nay, dòng thơ
nhân loại vẫn chảy qua từng thời đại, mang tiếng hồn người đi đến muôn đời, đến
muôn cùng.
Như sân khấu mở rộng rinh ra bốn phía
Câu thơ Ức Trai viết đâu chỉ cho một mình dân tộc ta xem
Ngoài trời còn trời. Hết trời có bể
Đâu chẳng trái tim người. Đâu chẳng xót oan khiên?
Mỗi nhà thơ tự làm một cuộc hành trình cho
mình. Họ bước lang thang giữa cuộc đời bên bờ thời gian thăm thẳm. Họ đi qua
cuộc đời không như chúng ta đã đi một cách vô tư. Trên những chặng đường của
cuộc hành trình vốn ngắn ngủi nhà thơ biết dừng lại bên một lối mòn, một canh
khuya, hay một buổi mai nào đó và lắng nghe tiếng thời gian xuôi chảy. Có thể
nói nhà thơ là những con người ý thức về thời gian một cách da diết, bởi đối
với họ thời gian đi ngược lại với cái khát khao vươn tới, đạt tới sự hoàn thiện
trong sáng tạo nghệ thuật.
Với Chế Lan Viên, cảm giác về sự qua đi của
thời gian dâng ngập những trang thơ, nhất là những trang thơ cuối đời của ông.
Chế Lan Viên nghe mùi hoa bưởi giữa đêm vắng lặng, nghe giọt sương rơi, một
tiếng gà, hay tiếng sông trôi… đều cảm thấy như nghe tiếng thời gian đang cạn
vơi đi. Chống chọi lại với thời gian nước xiết, chống chọi với bệnh tật buồn
đau cuối đời, là viết. Lao vào mà viết. Viết, để ngăn con đê thời gian ùa vỡ.
Viết, để không đồng lõa với thời gian hủy diệt chính mình. Viết, đồng nghĩa
với còn tồn tại:
Số ngày còn lại cho anh trên trái đất
Đếm rồi
Như thóc giống đếm từng hạt một
Chỉ còn chừng ấy hạt thôi anh phải tạo ra mùa
Chỉ chừng ấy ngày! Chừng ấy tháng! Chừng ấy năm
Chưa kể bất thình lình đổ ập
Cày đi! Bừa đi! Gieo đi!
Sao còn phải chần chừ?
Nhưng dù có hì hục, cần mẫn đến thế nào nhà
thơ vẫn thấy mình tài năng chưa đầy nửa giọt/ Có hộc tốc chạy đến hết chân trời
cũng là đồ bất lực. Nhà thơ nhìn trang giấy biết mình hữu hạn, có chạy ngút
hơi về trang giấy/ Về đến nơi/ Nó đã hóa chân trời. Chạy tiếp ư? Nhà thơ không
ngần ngại, dẫu trang giấy trắng vẫn như con đường hun hút về vô tận. Cái trò
đuổi bắt này như nhà thơ suốt đời xâu sợi chỉ vào cây kim ngay trước mặt/ Chỉ
sắp lọt rồi/ Kim bỗng lùi xa, nhà thơ bước lên một bước/ Kim lùi thêm một bước.
Nhà thơ chạy một đời không ngừng nghỉ, vắt kiệt sức lực, mà vẫn toi công. Nhà
thơ có hóa thành chim gõ kiến gõ vào thời gian/ Gõ vào số phận…/ Gõ vào trang
giấy/ Vào câu thơ gầy guộc…/ Chả ra được con kiến thơ nào, hay có làm chim bói
cá tìm đến hồ, cái mặt hồ phẳng lặng/ Từng soi bóng muôn đời thi sĩ ấy/ Khi anh
đến/ Thì hồ biến thành ra bể/ Ầm ầm/ Ĩ ĩ/ Anh chỉ bói ra bèo bọt quanh bờ. Hỡi
ôi! Đời người, đời thơ có hạn, mà đỉnh cao của nghệ thuật cứ lửng lơ phía vô
cùng, mà thời gian không đợi, mà tài năng không gặp:
Tài năng ở đâu? Tài năng ở đâu?
Cho tôi với!
Trên trời cao hay dưới bể sâu?
Chỉ cho tôi để tôi tiến tới
Khốn nỗi
Nó ở bên kia bể thời gian không ai chờ đợi.
Cảm giác lực bất tòng tâm của tài năng hữu hạn trước chân trời
nghệ thuật không cùng, của đời người ngắn ngủi trước vô tận thời gian lại là
cảm giác mang ý nghĩa tích cực. Nó không làm cho nhà thơ bỏ bút giữa chừng chán
nản, mà ngược lại thôi thúc nhà thơ sáng tạo, sáng tạo mãnh liệt hơn. Nhà thơ
vẫn khát khao vươn tới hoàn thiện, khát khao vô cùng, và Chế Lan Viên gọi đó là
nỗi đau và hạnh phúc:
Mỗi con trai nhả ngọc một lần thôi
Viên ngọc đầu tiên cũng là viên sau chót
Không như ta sau viên ngọc sau cùng làm viên thứ nhất
Đây là nỗi đau và hạnh phúc của con người.
Tóm lại. Một nhà nghiên cứu đã nói đó là niềm khao
khát không bao giờ nguôi của một hồn thơ không bao giờ tự thỏa mãn mà luôn luôn
tự đòi hỏi, để đi tìm một tầm cao mới, tiến gần hơn đến sự viên mãn, sự tuyệt
đối, tuy không bao giờ có thể đạt tới, nhưng nếu không có nó thì cũng sẽ không
bao giờ có sự sáng tạo thật sự. Chế Lan Viên cho đó là ngôi sao xa khuya khoắt
định hướng cho thơ, là con sông Ngân Hà mà nhà thơ phải đi dọc theo mãi để tìm
thơ, chứ không phải như Ngưu Lang chỉ cần sang ngang là tìm ra Chức Nữ:
Ngưu Lang chỉ cần một cái bến con, anh cần có dải Ngân Hà
Anh đi dọc nó tìm thơ chứ không phải bơi ngang tìm Chức Nữ’
Thời hạn đi tìm của anh hết rồi, mà bờ bến tít mù xa
Song dừng lại, anh đâu còn anh nữa…
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1) Edward Hirsh “Thơ và độc giả”, Báo
thơ số (7,8 tháng 1+2/2004) tr. 30
(2,12,13,14,15) Chế Lan Viên, Từ gác Khuê Văn đến quán Trung Tân, Nxb Tác phẩm
Mới, Hà Nội, 1981 tr. 96,113,115,116.
(3) Chế Lan Viên, Nghĩ cạnh dòng thơ, Nxb Văn học, Hà Nội, 1981 tr. 81.
(4) Tố Hữu, Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta, thời đại
ta, Nxb Văn học, Hà Nội, tr. 441.
(5)Nguyễn Đình Thi “Mấy ý nghĩ về thơ”, Báo thơ số (2, Qúi II/2003) tr. 24.
(6) Lưu Hiệp, Văn Tâm Điêu Long, Nxb Văn học Hà Nội, 1999 tr. 270.
(7) J.P.Sartre, Văn học là gì? Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 1999,tr. 63.
(8) Trương Đăng Dung, Tác phẩm văn học như là quá trình, Nxb khoa học xã hội,
Hà Nội, 2004, tr. 12.
(9) Nguyễn Tấn Long, Việt thi nhân tiền chiến (quyển thượng), Sống Mới
xuất bản, Sài Gòn, 1972, tr. 449.
(10) Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương, Lý luận văn học, vấn đề và suy nghĩ,
Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1999, tr. 139,140.
(11,17) Tuyển tập Văn Cao thơ, Nxb Văn học, Hà Nội, 1994, tr. 152, 154.
(16)Võ Gia Trị, Văn chương và nghệ sĩ, Nxb Văn học, Hà Nội, 2001, tr. 9.
2.Bài viết của Lê Quốc Sinh(Q. Gò Vấp, TP.HCM) Tuần Báo Văn Nghệ TP.HCM số 376
3. Chuyên đề có sự
tổng hợp nội dung từ một số bài viết trên mạng Internet.