Chữa lỗi trong bài văn nghị luận xã hội cho học sinh (Bùi thị Phương Thúy)
chuyên đề HSG
CHỮA LỖI TRONG BÀI VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI CHO HỌC SINH
PHỤ LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
3
I. Lí do chọn đề tài………………………………………………………...
3
II. Lịch sử vấn đề………………………………………………………….
3
III. Nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu và đóng góp mới của đề tài…………
5
1. Nhiệm vụ nghiên cứu…………………………………………………..
5
2. Phạm vi nghiên cứu……………………………………………………
5
3. Đóng góp của đề tài……………………………………………………
6
IV. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………..
6
V. Cấu trúc của chuyên đề………………………………………………..
6
PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận…………………………………………………………….
7
1. Văn nghị luận…………………………………………………………..
7
2. Nghị luận xã hội………………………………………………………..
7
3. Nghị luận xã hội trong đề thi học sinh giỏi……………………………
8
4.Các dạng đề thi NLXH trong đề thi học sinh giỏi.................................
8
4.1 Nghị luận về một tư tưởng đạo lí.........................................................
8
4.2 Nghị luận về một hiện tượng đời sống................................................
10
4.3 Nghị luận về một số vấn đề NLXH được rút ra từ các tác phẩm văn học nghệ thuật……………………………………………………………
11
II. Cơ sở thực tiễn………………………………………………………..
13
1. Lỗi xác định vấn đề nghị luận…………………………………………
13
2. Lỗi về luận điểm………………………………………………………
16
3. Lỗi về dẫn chứng……………………………………………………...
18
4. Lỗi về cách trình bày………………………………………………….
19
III. Cách khắc phục lỗi trong bài văn NLXH của học sinh giỏi…………
21
1. Cách khắc phục lỗi xác định vấn đề nghị luận………………………..
21
2. Cách khắc phục lỗi về luận điểm………………………………………
22
3. Cách khắc phục lỗi về dẫn chứng……………………………………...
24
4. Cách khắc phục lỗi về trình bày……………………………………….
26
PHẦN KẾT LUẬN
36
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
37
PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, việc phát triển các năng lực, năng khiếu văn chương cho học sinh là nhiệm vụ hàng đầu. Các năng khiếu, năng lực ấy được biểu hiện ra ở rất nhiều các phương diện, yếu tố khác nhau, trong đó quan trọng là cần được thể hiện ra trong các bài viết văn nghị luận. Nghị luận văn học và Nghị luận xã hội.
Nghị luận xã hội là dạng bài bắt buộc trong các đề thi học sinh giỏi, với mục đích kiểm tra và đánh giá được khả năng tư duy, mức độ quan tâm tới thực tế cuộc sống, vốn sống, cách nhìn, cách nghĩ, khả năng ngôn ngữ, văn chương... nhưng trong thực tế, việc rèn luyện kĩ năng viết văn NLXH cho học sinh giỏi hiện nay chưa được chú trọng đúng mức. Việc này dẫn đến chất lượng bài văn nghị luận xã hội ở một bộ phận học sinh còn chưa cao, đặc biệt là các lỗi trong bài văn còn xuất hiện khá nhiều.
Các tài liệu nghiên cứu chuyên sâu về văn nghị luận xã hội còn ít, hơn nữa những bài viết chuyên sâu lại thiên về lí thuyết, dạng nghiên cứu mang tính chất lí luận, hàn lâm. Trực tiếp giảng dạy, rèn kĩ năng, chữa lỗi cho học sinh là giáo viên thì nhiều khi chưa thực sự để tâm khái quát, hệ thống những lỗi thường gặp của học sinh mà chủ yếu quan tâm đến việc khắc phục một số lỗi cụ thể trong những bài văn cụ thể của học sinh. Trong khi đó, mục đích của việc bồi dưỡng học sinh giỏi môn ngữ văn là phát hiện, bồi đắp năng khiếu cho học sinh, bởi vậy, nhất định phải nâng cao chất lượng bài viết cho học sinh. Để làm được điều đó thì việc xác định chính xác những lỗi sai trong bài văn nghị luận xã hội cho học sinh, sửa các lỗi sai đó một cách nghiêm túc, hiệu quả sẽ khắc phục được những hạn chế, làm tăng chất lượng bài làm văn.
Vì vậy, trong phạm vi một chuyên đề, chúng tôi xác định cần có những tìm hiểu sâu hơn về thực trạng và những lỗi mà học sinh có thể mắc khi làm bài văn nghị luận xã hội, hệ thống những lỗi sai thường gặp trong bài văn nghị luận xa hội của học sinh giỏi, từ đó chỉ ra các cách cụ thể để khắc phục những lỗi sai ấy để các em có được những bài làm văn nghị luận xã hội tốt, thể hiện được một cách tôt nhất kiến thức, năng lực, năng khiếu của các em.
II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Có khá nhiều tài liệu hướng dẫn làm văn nghị luận xã hội cho đối tượng là học sinh THCS (tài liệu cho lớp 8, lớp 9, tài liệu hướng dẫn ôn thi tuyển sinh vào 10 THPT), THPT (đặc biệt là các tài liệu luyện thi THPTQG môn Ngữ văn), nhưng qua tìm hiểu của chúng tôi thì chưa có tài liệu nghiên cứu công phu và bài bản về vấn đề Chữa lỗi trong bài văn nghị luận xã hội cho học sinh giỏi.
Trong một số tài liệu có thể tìm thấy những vấn đề liên quan đến vấn đề chúng tôi đang đề cập. Cuốn Tài liệu tập huấn phát triển chuyên môn giáo viên trường THPT Chuyên môn Ngữ văn của Vụ giáo dục trung học xuất bản tháng 11 năm 2011 có phần Một số đề thi đáp án và bài văn đoạt giải Nhất kì thi HSG Quốc gia môn Ngữ văn một số năm, trong đó có những nhận xét ngắn gọn về ưu điểm nổi bật của mỗi bài làm được giới thiệu, từ đó cho chúng ta nắm được những yêu cầu đặt ra của Hội đồng chấm và hạn chế của những bài văn đạt giải thấp hoặc không đạt giải, trong. Trong cuốn Tuyển chọn những bài văn đạt giải quốc gia học sinh giỏi THPT 2004 đến 2014 do Nguyễn Duy Kha và Hoàng Văn Quyết tuyển chọn và biên soạn là tài liệu tập hợp những bài viết xuất sắc nhất của kì thi học sinh giỏi quốc gia hàng năm và với mỗi đề thi có phần gợi ý làm bài. Những nhận xét sau mỗi bài thi xuất sắc là những định hướng quan trọng để chúng tôi tham khảo về cách nhận diện, triển khai vấn đề, cũng như đối chiếu với bài làm của học sinh để xác định rõ ràng hơn những lỗi mà học sinh mắc phải trong quá trình viết bài, trong đó có bài văn nghị luận xã hội.
Mặc dù trong chương trình Ngữ văn cấp THPT có bài Chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận và Kế hoạch dạy học môn Ngữ văn có một số bài viết yêu cầu viết văn nghị luận xã hội (việc xây dựng kế hoạch này hiện nay do các trường chủ động), sau các tiết kiểm tra có bố trí các tiết trả bài kiểm tra. Qua thực tế chấm bài của học sinh, giáo viên đã tìm và chỉ ra các ưu khuyết điểm trong bài viết của học sinh, giúp các em giữ và phát huy được những ưu điểm, sửa chữa những hạn chế, lỗi sai. Nhưng cả sách giáo khoa và chương trình dạy học đều chưa có nội dung nào đề cập đến việc phát hiện và khắc phục các lỗi trong bài làm văn nói chung, nghị luận xã hội nói riêng. Trong chương trình THCS và THPT có các bài lí thuyết và luyện tập: Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí; Nghị luận về một hiện tượng đời sống, nhưng nội dung chủ yếu của các bài này không đề cập đến lỗi thường gặp của học sinh khi viết văn nghị luận xã hội, càng không có liên quan đến vấn đề chữa lỗi trong bài văn nghị luận xã hội cho học sinh giỏi.
Trên các tạp chí, báo, và các trang mạng có khá nhiều bài viết có nội dung hướng dẫn các kĩ năng làm bài văn nghị luận xã hội, các lỗi thường gặp và cách khắc phục như Lỗi kĩ năng học sinh thường mắc phải khi làm bài văn nghị luận xã hội của tác giả Nguyễn Thị Liễu Hoàn, giáo viên trường THPT chuyên Võ Nguyên Giáp - Quảng Bình trên báo Giáo dục và Thời đại ra ngày 03/5/2018, Kinh nghiệm làm văn Nghị luận xã hội của Hoàng Long Trọng, trường THCS Văn Lang, Q1, TP HCM trên trang http://www.giaoduc.edu.vn; Một số lỗi cần tránh khi làm bài thi văn nghị luận của Nguyễn Thị Hồng Cảnh, giáo viên văn trường THPT Chu Văn An trên trang http://baoninhthuan.com.vn... tuy nhiên, các bài viết mới chỉ dừng lại ở hướng dẫn các kĩ năng cơ bản, thống kê các lỗi thường gặp, chưa chỉ ra được cách khắc phục một cách chi tiết và hiệu quả. Đặc biệt là chưa có bài viết nào hướng tới đối tượng học sinh giỏi mà chỉ dành cho học sinh THCS, THPT nói chung, vì thế giá trị tham khảo sử dụng cho đối tượng học sinh giỏi có những hạn chế nhất định.
Từ những thực tiễn trên đây, chúng tôi thực hiện chuyên đề này với mong muốn có những tìm hiểu tương đối sâu kĩ, có tính hệ thống về các lỗi và cách chữa lỗi cho học sinh giỏi trong bài làm văn nghị luận xã hội, trước tiên là để sử dụng trong quá trình dạy bồi dưỡng cho đội tuyển học sinh giỏi môn Ngữ văn của nhà trường, và nếu có thể chúng tôi mong đây có thể là một tài liệu có giá trị tham khảo cho các bạn đồng nghiệp ở các trường THPT khác, đặc biệt là ở các trường THPT Chuyên, với nhiệm vụ đặc thù là bồi dưỡng học sinh năng khiếu.
Chuyên đề của chúng tôi được hoàn thành trên cơ sở có tham khảo những gợi ý của các tài liệu được nhắc đến ở trên và các tài liệu tương tự, dựa vào kinh nghiệm tích lũy trong quá trình dạy bồi dưỡng học sinh giỏi và thực tiễn bài làm của học sinh… mong rằng đây sẽ là một tài liệu có tính hệ thống, có giá trị khoa học nhất định.
III. NHIỆM VỤ, PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để giúp học sinh giỏi nhận thức được những lỗi sai thường mắc phải trong bài văn nghị luận xã hội, nguyên nhân của các lỗi sai đó và cách khắc phục hiệu quả, chuyên đề Chữa lỗi trong bài văn nghị luận xã hội cho học sinh giỏi của chúng tôi đặt ra và hướng tới việc giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Những khái niệm cơ bản liên quan đến kiểu bài nghị luận xã hội, đến bài nghị luận xã hội trong đề học sinh giỏi, việc làm bài nghị luận xã hội của học sinh giỏi.
- Những lỗi thường gặp trong bài văn nghị luận xã hội của học sinh giỏi.
- Một số giải pháp để khắc phục những lỗi đã hệ thống.
Các nội dung sẽ trình bày từ cơ sở lí thuyết đến thực hành, từ khái quát, khái niệm đến những vấn đề chi tiết, cụ thể.
2. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi tập trung làm rõ những lỗi thường gặp trong kiểu bài nghị luận xã hội và cách khắc phục những lỗi đó ở những vấn đề mang tính chất căn bản trong chuyên đề này.
Trình độ, năng lực của học sinh giỏi môn ngữ văn cần được thể hiện qua bài viết. Từ thực tiễn bài làm đa dạng, phức tạp của học sinh, cho thấy trình độ, năng lực khác nhau của mỗi em . Bài làm là minh chứng rõ nét nhất cho thấy những vấn đề còn tồn tại trong quá trình tiếp thu hướng dẫn, hình thành kĩ năng của học sinh. Vì thế, phạm vi nghiên cứu của chúng tôi còn là những bài viết trên lớp và trong các cuộc thi của học sinh, trên cơ sở tìm hiểu bài viết của học sinh chúng tôi xác định được các lỗi mà các em hay mắc phải, từ đó tìm cách chữa lỗi cho học sinh. Như vậy bài làm của học sinh được nghiên cứu để làm tư liệu trong quá trình thực hiện chuyên đề này.
3. Đóng góp mới của chuyên đề
- Chuyên đề chỉ ra một cách hệ thống các lỗi mà học sinh giỏi thường mắc phải khi viết bài văn nghị luận xã hội, đồng thời xác định những cách để chữa các lỗi đó một cách cụ thể, chi tiết trên cơ sở kết hợp giữa kiến thức mang tính chất khoa học với thực tiễn giảng dạy bồi dưỡng học sinh giỏi. Đây là nội dung chưa được thể hiện trong các tài liệu đã công bố.
- Chuyên đề có giới thiệu một số các đề bài nghị luận xã hội và các ví dụ từ bài viết cụ thể của học sinh để minh họa cho phần lý thuyết; đây là các nội dung mới được chuyên đề này thể hiện.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chúng tôi đã sử dụng các phương pháp chủ yếu sau trong quá trình thực hiện đề tài:
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp tổng hợp
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành…
V. CẤU TRÚC CỦA CHUYÊN ĐỀ
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo… chuyên đề của chúng tôi được chia thành ba chương. Gồm:
- Chương I. Cơ sở lí luận: Những vấn đề cơ bản về kiểu bài nghị luận xã hội
- Chương II. Cơ sở thực tiễn: Một số loại lỗi cơ bản mà học sinh giỏi thường mắc phải trong bài văn nghị luận xã hội.
- Chương III. Đề xuất các biện pháp khắc phục lỗi trong bài làm văn nghị luận xã hội của học sinh.
PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KIỂU BÀI NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
1. Văn nghị luận
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Nghị luận: Bàn và đánh giá cho rõ về một vấn đề nào đó. Văn nghị luận là thể văn dùng lí lẽ và dẫn chứng để phân tích giải quyết một vấn đề”.
Từ điển thuật ngữ văn học cũng nêu rõ: “Văn nghị luận: Thể văn nghị luận viết về những vấn đề nóng bỏng thuộc nhiều lĩnh vực đời sống khác nhau: chính trị, xã hội, triết học, văn hoá. Mục đích của văn chính luận là bàn bạc, thảo luận, phê bình hay truyền bá tức thời một tư tưởng, một quan điểm nào đó. Đặc trưng cơ bản nhất của văn chính luận là tính chất luận thuyết. Văn chính luận trình bày tư tưởng và thuyết phục người đọc chủ yếu bằng lập luận, lí lẽ”.
Như vậy, có thể hiểu: Văn nghị luận là một loại văn bản nhằm phát biểu tư tưởng, tình cảm, thái độ, quan điểm của người viết một cách trực tiếp về các vấn đề văn học, chính trị, đạo đức, lối sống... và được trình bày bằng một thứ ngôn ngữ trong sáng, hùng hồn với những lập luận chặt chẽ, mạch lạc, giàu sức thuyết phục. Đây là loại văn phổ biến trong nhà trường, thường được lấy làm yêu cầu của phần làm văn trong các đề thi hiện nay.
2. Nghị luận xã hội
Bàn về khái niệm văn nghị luận xã hội, đã có rất nhiều ý kiến, nhận định uy tín được đưa ra. Dưới đây là một số ví dụ:
Theo Bảo Quyến: “Văn NLXH là văn nghị luận về một vấn đề xã hội, bao gồm những vấn đề thuộc mọi quan hệ, hoạt động của con người trong mọi lĩnh vực đời sống, xã hội cũng như chính trị, kinh tế, giáo dục, môi trường, dân số…”
Theo giáo sư Đỗ Ngọc Thống: “Văn nghị luận xã hội là thể văn hướng tới phân tích, bàn bạc về các vấn đề liên quan đến các mối quan hệ của con người trong đời sống xã hội. Mục đích cuối cùng của nó là tạo ra những tác động tích cực đến con người và những mối liên hệ giữa con người với con người trong xã hội.”
Theo nhà giáo Hoàng Dân: “Nghị luận xã hội là một kiểu bài dùng lí lẽ và thực tế để giải quyết một vấn đề đặt ra trong xã hội, từ những vấn đề trong cuộc sống hàng ngày ở cộng đồng lớn nhỏ đến những vấn đề chính trị rộng lớn, từ những vấn đề luân lí đạo đức cá nhân đến những vấn đề có tầm quan trọng về triết lí nhân sinh. Đó là những vấn đề chính trị - xã hội có liên quan đến mỗi cá nhân, nó khiến mọi người phải suy nghĩ và có trách nhiệm tham gia giải quyết bằng một phương thức nào đó (nói, viết, hành động) để góp phần duy trì sự tồn tại của cộng đồng.”
Theo Từ điển từ và ngữ Hán Việt, “nghị luận” là dùng lí luận để phân tích ý nghĩa phải trái, bàn bạc, mở rộng vấn đề. Còn “xã hội” trước hết là một tập thể người cùng sống, gắn bó với nhau trong quan hệ sản xuất và các quan hệ khác. Cũng có thể hiểu, “xã hội” là những gì thuộc về quan hệ giữa người và người về các mặt chính trị, kinh tế, triết học, lịch sử, văn học, ngôn ngữ… Từ đó, có thể hiểu NLXH là thể văn hướng tới phân tích, bàn bạc về các vấn đề xã hội, mối quan hệ con người trong xã hội, những đòi hỏi của cuộc sống cũng như những yêu cầu của con người, thực trạng xã hội và các hiện tượng đời sống... Mục đích cuối cùng của nó là thể hiện chính kiến, quan niệm của người viết về vấn đề đặt ra đồng thời tạo ra những tác động tích cực đến con người và những mối quan hệ giữa người với người trong xã hội.
Yêu cầu đối với bài văn NLXH trước hết cũng là đảm bảo kĩ năng nghị luận nói chung (tập trung hướng tới luận đề để bài viết không tản mạn, có ý thức triển khai thành những luận điểm chặt chẽ, nhất quán, tìm được những dẫn chứng xác đáng, giàu sức thuyết phục). Bên cạnh đó, bài văn NLXH cũng cần đảm bảo về nội dung kiến thức mang màu sắc chính trị, xã hội (những hiểu biết về chính trị, pháp luật, những kiến thức nền tảng về truyền thống lịch sử, văn hoá, đạo đức, tâm lí, xã hội, những tin tức thời sự cập nhật...); đảm bảo mục đích, tư tưởng: phải vì con người, vì sự tiến bộ chung của toàn xã hội.
3. Nghị luận xã hội trong đề thi học sinh giỏi
Nghị luận xã hội trong đề thi học sinh giỏi: là kiểu bài hướng tới phân tích, bàn bạc về các vấn đề liên quan đến các mối quan hệ của con người trong đời sống xã hội thuộc những kiểu đề khó, đề mở đòi hỏi học sinh phải có nhiều kỹ năng, thao tác trong phân tích và lập luận làm sáng rõ vấn đề. Để viết được một bài văn nghị luận xã hội hay trong đề thi học sinh giỏi yêu cầu học sinh phải có sự giao thoa về cảm xúc và lý trí giúp cho bài văn nghị luận không trở nên khô cứng, giáo điều mà vẫn sắc bén về lý lẽ, hợp lí về lập luận, dẫn chứng. Đặc biệt để có thể viết đúng, trúng vấn đề, bên cạnh kĩ năng, kiến thức cũng rất đề cao đến sự sáng tạo, hiểu biết riêng của người viết tạo được chất riêng, độ sâu, độ lắng trong bài viết của học sinh giỏi.
Trong nhiều năm trở lại đây, nghị luận xã hội là kiểu bài bắt buộc trong đề thi học sinh giỏi các cấp. Và trong đề thi học sinh giỏi cấp quốc gia, bài văn nghị luận xã hội thường chiếm 2/5 số điểm của bài thi.
4. Các dạng đề thi NLXH trong đề thi học sinh giỏi
4.1 Nghị luận về một tư tưởng đạo lí
4.1.1. Khái niệm
Đây là một dạng đề nói về một tư tưởng đạo lí, triết lí nhân văn, câu nói mang tính nhận thức, mối quan hệ về gia đình, xã hội, một số tính cách thể hiện các phẩm chất của con người.
4.1.2 Đề tài hướng tới
Lí tưởng sống của thanh niên hiện nay, mục đích sống và học tập, các đức tính của con người: tính trung thực, sự dũng cảm, lòng khiêm tốn, lòng bao dung, đức tính kiên trì, ý chí nghị lực vươn lên trong cuộc sống, lí tưởng sống ; các mối quan hệ gia đình : tình mẫu tử, chữ hiếu, sự vô tâm thờ ở của cha mẹ với con cái ; mối quan hệ của xã hội : tình bạn, tình quê hương ; đạo lí : ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ nguồn….
Đối với học sinh trong nhà trường phổ thông do tâm lý lứa tuổi và nhận thức nêu những vấn đề đặt ra để bàn luận không phải là những vấn đề phức tạp lớn lao mà chỉ là những khía cách đạo đức tư tưởng tình cảm gắn liền với cuộc sống hàng ngày như tình cảm quê hương, gia đình, ý thức trách nhiệm, tinh thần học tập phương pháp nhận thức… Những vấn đề này có thể đặt ra một cách trực tiếp nhưng thường là được gợi mở qua một câu danh ngôn (tục ngữ, ca dao, câu nói của các bậc hiền triết, các lãnh tụ, các nhà văn hóa khoa học, nhà văn nổi tiếng…)
Trong các đề dành cho học sinh giỏi, dạng đề này thường được đặt ra với những cách hỏi khá phong phú, nội dung tư tưởng đạo lí có thể quen thuộc hoặc mới mẻ, nhưng thường đòi hỏi học sinh có độ "nhạy", tinh nhất định để xác định trúng được vấn đề.
4.1.3 Các bước làm bài
Đối với dạng đề nghị luận về một tư tưởng đạo lí để giải quyết vấn đề cần lưu ý cách học sinh xem xét nó từ nhiều góc độ. Cách đơn giản nhất là đặt ra đặt ra và trả lời những câu hỏi. Sau đây là một số dạng câu hỏi chính:
- Vấn đề đó là gì?
- Vấn đề đó có những biểu hiện cụ thể như thế nào?
- Vì sao lại như thế?
- Như thế thì có ý nghĩa gì với cuộc sống, với con người, với bản thân?
Từ việc đặt ra và trả lời các câu hỏi có thể hình dung một bài văn nghị luận về một tư tưởng đạo lí cần được triển khai theo 3 bước cơ bản sau:
- Giải thích, cắt nghĩa
- Lý giải ( bình luận, chứng minh)
- Đánh giá
4.1.4 Một số đề bài ví dụ
Đề 1: Anh/chị hãy viết bài văn nghị luận bày tỏ suy nghĩ của mình về câu nói của Jean Paul Pougala : “Cuộc sống như một cuốn sách : kẻ điên rồ giở qua nhanh chóng, người không ngoan vừa đọc vừa suy ngẫm, vì biết rằng mình chỉ đọc một lần”.
Đề 2: Trong bài thơ số 27, tập “Người làm vườn” của Tagore, có một câu thơ tác giả đã mượn hình ảnh hoa sen để gửi gắm vào đấy một triết lý cuộc sống : “Thà làm một bông hoa sen nở khi thấy mặt trời rồi mất hết tinh nhụy còn hơn giữ nguyên hình nụ búp trong sương lạnh vĩnh cửu của mùa đông”
Đề 3:
“Thỉnh thoảng chúng ta vẫn gặp những người tự cho mình quyền được phán xét người khác theo một định kiến có sẵn. Những người không bao giờ chịu chấp nhận sự khác biệt. Đó không phải là điều tồi tệ nhất. Điều tồi tệ nhất là chúng ta chấp nhận buông mình vào tấm lưới định kiến đó. Cuộc sống của ta nếu bị chi phối bởi định kiến của bản thân đã là điều rất tệ, nên nếu bị điều khiển bởi định kiến của những người khác hẳn còn tệ hơn nhiều”.
(Trích Nếu biết trăm năm là hữu hạn, Phạm Lữ Ân, Nxb Hội nhà văn, 2013, Tr.83)
Suy nghĩ của anh/chị về vấn đề được đề cập trong đoạn trích trên?
4.2 Nghị luận về một hiện tượng đời sống
4.2.1 Khái niệm
Là dạng đề đề cập tới các hiện tượng phổ biến trong cuộc sống, các hiện tượng đó có thể là tích cực hoặc tiêu cực nhưng nó trực tiếp ảnh hưởng và thường xuyên xảy ra trong cuộc sống hiện nay..
4.2.2 Đề tài thường hướng tới:
An toàn giao thông, tệ nạn xã hội, bạo lực học đường, ô nhiễm môi trường, trung thực trong thi cử, nạn vứt rác bừa bãi, hiến máu nhân đạo, nghiện game, nghiện internet, lối sống ảo, lối học hình thức đối phó, dịch bệnh, vô cảm, những vấn đề nảy sinh hay cần thiết trong thời đại 4.0, các vấn đề đảm bảo về đạo đức, văn hóa, giữ gìn nét đẹp nhân cách, phẩm giá, tâm hồn con người, giữ gìn và phát huy mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người trong đời sống hiện nay.
Khác với dạng đề bàn về một tư tưởng đạo lý, dạng đề này thường nêu lên một hiện tượng có thật trong đời sống xã hội. Đó có thể là một hiện tượng tích cực, nhưng cũng có thể là một hiện tượng tiêu cực trong xã hội, hoặc một hiện tượng có cả hai mặt tích cực lẫn tiêu cực. Do đó, đòi hỏi người viết bằng nhận thức của bản thân thể hiện được chủ kiến của mình, bằng phân tích và lập luận để ca ngợi và biểu dương cái đẹp, cái tốt, cái thiện (chân, thiện, mỹ) và lên án, vạch trần cái xấu, cái ác, cái phi nhân... Tất nhiên những hiện tượng đời sống nêu trong các đề văn dạng này vừa phải gần gũi với tuổi trẻ học đường vừa có ý nghĩa lớn lao đối với cả cộng đồng dân tộc và thế giới.
4.2.3 Các bước tiến hành
- Khái niệm hiện tượng (hiện tượng đó là gì?)
- Thực trạng của hiện tượng (biểu hiện cụ thể, các mặt tích cực, tiêu cực của hiện tượng)
- Hậu quả, tác hại của hiện tượng đó (nếu là hiện tượng tiêu cực)
- Nguyên nhân của việc xảy ra hiện tượng đó là gì?
- Biện pháp khắc phục, xử lí thế nào?
- Liên hệ bản thân.
4.2.4 Một số đề bài ví dụ
Đề 1: Nhân dịp Quốc tế Phụ nữ 8/3/2009 , Tổng thư kí Liên hợp quốc Ban-ki-mun tuyên bố : “Bạo lực đối với phụ nữ nữ là một tội ác ghê tởm”. Suy nghĩ của anh/chị về vấn đề này ?
Đề 2: “Vào đại học có phải là con đường tiến thân duy nhất của tuổi trẻ ngày nay?”. Suy nghĩ của anh/chị về vấn đề trên.
Đề 3: Có ý kiến cho rằng: “Con người từng ngày thay đổi công nghệ nhưng chính công nghệ cũng đang thay đổi cuộc sống của con người”. Viết bài văn nghị luận bàn về ý kiến trên.
Đề 4: Con người và tự nhiên, ai đang làm chủ thế giới này?
4.3 Nghị luận về một số vấn đề NLXH được rút ra từ các tác phẩm văn học, tác phẩm nghệ thuật
4.3.1 Khái niệm:
Đây là dạng đề về một vấn đề xã hội, một triết lí nhân văn sâu sắc nào đó được rút ra từ trong tác phẩm văn học, tác phẩm nghệ thuật. Vấn đề xã hội này có thể học sinh đã được học ở trong chương trình sách giáo khoa của mình hoặc trích trong các mẫu báo, tài liệu khoa học nào đó.
4.3.2 Đề tài hướng tới
Các vấn đề xã hội sâu sắc, nhân văn từ trong tác phẩm văn học như lòng yêu nước, mục đích sống, trách nhiệm của thanh niên trong xã hội hiện nay, ý chí nghị lực trong cuộc sống, đức tính khiêm tốn, lí tưởng sống,..
4.3.3 Các bước được tiến hành theo cấu trúc sau
Bước 1: Tóm tắt, giải thích, nêu nội dung chính của vấn đề xã hội đặt ra.
Bước 2: Nghị luận xã hội, tiến hành các thao tác nghị luận xã hội bình thường tùy thuộc xem đó là tư tưởng đạo lí hoặc hiện tượng đời sống.
4.3.4 Một số đề bài ví dụ
Đề 1: Từ cảm nhận về cảnh tượng người đàn bà hành chài bị chồng đánh trên bãi biển trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, anh/chị hãy bàn về nạn bạo hành gia đình.
Đề 2: Trong đoạn trích “Đất nước” (trường ca “Mặt đường và khát vọng”) có những câu thơ:
“Em ơi em đất nước là xương máu của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nước muôn đời…”
Theo anh/chị nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm muốn gửi tới thế hệ trẻ thông điệp gì qua đoạn thơ trên ? Hãy viết bài văn trình bày suy nghĩ của mình về vai trò của gia đình với cuộc sống của mỗi con người.
Đề 3:
“Đừng đố kị cũng đừng hợm hĩnh
Bạn tôi ơi hãnh diện làm chủ bản thân
Tự dưới thấp hãy nhìn thông cao vợi
Nhìn mây trời
Chứ không phải nhìn thế nhân
Còn nếu bạn giữa vinh quang chói lọi
Hãy tự mình vượt qua nó bạn ơi
Tự trên cao hãy nhìn xuống suối
Xuống cỏ hoa chứ không phải con người”
(Vô đề, Pimen Panchenko)
Đoạn thơ trên gợi cho anh chị suy nghĩ gì về cách mỗi con người nhìn thấy chính mình?
Đề 4:
LÀM NGƯỜI
“Ngồi thì co
đứng thì thẳng
làm người thật khó”
(Lời người Dáy)
để trở thành một người biết sinh con đẻ cái
như thế chưa khó
để trở thành người biết ăn ngon mặc đẹp
như thế cũng chưa khó
để trở thành một người giàu có
như thế vẫn chưa khó
để trở thành một người sống lâu trăm tuổi
như thế cũng vẫn chưa khó
vậy làm người khó nhất là gì?
nghĩ đi nghĩ lại
nghĩ gần nghĩ xa
nghĩ cao nghĩ thấp
nghĩ hẹp nghĩ rộng
có người đẹp ngoài mà xấu trong
có người xấu ngoài mà đẹp trong
có người già mà vẫn trẻ
có người trẻ mà đã già
có người sống mà đã chết
có người chết mà vẫn sống
làm người khó nhất là: sống!
(Lò Ngân Sủn- Người trên đá, NXB Văn hóa- dân tộc, 2000, tr.6)
Suy nghĩ của anh (chị) về thông điệp tác giả gửi gắm trong bài thơ trên?
Đề 5: Viết bài văn thể hiện những suy nghĩ của anh/ chị về điều được gợi ra từ bức tranh dưới đây:
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN - CÁC LỖI THƯỜNG GẶP TRONG BÀI VĂN NLXH CỦA HỌC SINH GIỎI.
1. Lỗi xác định vấn đề nghị luận.
Thiết nghĩ, khi làm bài nghị luận xã hội thì đây là một khâu quan trọng, có phần quyết định bài làm đạt yêu cầu hay không của học sinh. Bởi lẽ, nếu xác định yêu cầu sai, không đúng hoặc chưa toàn diện thì học sinh sẽ làm lạc đề, lệch hướng hoặc chưa toàn diện bài viết.
Để có thể viết được một bài văn nghị luận xã hội đúng và chặt chẽ, trước hết học sinh cần xác định đúng vấn đề cần nghị luận. Rồi sau đó mới có thể đưa ra hệ thống các ý hay luận điểm, luận cứ để lập luận một cách logic.
Song cũng cần lưu ý, để không bị lạc đề và xác định đúng hướng của bài làm, học sinh cần đọc và phân tích thật kĩ đề bài. Tức là phải hiểu rõ ý nghĩa của từng từ, từng câu và cả cách ngắt câu, dùng dấu câu trong đề bài.
Tuy nhiên trong quá trình làm bài học sinh đôi khi vẫn không thể tránh khỏi việc mắc phải một số lỗi trong việc xác định yêu cầu của đề. Và đặc biệt đây cũng là một lỗi không phải hiếm gặp trong một số bài viết của học sinh giỏi. Dưới đây là một số lỗi sai điển hình mà bài làm văn nghị luận xã hội của học sinh giỏi thường mắc:
1.1 Không xác định được hoặc xác định sai vấn đề nghị luận.
- Với đặc thù của đề thi học sinh giỏi là thường khó với các dạng đề mở, hay đề có nhiều ẩn ý, nhiều lớp nghĩa chìm sâu trong câu chữ nên đôi khi việc không đọc kĩ đề hay còn chưa chắc chắn về kiến thức dễ dẫn đến việc học sinh xác định sai vấn đề nghị luận. Đây là một lỗi rất nghiêm trọng bởi lẽ xác định sai vấn đề cần nghị luận sẽ dẫn đến không nắm được yêu cầu của đề bài, bài viết sẽ đi sai hướng không nhấn mạnh được vào trọng tâm khiến bài làm lan man, dài dòng mà không đạt đến vấn đề cần nghị luận. Đặc biệt đây cũng là một lỗi rất thường thấy không chỉ trong bài viết của học sinh đại trà mà có cả trong bài làm của học sinh giỏi.
Ví dụ 1: Trong bài thơ “Khúc dân ca” Nguyễn Duy viết:
“Mây bay bằng gió của trời
Là ta ta hát bằng lời của ta.”
Suy nghĩ của anh/ chị về ý thơ trên.
Có học sinh xác định vấn đề nghị luận là hai câu thơ đề cập đến lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, mỗi công dân trong một đất nước phải luôn tự hào về những nét bản sắc riêng, tiếng nói riêng của dân tộc mình. Trong khi đó trọng tâm vấn đề lại đề cập tới vấn đề: Dẫu rằng cuốc sống đầy phức tạp, nhiều điều phải chịu tác động từ hoàn cảnh nhưng con người cần được sống là chính mình một cách trọn vẹn nhất. Ở đây học sinh đã không đọc kĩ đề dẫn đến xác định sai vấn đề từ đó bài viết triển khai lệch hướng, thất bại khi không bàn luận được đúng yêu cầu đặt ra trong đề bài.
Ví dụ 2:
Một ngọn cỏ tự do làm thành thảo nguyên
Một cái cây tự do làm thành cánh rừng
Một con cá tự do làm thành biển cả
Một con chim tự do làm thành bầu trời
Một con người tự do làm thành vũ trụ.
(Nguyễn Quang Thiều, Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng)
Theo anh/ chị đoạn thơ trên đề cập đến vấn đề gì? Viết một bài văn nghị luận bàn về vấn đề đặt ra trong đoạn thơ.
Đề bài này đề cập đến vấn đề: Tự do là nhu cầu bản thể, là quyền cơ bản của con người khi tồn tại trong cuộc đời. Nhưng có học sinh lại xác định vấn đề nghị luận ở đây là: Những cá thể nhỏ bé lâu dần với nỗ lực không ngừng sẽ có thể phát triển thành những điều to lớn, vĩ đại. Ở đây vì không chắc về kiến thức nên học sinh đã xác định sai lệch hoàn toàn với vấn đề cần bàn luận dẫn đến việc bài viết viết về một vấn đề khác xa, không trúng với những gì mà đề bài đặt ra.
Ví dụ 3:
Một ngày kia tôi đi thăm bố tôi ở Atlanta. Nhà cụ cách nhà tôi khoảng ba, bốn dặm và muốn đến đó phải đi qua đường Simpson. Khi tôi về nhà vào ban đêm – quý bạn ơi, tôi nói cho quý bạn nghe, đường Simpson là một con đường ngoằn ngoèo, khúc khuỷu. Bên lề đường có một anh chàng đưa tay vẫy tôi dừng lại. Tôi cảm thấy là người này cần giúp đỡ; tôi biết là người này cẩn giúp đỡ. Nhưng lúc đó tôi không biết được điều này. Và thú thực với các bạn, tôi đi luôn. Tôi không dám mạo hiểm như vậy
Tôi muốn nói với các bạn sáng ngày hôm nay là câu hỏi câu hỏi đầu tiên thầy tế lễ hỏi cũng là câu đầu tiên tôi hỏi trên đoạn đường Jericho ở Atlanta, tức là đường Simpson. Câu hỏi đầu tiên mà người Lê – vi hỏi là: “Nếu tôi dừng lại để giúp người này, thì việc gì sẽ xảy đến cho tôi?” Nhưng người tốt bụng Samari đi đến và đảo ngược câu hỏi. Không phải là “điều gì sẽ xảy đến cho tôi nếu tôi dừng lại để giúp người này?” mà là “điều gì sẽ xảy đến cho anh ta nếu tôi không dừng lại gặp anh ấy?”…
(Trích diễn văn: Ba Chiều của Một Đời Sống Trọn Vẹn- Dr. Martin Luther King)
Suy nghĩ của anh (chị) từ hai câu hỏi trong đoạn trích trên.
Với đề bài này có học sinh xác định vấn đề nghị luận là đặt ra câu hỏi: Liệu rằng chúng ta đã và đang nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện hay chưa? Song ở đề bài này thì vấn đề cần bàn luận lại là: Bên cạnh việc yêu quý, trân trọng, lo lắng cho bản thân thì mỗi người cũng cần biết quan tâm, chia sẻ với người khác mới có thể làm nên ý nghĩa của cuộc sống.
1.2 Xác định chưa trúng trọng tâm của vấn đề nghị luận.
- Nếu như lỗi xác định sai vấn đề nghị luận là một lỗi đôi khi mới mắc phải trong bài viết của học sinh giỏi thì việc xác định chưa trúng trọng tâm của vấn đề nghị luận lại là một lỗi thường thấy trong bài làm của học sinh. Tất nhiên lỗi xác định chưa thật sâu, thật trúng vấn đề không ảnh hưởng quá nhiều và nghiêm trọng đến chất lượng của bài viết song không phải là nó sẽ không làm giảm đi độ sâu, và độ chính xác trong bài văn của học sinh giỏi. Từ đây cũng dẫn đến thực trạng là học sinh xác định trọng tâm nghị luận rộng hơn hoặc hẹp hơn yêu cầu của đề ra, do đó bài làm bị vênh với đề, luận điểm vừa thừa vừa thiếu. Đây là một lỗi thường mắc phải khiến cho bài văn của học sinh mới chỉ chạm đến được vấn đề mà vẫn chưa thật trúng vào vấn đề mà đề cập tới khiên cho bài viết có ý nhưng lại không sâu, chưa thực có độ lắng, người đọc văn sẽ cảm thấy chưa thật thỏa mãn khi đọc bài viết như vẫn còn mong muốn nuối tiếc điều gì từ ngòi bút của người viết. Vậy nguyên nhân gì dẫn đến việc người học, người viết vẫn thường mắc phải lỗi xác định chưa thật trúng, thật sát vấn đề cần nghị luận.
Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến là việc người viết đọc chưa thật kĩ đề, chỉ đọc lướt một lần rồi bắt tay vào viết bài dẫn đến chưa thực sự hiểu thấu vấn đề mà đề cập khiến bài viết cho dù bàn luận rất dài mà không nhấn mạnh đúng, trúng yêu cầu cần đạt.
Một nguyên nhân nữa dẫn đến việc xác định được một phần của vấn đề mà vẫn không thể xác định, triển khai hết toàn vẹn được những điều mà đề bài đặt ra, đó chính là việc người viết hay chính là bản thân học sinh giỏi chưa hiểu được ngôn từ, ý nghĩa của các vế câu trong nhận định, những tầng nghĩa ẩn sâu trong một tác phẩm nghệ thuật. Đây có lẽ cũng là một trong những nguyên nhân thường thấy trong các bài viết của học sinh. Việc không hiểu đúng, toàn vẹn, hoặc hiểu nhưng chưa thực sâu sắc rất dễ dẫn đến việc học sinh dù có đề cập đến vấn đề nhưng vẫn không đạt được đến vấn đề cuối cùng mà đề bài đặt ra khiến cho bài viết không thể có những lập luận chặt chẽ, sắc bén làm thuyết phục người đọc.
Ví dụ 1:
“ Sống – là cá nhân mỗi người đang gửi một thông điệp đến cuộc sống.”
Suy nghĩ của anh (chị) về vấn đề trên và về một thông điệp anh (chị) muốn gửi gắm.
Với đề bài này có học sinh mới chỉ xác định được vấn đề cần nghị luận là: Ý kiến chính là một bức thông điệp mà người nói muốn gửi gắm tới cuộc đời chung rằng: mỗi con người sống trên đời này đều luôn phải tìm tòi và không ngừng khám phá cho mình một cách sống riêng và cách sống ấy sẽ giống như một bức thông điệp gửi tới cuộc đời chung giúp xã hội trở nên phong phú, muôn màu, muôn vẻ. Và cũng từ đây, mỗi chúng ta cũng tự soi xét lại bản thân để đúc rút và gửi gắm một bức thông điệp của riêng mình tới cuộc sống. Trong khi đó vấn đề cần nghị luận ở đây hiểu một cách sâu sắc và đầy đủ là: Bản chất cuộc sống của mỗi chúng ta, cách chúng ta sống đã là một thông điệp chúng ta gửi đến cuộc sống, tác động sâu xa đến cuộc sống xung quanh, chúng ta cần có trách nhiệm với thông điệp của mình. Như vậy, ở đề bài này học sinh đã hiểu hơi xa so với vấn đề cần bàn khi cho rằng thông điệp sống mà mỗi cá nhân gửi đến là luôn phải tìm tòi, khám phá cho mình một cách sống riêng. Tuy nhiên ở đề này chúng ta chỉ cần hiều rằng chính cách sống của ta đã là một thông điệp đầy ý nghĩa ta gửi tới cuộc đời cho dù không cao sang, phi thường mà chỉ giản dị là chính ta.
Ví dụ 2:
“Thỉnh thoảng chúng ta vẫn bắt gặp những người tự cho mình quyền được phán xét người khác theo một định kiến có sẵn. Những người không bao giờ chịu chấp nhận sự khác biệt. Đó không phải là điều tồi tệ nhất. Điều tồi tệ nhất là chúng ta chấp nhận buông mình vào tấm lưới định kiến đó. Cuộc sống của ta nếu bị chi phối bởi định kiến của bản thân đã là điều rất tệ nếu bị điều khiển bởi định kiến của người khác hẳn còn tệ hơn nhiều.”
(Nếu biết trăm năm là hữu hạn – Phạm Lữ Ân)
Suy nghĩ của anh (chị) về hiện tượng được đề cập trong đoạn trích trên.
Có học sinh xác định vấn đề nghị luận của đề bài này là đề cập đến hai kiểu người trong cuộc sống mà ta đã gặp phải, đó là những người thường phán xét, nhìn nhận người khác bằng định kiến và cả những con người chịu đựng sống dưới tấm lưới định kiến đó. Xác định như vậy không sai nhưng chưa chạm đến được vấn đề mà đề bài đặt ra dẫn đến bài viết sẽ không sâu sắc khi người viết quên mất bài học vô cùng ý nghĩa mà ý kiến đặt ra. Đối với đề bài này cần xác định yêu cầu của đề là : Trong cuộc sống, mỗi con người phải biết vượt qua những định kiến, vượt qua nỗi sợ hãi cố hữu để khẳng định mình, để được sống đúng là mình.
Ví dụ 3:
Bình luận câu nói của Tônxtôi: “Bạn đừng chờ đợi những quà tặng bất ngờ từ cuộc sống, mà hãy tự mình làm nên cuộc sống”.
Nhiều học sinh xác định vấn đề nghị luận là: Phải sống chủ động, tích cực, trong lúc trọng tâm vấn đề hẹp hơn: phải chủ động, tích cực để tự mang lại hạnh phúc thành công cho chính mình.
2. Lỗi về luận điểm
2.1 Không xác lập được luận điểm, viết chung chung, thiếu luận điểm
Đây là một thực trạng khá phổ biến , nhiều học sinh khi làm bài, lập ý mà thiếu kĩ năng trình bày, dẫn đến thiếu luận điểm, luận điểm không nổi bật vì bị lẫn vào nhưng câu phân tích lí giải,…Một số học sinh thích diễn đạt rườm rà , cầu kì khiến luận điểm mơ hồ, thiếu chính xác.
Ví dụ 1: Với đề bài Viết bài văn khoảng 1000 từ bàn về lời bài hát sau: “Đừng sống giống như hòn đá,…sống không một tình yêu, sống chỉ biết riêng mình. Tâm hồn luôn luôn băng giá. Đừng hóa thân thành đá, vì tâm hồn đá giá băng”: Nhiều học sinh chỉ quan tầm đến bề nổi của vấn đề là lối sống vị kỉ, phải biết yêu thương người khác,… Thế nhưng đối với bài làm của HSG thì cần phải đào sâu và nhìn nhận toàn diện mọi vấn đề. Vậy nên không thể phủ nhận hoàn toàn sự yêu thương bản thân của mỗi con người, bởi chỉ khi yêu bản thân con người ta mới có thể mở lòng mình yêu thương người khác. Và đây cũng là một luận điểm quan trọng làm nổi bật vấn đề nghị luận của bài.
Ví dụ 2: Có học sinh khi phản biện ý kiến : “Bị đánh bại chỉ là nhất thời, bỏ cuộc mới là thất bại vĩnh viễn” đã diễn đạt : “Trong cuộc sống con người cũng cần học cách từ bỏ”. Khi thảo luận thậm chí các em còn không nhận ra mình bị mắc lỗi diễn đạt ở phản biện. Đó là lỗi diễn đạt chung chung. Việc diễn đạt chung chung như thế dễ trở thành “vơ đũa cả nắm”, biến điều cá biệt trở thành phổ biến, dẫn đến tự mâu thuẫn với chính những điều mình ra sức chứng minh ở phần trước.
2.2 Lặp ý, sắp xếp các ý lộn xộn
Bài làm của học sinh thường bị ý sau lặp lại nội dung của ý trước hoặc các ý sắp xếp không theo trật tự, thiếu tính logic khiến cho bài văn dàn trải, không gây được ấn tượng với người chấm.
Ví dụ 1: Để chứng minh “Lao động là cái đáng quý nhất”, có học sinh nêu ra bốn ý :
(1). Lao động sáng tạo ra loài người.
(2). Lao động nuôi sống con người.
(3). Lao động sáng tạo ra mọi của cải vật chất và tinh thần trong xã hội.
(4). Lao động là môi trường rèn luyện để con người hoàn thiện không ngừng.
- > Ta thấy ý (2) bị bao chứa trong ý (3). Đặt một ý nhỏ ngang hàng với ý lớn như vậy cũng gây ra tình trạng lặp ý khi viết.
2.3 Ý không phục vụ cho vấn đề
Có những ý nhỏ không phù hợp với nội dung của ý lớn hoặc có những ý nhỏ bậc dưới không phù hợp với nội dung của ý nhỏ bậc trên, hoặc có những luận điểm không phục vụ cho vấn đề mà đề bài đặt ra cho người viết.
Ví dụ: Để nêu nguyên nhân của vấn đề bạo lực học đường, một bạn phân tích như sau :
+ Nguyên nhân khách quan:
(1). Một trong những nguyên nhân cơ bản là tình trạng nhiều nơi chú trọng về chữ, nhẹ về dạy người, đạo đức dần bị bỏ quên.
(2). Gia đình ít quan tâm giáo dục con cái.
(3). Các bạn học sinh học tập căng thẳng nên dễ dẫn đến những tình trạng ức chế về tâm lý. Cộng với ở độ tuổi vị thành niên, học sinh thường có những suy nghĩ bốc đồng, mang trên mình cái tôi cá nhân quá lớn. Lòng tự trọng, hay nổi nóng vì những chuyện không đáng và có khi gây ra những hậu quả đáng tiếc cho bản thân và cho người khác.
+ Nguyên nhân chủ quan:
(4). Nhiều bạn trẻ quan niệm rằng: dùng bạo lực có tác dụng nhanh, hiệu quả tức thì, đối phương phải phục tùng mình. Thế nên tình trạng bạo lực học đường cứ tiếp diễn từ ngày này sang ngày khác, truyền từ người này sang người khác.
Ở ví dụ trên, ý nhỏ (3) không phù hợp với nội dung của ý lớn ” nguyên nhân khách quan“.
3. Lỗi về dẫn chứng
Dẫn chứng là những sự vật, sự việc, số liệu, ý kiến được đưa ra để chứng minh, làm cơ sở cho điều nói ra, viết ra. Đối với bộ môn ngữ văn, quá trình làm bài cần thiết phải có dẫn chứng để bài viết tăng sức thuyết phục, tạo nên văn phong hấp dẫn, sinh động. Dẫn chứng đưa vào bài nhằm khẳng định, củng cố phần đã phân tích, cảm nhận. Vì vậy, dẫn chứng phải được chọn lọc, tiêu biểu, chính xác, đảm nhiệm được chức năng làm ngọn đuốc, đốm lửa của nó trong bài văn nghị luận.
Mục đích của văn nghị luận là tác động, thuyết phục người đọc, người nghe. Để làm sáng tỏ vấn đề nghị luận thì cần đến lí lẽ và dẫn chứng. Nếu như lí lẽ là những giải thích, cắt nghĩa để hiểu vấn đề thì dẫn chứng là đưa ra chứng cứ để chứng minh cho vấn đề. Một bài văn nghị luận mà không hoặc thiếu dẫn chứng thì sẽ không hoặc thiếu sức thuyết phục, người đọc sẽ không tin vào lí lẽ suông vì thiếu minh chứng.
3.1 Dẫn chứng không tiêu biểu, không cụ thể, dẫn chứng sai.
- Dẫn chứng sai: Lỗi này làm ảnh hưởng đến tính xác thực của văn bản. Bài viết không có dẫn chứng thì không có sức thuyết phục, dẫn chứng không chính xác thì cũng không có tác dụng gì. Không ít bài viết trích dẫn chứng không chính xác, chẳng hạn như trích sai từ ngữ, sai dấu câu, nhầm lẫn tên tác giả...
VD: Câu nói nổi tiếng của nhà bác học Thomas Edison: “Thiên tài chỉ có 1% là bẩm sinh, còn 99% là do sự nỗ lực” thì có học sinh lại viết vào trong bài làm của mình đó là câu nói của Albert Einstein.
Hoặc khi trích dẫn chứng là thơ:
“Hãy sống đi hãy hái tự bây giờ
Bông hồng thắm của cuộc đời đang sống”
(Sonnet gửi Helen- Pierre de Ronsard)
Thì có học sinh trích sai:
“Hãy sống đi hăng hái tự bây giờ
Bông hồng thắm của cuộc đời đang sống”
- Dẫn chứng mờ nhạt, không cụ thể: Dẫn chứng không đặc sắc, không tiêu biểu, không rõ ràng sẽ không làm sáng rõ được vấn đề cần nghị luận. Đối với bài văn NLXH của học sinh giỏi, các em càng phải tinh trong khâu chọn dẫn chứng. Trong rất nhiều bài văn NLXH mà chúng tôi chấm, có một số bài khi đưa dẫn chứng không nêu tên đối tượng, sự việc cụ thể mà chỉ nói chung chung “cô ấy...”, “có một bác sĩ nọ...” hoặc “tập thể này đã làm được những hành động hết sức tốt đẹp để đóng góp cho cộng đồng...” v.v Tất cả cách đưa dẫn chứng như thế này sẽ làm giảm sức thuyết phục của tất cả những lập luận, lí lẽ đi kèm.
- Dẫn chứng không có tính mới: Dẫn chứng đã quá quen thuộc, đã nhàm, không mới mẻ làm giảm đi tính hấp dẫn của văn bản nghị luận, không thể thu hút sự chú ý của người đọc, người chấm. Ví dụ: bàn về vấn đề nghị lực trong cuộc sống, sự cố gắng không ngại khó khăn gian khổ, chúng ta thường chỉ nhắc đến các dẫn chứng về Chủ tịch Hồ Chí Minh, thầy giáo Nguyễn Ngọc Kí.
3.2 Kể lể, chưa biết phân tích, tinh lọc dẫn chứng
Ở đây, vấn đề mà học sinh gặp phải đó là tìm dẫn chứng rồi nhưng viết dẫn chứng không đạt. Lỗi thường gặp nhất vẫn là sa đà, kể lể. Các em chưa biết cách tinh lọc dẫn chứng, chọn ra những đặc điểm tiêu biểu nhất về đối tượng, sự việc để đưa vào bài viết.
Ví dụ: Đề bài: “Thỉnh thoảng, chúng ta vẫn gặp những người tự cho mình quyền được phán xét người khác theo một định kiến có sẵn. Những người không bao giờ chịu chấp nhận sự khác biệt. Đó không phải điều tồi tệ nhất. Điều tồi tệ nhất là chúng ta chấp nhận buông mình vào tấm lưới định kiến đó. Cuộc sống của ta nếu bị chi phối bởi định kiến của bản thân đã là điều rất tệ, nên nếu bị điều khiển bởi những định kiến của người khác hẳn còn tệ hơn nhiều” ( Nếu trăm năm là hữu hạn - Phạm Ngữ Ân ). Hãy bình luận ý kiến trên. Có học sinh đã chọn dẫn chứng về hoa hậu
Một lỗi khác trong việc phân tích dẫn chứng đó là dung lượng dẫn chứng không được chia đều, có dẫn chứng viết quá sâu, quá dài, có dẫn chứng lại chỉ điểm qua một cách sơ sài, thậm chí chỉ nêu tên đối tượng, sự việc, không có lời lẽ diễn giải, bàn luận.
4. Lỗi về cách trình bày
4.1 Bố cục bài viết chưa hợp lí
Bố cục chính là cái “sườn” của bài văn. Không chỉ có bài văn NLXH, với bất kỳ dạng đề nào thì bài viết của học sinh cũng phải đầy đủ ba phần: mở bài, thân bài và kết bài. Tuy nhiên, học sinh thỉnh thoảng vẫn mắc phải những lỗi về bố cục chưa thật hợp lý như:
- Viết mở bài liền với thân bài hoặc thân bài liền với kết bài khiến người đọc rất khó phân biệt được bố cục ba phần của bài văn; hoặc viết mở bài hơn một đoạn văn ( nhiều đoạn).
- Một số học sinh do không đủ thời gian làm bài nên không kịp triển khai hết ý cho phần thân bài và viết luôn phần kết bài.
- Ngay cả trong phần thân bài, việc phân chia dung lượng cho các luận điểm lớn cũng không đều. Điều này là do các em chưa biết căn chỉnh thời gian hợp lí. Ví dụ như phần bàn luận, mở rộng nâng cao vấn đề viết quá dài khiến phần bài học nhận thức và hành động chỉ viết được một đoạn văn ngắn ba, bốn dòng.
4.2 Chưa biết cách mở bài, kết bài
Mở bài là đặt vấn đề, giới thiệu vấn đề nghị luận. Mở bài một bài văn tốt sẽ tạo ấn tượng tốt cho người đọc, người chấm. Ai cũng biết vậy. Nhưng để có một mở bài tốt, một mở bài đúng, không phải học sinh nào cũng làm được. Nhiều em không biết mở bài, mà đúng hơn là chưa chú ý mở bài sao cho đúng, cho hay. Các em cứ đặt bút là viết theo cảm tính, nghĩ gì viết nấy, không chịu để ý đề yêu cầu nghị luận cái gì, cứ viết chung chung, tràn lan, linh tinh, không có chọn lọc. Cho nên viết xong mở bài rồi chuyển xuống làm thân bài mà chưa thấy nêu ra được vấn đề đề yêu cầu nghị luận là gì cả. Những bài như vậy dù phần thân bài có viết nhiều mấy cũng trở nên mơ hồ, dễ lạc đề, lệch đề, điểm sẽ rất thấp. Có những mở bài phần dẫn dắt và phần trích dẫn vấn đề không ăn khớp, không hợp lí.
Ví dụ: Đề bài: Suy nghĩ của anh chị về câu nói của Blaise Pascal “Con người là một cây sậy, nhưng là một cây sậy biết suy nghĩ”. Có học sinh mở bài rằng:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng...”
Dòng sông, bông hoa hay hình ảnh con chim đều là hình ảnh của thiên nhiên và gắn bó mật thiết với cuộc sống của con người. Con người và tự nhiên là hai khía cạnh tồn tại song song với nhau. Vì vậy, trong một lần khẳng định giá trị của con người, Blaise Pascal đã cho rằng : “Con người là một cây sậy, nhưng là một cây sậy biết suy nghĩ.” Câu nói đã gợi lên trong chúng ta về mối quan hệ giữ con người và tự nhiên.
=> Nhận xét: Phần trên của mở bài không logic, không có khả năng dẫn đến phần sau. Cả phần mở bài có cảm giác không ăn khớp, liền mạch với nhau.
Kết bài có một vai trò quan trọng, nó có nhiệm vụ tổng kết, đánh giá những vấn đề đã được đặt ra ở phần mở bài và giải quyết ở phần thân bài. Đây chính là phần giúp cho bài văn thêm hoàn chỉnh và trọn vẹn. Tuy nhiên, trong bài viết của học sinh vẫn còn mắc một số lỗi như sau:
Nếu mở bài có tính chất của một câu hỏi, thì kết bài có tính chất là một câu trả lời. Vì vậy kết bài phải thâu tóm lại vấn đề đã được đặt ra ở mở bài và phát triển ở thân bài, đồng thời khơi gợi những nội dung cảm xúc nối tiếp từ những vấn đề đã nêu ra và giải quyết. Tuy nhiên, khi viết kết bài, học sinh thường quên hoặc rất ít tóm lại vấn đề được nghị luận ở bên trên. Đây là lỗi không phổ biến nhưng vẫn có học sinh mắc phải.
Bên cạnh lỗi sai đầu tiên, một số học sinh còn có phần kết bài quá ngắn gọn do không đủ thời gian hoặc mở bài thân bài viết quá nhiều dẫn tới phần kết bài cảm thấy không còn cảm xúc để viết. Viết sơ sài bằng một hai câu tón gọn, không có ấn tượng, không đọng lại được gì trong lòng người đọc. Thậm chí, có học sinh chỉ kết bài bằng một câu văn. Các em nên nhớ, một câu văn chưa đủ để tạo nên một đoạn văn kết bài, cho dù các em có viết câu văn đó dài đến bốn, năm dòng.
Và lỗi kết bài cuối cùng học sinh hay vướng phải, đó là kết bài quá dài dòng và lan man. Đây cũng là điều khiến cho học sinh bị mất điểm một cách đáng tiếc do viết lạc đề hoặc ý viết bị trùng với ý ở phần thân bài.
4.3 Cách sử dụng từ ngữ, đoạn văn.
Đoạn văn quá dài hoặc quá ngắn: có những đoạn văn chứng minh cho một luận điểm, học sinh viết quá dài, từ một trang rưỡi đến hai trang giấy, còn có đoạn văn chỉ viết bốn, năm dòng. Ta đều biết trong một bài văn sẽ có ý chính, ý phụ tương ứng với các đoạn văn, nhưng nếu viết đoạn văn quá dài hoặc quá ngắn sẽ khiến bố cục cả bài văn mất cân đối.
Lỗi lặp từ: không chỉ có bài viết của các đối tượng học sinh khác, học sinh giỏi đôi khi cũng mắc lỗi lặp từ trong khi viết. Ví dụ, trong bài làm của học sinh có đoạn:
“Con người là một loại sinh vật sống với những cảm xúc, và cảm xúc ấy được thể hiện qua trạng thái, ử chỉ, khuôn mặt của con người. Mọi biến thiên trong nội tâm con người chính là thứ tạo nên cảm xúc. Khi vui ta hạnh phúc, ta biết cười; khi buồn, khi sợ ta biết khóc; khi gặp những điều bất ngờ ta biết ngạc nhiên. Cảm xúc là thế giới tinh thần của con người, nó phân biệt con người với những loài robot khác, cỗ máy khác. Bởi vậy, con người không nên và không thể sống vô cảm, không bao giờ được sống như những hòn đá vô cảm, mà phải luôn sống mạnh mẽ, dũng cảm và tràn đầy tình yêu thương.”
=> Nhận xét: ta thấy ở đây học sinh bị lặp từ “con người” và “cảm xúc” làm giảm sức hấp dẫn của đoạn văn.
Sai chính tả: Cẩu thả, tùy tiện, thiếu ý thức tôn trọng tiếng Việt là nguyên nhân dẫn đến lỗi này. Đây lại là lỗi mà hầu như học sinh nào cũng mắc, kể cả HSG, không nhiều thì ít, không nặng thì nhẹ. Lỗi này cũng làm các em bị mất nhiều điểm đáng tiếc. Thay vì trả lời đúng hết ý, các em sẽ được trọn điểm của câu, nhưng vì dính lỗi này nên bị trừ điểm. Có những lỗi sai nhỏ, lỗi không đáng kể giám khảo có thể bỏ qua. Nhưng có lỗi không thể tha thứ được vì các em dùng từ, viết từ quá tùy tiện, ngô nghê, rất khó chấp nhận.
Ví dụ: Thái độ “bàng quan” lại viết “bàng quang”, vật “gia bảo” lại viết “gia truyền”, “độc giả” lại viết là “đọc giả”,… rồi thì tiếng Anh, tiếng Pháp dùng chung với tiếng Việt... Đây là những lỗi tối kỵ phải tuyệt đối tránh.
III. CÁCH KHẮC PHỤC LỖI TRONG BÀI VĂN NLXH CỦA HỌC SINH GIỎI.
1. Cách khắc phục lỗi xác định vấn đề nghị luận
- Trước khi làm bài học sinh cần đọc thật kĩ yêu cầu của đề để xác định đúng dạng đề rồi mới có thể định hình chính xác được phạm vi vấn đề nghị luận.
- Chú ý những từ khóa của đề (với đề dưới dạng ý kiến, nhận định, đoạn thơ, đoạn văn), tìm ra cốt ý của cả câu; quan sát tỉ mỉ những điểm đặc biệt đáng chú ý của đề (với đề là bức tranh, hình ảnh) để có thể xác định đúng, trúng trọng tâm vấn đề cần nghị luận.
- Nâng cao vốn từ vựng, vốn hiểu biết để không bị động trước những từ ngữ khó, những đề mở hóc búa, những tầng nghĩa sâu xa ẩn dưới lớp ngôn từ và hình ảnh của đề bài.
- Học sinh trước những đề văn cần tư duy thật sâu sắc, thật mạch lạc, cần phải tỉnh táo để không xác định sai, thiếu hoặc xác định vấn đề quá rộng so với yêu cầu của đề tránh dẫn đến việc bài viết lan man, dài dòng mà vẫn thiếu ý, lập luận không chặt chẽ, sắc bén.
- Nâng cao vốn từ vựng, vốn hiểu biết để không bị động trước những từ ngữ khó, những đề mở hóc búa, những tầng nghĩa sâu xa ẩn dưới lớp ngôn từ và hình ảnh của đề bài.
- Bên cạnh đó học sinh cũng cần phải thường xuyên rèn luyện, tự mình tìm tòi luyện tập xác định vấn đề nghị luận của các đề văn do thầy cô giáo ra đề hay các đề học sinh tự tìm kiếm được trên mạng, qua sách báo,… Từ đó rèn cho mình được kĩ năng đọc, phân tích đề hiều quả để không còn bỡ ngỡ trước những kiểu đề khó, đề mới và có thể xác định được đúng vấn đề cần nghị luận, có được một bài viết chất lượng, đi vào lòng người đọc.
- Song ngoài việc trau dồi, học tập và cải thiện về mặt kĩ năng tìm hiểu, xác lập sao cho có thể xác định chính xác vấn đề nghị luận, học sinh cũng cần không ngừng bồi đắp vốn kiến thức thực tế để không bỡ ngỡ trước những dạng đề mới về những vấn đề của đời sống.
- Có thể thấy để có thể xác định đúng, trúng vấn đề và viết được một bài văn có độ sâu, độ lắng, độ sắc bén trong triển khai và lập luận cần phải bỏ ra rất nhiều thời gian và công sức. Để xác định được sâu sắc một vấn đề nghị luận thì cũng rất cần sự kiên trì, tinh thần không ngừng học hỏi, cầu thị để có thể tiến bộ từng ngày và có thể dễ dàng xác định và giải quyết được bất cứ một đề bài nào.
2. Cách khắc phục lỗi về luận điểm
2.1 Không xác lập được luận điểm, nói chung chung, thiếu luận điểm
- Muốn xác lập đúng luận điểm thì phải thường xuyên đặt ra vấn đề: Vì sao? Tại sao? cách hỏi ấy làm hiện lên ý trả lời trong đầu.
Chẳng hạn với vấn đề nhận thức đặt ra trong quan niệm của J.Houston: “Chúng ta sẽ nắm được 10% những gì đọc được, 15% những gì nghe thấy và 80% những gì tự trải nghiệm” thì sau khi giải thích để xác định rằng chúng ta chỉ làm được phần nhỏ những gì mình đọc được, nghe thấy và sẽ nắm được phần lớn những gì sự trải nghiệm”, chúng ta có thể đặt ra những câu hỏi sau:
- Vì sao chúng ta chỉ tiếp thu được một phần nhỏ những gì đọc được, nghe thấy?
- Vì sao chúng ta sẽ nắm được phần lớn những gì tự trải nghiệm?
Việc suy nghĩ tìm ra câu trả lời sẽ giúp ta tháo gỡ dần để tiếp cận và nắm vững bản chất vấn đề. Với câu hỏi thứ nhất, chúng ta cần thấy rõ những khía cạnh sau:
- Vì mỗi chúng ta đều chỉ có một giới hạn về năng lực, một giới hạn về chuyên môn và một giới hạn về phạm vi hiểu biết nên không phải những gì ta đọc được nghe thấy đều có thể hiểu hết được.
- Vì trong trường hợp đó sự tiếp thu của chúng ta chỉ là tiếp thu một cách gián tiếp qua hiểu biết, nhận thức cách nhìn và cách lý giải của người khác.
- Vì những gì đọc được, nghe thấy mà chưa có sự kiểm nghiệm trong thực tế thì ý nghĩa giá trị của nó chưa thể bộc lộ rõ ràng trọn vẹn.
Với câu hỏi thứ hai, chúng ta cần thấy được những khía cạnh sau:
- Khi trải nghiệm, chúng ta sẽ nắm bắt trực tiếp vấn đề trong ý nghĩa thực tế của nó.
- Khi trải nghiệm, dù thành công hay thất bại ta cũng có được những kinh nghiệm thực tế để giải quyết vấn đề.
- Khi tự trải nghiệm, ta sẽ phải vận dụng toàn bộ năng lực hiểu biết trong quá trình tích lũy trước đó để ứng phó, xử lý những tình huống cụ thể, đó chính là điều kiện để ta nắm bắt nó một cách trọn vẹn hơn.
Ví dụ như với đề bài :
“Mây bay bằng gió của trời
Là ta ta hát bằng lời của ta”
(Khúc dân ca - Nguyễn Duy)
Suy nghĩ của anh/chị về ý kiến trên ?
Đa số học sinh chỉ làm luận điểm chính của bài là “con người cần phải sống là chính mình” tức là chỉ chú ý đến vế hai của câu thơ mà quên đi vế một “Mây bay bằng gió của trời”. Điều này dẫn đến việc luận điểm không được chặt chẽ, không làm nổi bật được rõ nội dung của đề. Bởi vậy, với đề bài này thì học sinh khi làm bài cần phải nhìn bao quát toàn vấn đề từ diện đến điểm. Không thể chỉ dựa vào chính bản thân mà làm nên hạnh phúc cho con người mà còn cần đến sự quan tâm giúp đỡ của người khác. Đặc biệt không thể cực đoan chỉ nhất nhất làm theo ý mình mà không cần quan tâm đến người khác.
Như vậy khi làm bài văn NLXH thì học sinh cần chú ý đến yêu cầu của đề bài, nhìn nhận vấn đề mà đề bài đặt ra dưới nhiều góc độ để không bị thiếu luận điểm hay luận điểm chung chung. Có như thế bài viết mới sắc sảo và gây được hứng thú cho người đọc.
2.2 Lặp ý, sắp xếp các ý lộn xộn
- Để khắc phục lỗi này thì học sinh nên tuân thủ theo các bước của bài văn NLXH thông thường là : Giải thích -> Bình luận chứng minh ý kiến nhận định đó là đúng hay là sai -> rút ra bài học cho bản thân. Như vậy bài văn sẽ tránh được việc lộn xộn, lập luận không có sức thuyết phục.
- Còn về lỗi lặp ý, hiện tượng ý sau lặp ý trước, ý trước bao trùm lên ý sau hoặc trình tự các ý lộn xộn dài dòng. Để khắc phục tình trạng trên, các bạn học sinh nên làm dàn ý trước, đề ra những luận điểm, luận cứ cần triển khai trong bài viết.
2.3 Ý không phục vụ cho vấn đề
- Lỗi ý không phục vụ cho vấn đề là do khi viết bài học sinh không chịu đọc kỹ đề, không xác định đúng được các yêu cầu của đề ra, không nắm phương pháp làm bài, hoặc chỉ chăm chăm chú chú học thuộc lòng văn mẫu để đối phó…
- Để tránh trường hợp này, trước hết cần phải đọc đề thật kỹ, sau đó cẩn trọng xác định thật chính xác 3 yêu cầu đề ra:
+ Yêu cầu về nội dung nghị luận. Đây là yêu cầu quan trọng nhất.
+ Yêu cầu về phương pháp – cách thức nghị luận (nghị luận bằng cách nào? Phân tích hay chứng minh …)
+ Yêu cầu về phạm vi nghị luận (trong thực tế cuộc sống, trong văn học,…)
Chốt lại, lỗi về ý căn nguyên chủ yếu là do việc lập dàn ý của HS chưa chu toàn, sửa từ gốc sẽ không gây khó khăn cho HS khi loay hoay chữa lỗi từng bài viết về ý vốn thuộc phần ngọn. Bài viết có thể giới hạn trong số lượng nhất định, song lập dàn ý với HS giỏi cần trở thành công việc hàng tuần, thậm chí hàng ngày, GV kết hợp sửa chéo giữa các HS và sửa trực tiếp cho HS là cách làm tốt nhất để HS không mắc lỗi về ý trong quá trình viết.
3. Cách khắc phục lỗi về dẫn chứng
- Để có nguồn dẫn chứng phong phú cho mình, học sinh cần phải thu thập bằng cách quan sát xã hội, theo dõi thông tin báo đài, ghi chép và ghi nhớ. Có thể lấy dẫn chứng từ người thật việc thật, từ sách, từ các tác phẩm văn học. Cần chia các nguồn dẫn chứng thành các nhóm đề tài, chủ đề riêng để tiện cho việc sử dụng. Ví dụ: Dẫn chứng về những nhân vật giàu nghị lực sống; những con người có niềm đam mê, có khát vọng lớn; những việc tử tế, những hành dộng nhân đạo trong cộng dồng;...
* Lưu ý: NLXH cần hài hòa dẫn chứng từ văn học và đời sống. Trong đó cần ưu tiên hơn từ đời sống để phù hợp với kiểu bài. Chẳng hạn một bài văn NLXH chỉ cần một hoặc cũng có thể không cần đến dẫn chứng từ văn học, nhưng chúng ta cần hai đến ba dẫn chứng từ đời sống. Bởi văn học dù xuất phát từ hiện thực nhưng vẫn là sản phẩm của hư cấu tưởng tượng.
- Người xưa có câu: “Nói có sách, mách có chứng”. Nay học sinh muốn thuyết phục giám khảo, cần biết cách đưa dẫn chứng vào bài văn nghị luận. Để đưa dẫn chứng vào bài làm hiệu quả, nên áp dụng 3 bước sau:
Bước 1, từ luận điểm đang nghị luận, liên hệ với dẫn chứng tương ứng (dẫn chứng có thể tương đồng hoặc dị biệt).
Bước 2, tái hiện lại dẫn chứng (có kèm phân tích/diễn giải/bàn luận).
Bước 3, chốt ý, bám sát dẫn chứng với luận điểm (dẫn chứng có liên hệ gì với luận điểm, dẫn chứng làm sáng tỏ hơn cho luận điểm điều gì…).
- Dẫn chứng phải có tính thực tế và thuyết phục. Đó thường là các dẫn chứng về những tấm gương tốt, người nổi tiếng, có tài năng, phẩm chất và có đủ sức tác động đến bạn đọc; những việc làm nhân đạo, ý nghĩa, truyền cảm hứng đến cho người tiếp nhận.
VD: vấn đề nghị luận là nghị lực, sự cố gắng bền bỉ không ngừng, vượt lên hoàn cảnh, ta có thể lấy một số dẫn chứng như:
Nhà sáng lập hãng xe Ford – Henry Ford: Trước khi hãng xe Ford có được một cơ ngơi như ngày nay, người sáng lập Henry Ford đã từng lập rồi phá ba công ty. Công ty thứ nhất mang tên Detroit nhưng nhanh chóng phá sản do Henry Ford chỉ tập trung thiết kế xe mà không kinh doanh. Công ty thứ hai mang tên ông chuyên về xe đua, nhưng sau đó chính Henry Ford bị các nhà đầu tư buộc rời khỏi công ty. Doanh nghiệp thứ ba thì bị phá sản do doanh thu đi xuống. Nhưng ông không hề nản hí mà tiếp tục cố gắng và giành được thành công trong sự nghiệp của mình.
Alexander Graham Bell: Khuyết tật: Mắc chứng khó đọc – viết (dyslexia) và không có khả năng học tập (learning disability) Nhưng ông vẫn phát minh ra điện thoại – một phát minh giúp ích rất lớn cho cuộc sống của con người và cũng là một bước tiến trong sự phát triển ngành thông tin liên lạc.
Đề bài: Có ý kiến cho rằng: Sống là một cuộc vượt thoát khỏi những định kiến. Suy nghĩ của anh chị về ý kiến trên.
Bài làm:
“Định kiến ban đầu bắt nguồn từ lối suy nghĩ áp đặt. Đó là hệ lụy của môi trường sống, cách giáo dục, quan hệ xã hội và nhiều yếu tố khác nữa. Sống trong cùng một gia đình, tư tưởng của bố mẹ ảnh hưởng trực tiếp di truyền đến con cái. Điều đó lí giải vì sao một đứa trẻ quý tộc ngay từ khi còn nhỏ đã mang định kiến, xa lánh bạn bè nghèo khó. Nhớ lại lịch sử thế giới những năm 1930, ở Châu Âu, người da màu không bao giờ được hưởng quyền lợi hay công bằng. Họ bị kì thị, bị khinh thường, rẻ rúng. Người da đen không được phép đi vào các nhà hàng, khách sạn. Thậm chí sinh mạng của họ còn không đáng giá bằng một con chó của người da trắng. Họ chỉ là lũ tay sai ngu dốt, mạt hạ. Định kiến găm chặt vào tiềm thức, chỉ cần nhìn thấy bất cứ một ai mang màu da khác biệt đều bị coi là kẻ thấp kém hơn mình. Nó đã phân tách thế giới của người da trắng và người ra màu thành hai thế giới biệt lập, cũng là cách chúng tạo ra sự khoảng cách giữa người với người, thử hỏi còn gì đáng sợ hơn khoảng cách ấy?”
(Trích bài làm của học sinh)
=> Trước hết việc lựa chọn dẫn chứng ở bài viết này tiêu biểu, gắn với vấn đề. Đồng thời người viết không chỉ dừng lại ở việc đưa ra dẫn chứng mà việc phân tích dẫn chứng cũng khá hay khi biết từ dẫn chứng ấy chỉ ra được tác hại to lớn của “định kiến”. Đó là cách tạo ra sự liên kết các ý một cách tự nhiên, khiến cho dẫn chứng phát huy được hết tác dụng của mình, mang tính thuyết phục cao, lôi cuốn được người đọc.
Tương tự, chúng tôi có một số cách phân tích dẫn chứng tham khảo sau:
Đề bài:“Thất bại lớn nhất của con người là sợ phải thất bại”.Anh/chị có đồng tình với quan điểm trên hay không?
Bài làm:
“Nếu thành công là quả ngọt của những năm tháng nỗ lực theo đuổi mục tiêu, thì thất bại chính là người thầy tuyệt vời trên chặng đường ấy. Thất bại cho ta những kinh nghiệm, hiểu biết mà không có bất cứ sách vở nào nói đến. Bạn có biết rằng Edison đã thành công phát minh ra bóng đèn điện sau hơn 10000 lần thất bại, tất nhiên điều đó cũng đã từng đem đến cho ông những mỏi mệt; nhưng một điều chắc chắn rằng Edison không bao giờ nản chí, hai chữ “thất bại” không thể hình thành nên trong ông nỗi sợ hãi. Tôi vẫn có nhớ như in những lời bất hủ của ông: “Tôi không thất bại. Tôi chỉ là tìm ra được 10000 cách nó không hoạt động”. Trước ý chí và niềm tin ấy, thất bại đã ngả mũ trước ông, người đàn ông không mang trong mình nỗi sợ thất bại ấy đã làm lên lịch sử với phát minh khiến toàn nhân loại sửng sốt. Đúng vậy, mỗi chúng ta sinh ra định sẵn là một kẻ chiến đấu, nếu cứ mang trong mình nỗi sợ thất bại vậy kết cục chỉ là một sự tồn tại vô danh, chứ liệu rằng có được mọi người nhớ đến muôn đời như Edison? […]”
(Trích bài làm của học sinh)
*Lưu ý rằng, khi đưa dẫn chứng không nhất thiết lúc nào cũng phải lựa chọn những dẫn chứng cụ thể, đôi khi cũng thể nói chung chung chỉ một tập thể, một loại người cũng là một cách hay:
“Ai cũng ôm giấc mộng muốn làm được những điều lớn lao, vì vậy, mơ ước, khát vọng của mỗi người chính là những điều nhỏ để tạo nên những khát vọng lớn. Những nguyện vọng ấy là tâm huyết chính đáng của mỗi người vì thế mọi người xung quanh cần tôn trọng, động viên, khuyến khích họ thực hiện. Như mỗi học sinh chúng ta thì mong muốn mình sẽ đỗ vào trường đại học mà mình mơ ước, bác nông dân thì mơ tới một mùa màng bội thu hay những người nghèo thì mơ tới một cuộc sống đủ cơm ăn áo mặc, có khi lại là người thầy giáo, cô giáo với ao ước được truyền lại cho học trò của mình những kiến thức bổ ích về cả học thuật lẫn đạo đức, ... Mong muốn của con người là vô tận và trong cuộc sống xung quanh ta có nhiều người ấp ủ trong mình những khát vọng lớn lao”.
(Trích bài làm của học sinh)
4. Cách khắc phục lỗi về trình bày
4.1 Bố cục bài viết hợp lí
Dù bài viết ở dạng đề nào thì cũng phải duy trì bố cục 3 phần là mở bài, thân bài, kết luận để làm hài hòa phần hình thức của bài viết, Dù là bài viết của HSG có phá cách, sáng tạo thì vẫn phải đảm bảo bố cục ba phần:
Mở bài: Cần trình bày được vấn đề được đặt ra trong đề ( hiện tượng, tư tưởng nào đó ). Cần có phần dẫn dắt vấn đề đi vào một cách tự nhiên, tránh gò bó, tránh gượng ép gây cảm giác khó chịu cho người đọc, mở đầu phải tạo được ấn tượng cho người đọc.
Thân bài: Được xem như phần xương sống của bài viết, bởi vì nó giải quyết những vấn đề chính của đề bài. Thường phần thân bài sẽ trả lời cho các câu hỏi vấn đề này có ý nghĩa gì? Nó đúng hay sai, tại sao? Vấn đề này thường diễn ra phổ biến trong cuộc sống như thế nào? Cần làm gì để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của nó trong xã hội hiện nay? Bạn cần làm gì để hiện thực hóa nó trong cuộc sống thực tế hiện tại? Đó là một yêu cầu cơ bản trong việc viết một thân bài của dạng bài nghị luận xã hội.
Đối với phần nghị luận xã hội về hiện tượng đời sống nên lấy nhiều ví dụ minh họa cụ thể ở ngoài đời sống đề làm cho bài viết của bạn thêm sinh động, thuyết phục người đọc hơn.
Kết bài: tuy ngắn nhưng có vai trò quan trọng vì nó khép lại cả vấn đề mà bài viết đang đề cập tới và mở rộng liên tưởng ra những ý kiến cá nhân của bạn về bài viết.
Một số cách để viết đoạn văn đúng, hay:
+ Xác định đoạn văn thuộc phần nào của thân bài (giải thích hay bình luận, chứng minh) để có thao tác lập luận phù hợp.
+ Xác định luận điểm, các ý cần triển khai trong đoạn văn (đã xây dựng ở phần dàn ý) để đi đúng hướng, tránh lan man, xa đề không làm sáng rõ được luận điểm.
+ Mỗi đoạn văn chỉ nên phục vụ một hoặc hai ý chính, tránh việc lẫn lộn, không rõ ý, mất đi tính logic của văn bản.
+ Đảm bảo sự cân bằng: Để tăng tính khoa học cho toàn bài các đoạn văn cần sự cân bằng, không đoạn văn nào quá dài cũng không đoạn văn nào quá ngắn.
+ Diễn đạt trong sáng, hấp dẫn để tăng tính thuyết phục cho đoạn văn
+ Đảm bảo tính liên kết giữa các câu văn trong đoạn, xác định và sắp xếp các luận cứ một cách rõ ràng (diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp).
VD:
Đề bài: Giản Tư Trung trong cuốn sách “Đúng việc” có đưa ra khái niệm người trí thức. Đó là những người có đủ ba điều kiện:
1) Sự hiểu biết
2) Thức tỉnh xã hội
3) Vì mục đích cao quý (hướng xã hội đến cái đúng và cái đẹp)
Nếu không hội tụ đủ ba điều kiện này(hoặc chỉ có đủ điều kiện đầu tiên) thì chỉ là trí nô mà thôi.
Anh/chị suy nghĩ như thế nào về quan điểm trên.
Bài làm:
“Trong bất kì xã hội nào, thời đại nào cũng vậy, con người luôn cần có kiến thức, có hiểu biết về cuộc sống xung quanh. Thế giới mà chúng ta đang sống theo guồng quay của công nghệ, kĩ thuật số không ngừng biến đổi như vũ bão. Mỗi giây trôi qua lại ghi nhận vào kho tàng tri thức của nhân loại bao khám phá mới về mọi lĩnh vực. Nếu con người không có hiểu biết phong phú và không ngừng mở rộng vốn hiểu biết ấy sẽ nhanh chóng bị đánh bật ra khỏi vòng xoáy chung của cuộc sống, công việc. Có ai đó đã từng nói “Điều duy nhất giúp con người tồn tại được là khả năng thích nghi mạnh mẽ” và hiểu biết chính là một loại năng lực thích nghi của con người vói sự chuyển biến không ngừng trong cuộc sống bộn bề, phức tạp này. Cứ nhìn vào cuộc hành trình của nhân loại từ lửa đến khí ga và năng lượng điện từ, từ ti vi đen trắng đến màn hình tinh thể siêu mỏng, chỉ trong vòng vài chục năm mà chiếc điện thoại bàn cồng kềnh đã bị thay thế bởi chiếc điện thoại thông minh cũng đủ thấy sự cần thiết của hiểu biết, tri thức với mỗi con người,. Thiếu đi hiểu biết, con người lập tức sẽ trở nên lạc lõng, tụt lại phía sau quy luật phát triển chung.
Hiểu biết còn là một nhu cầu mang tính bản năng của con người. Đứng trước thế giới phong phú với vô vàn những hiện tượng phức tạp, đa chiều, con người luôn có nhu cầu được tìm hiểu, khám phá. Hiểu biết giúp chúng ta có được cái nhìn sâu sắc, toàn diện về đời sống xung quanh, tránh gặp phải những sai lầm không đáng có. Ngày xưa hay ngày nay, trong bất kể lĩnh vực nào cũng vậy, không có hiểu biết thì kể cả những công việc lao động chân tay con người cũng khó mà làm được. Trồng cây, trồng lúa mà không biết gì về thời vụ, đặc tính cây trồng hay xây nhà mà không hiểu gì về loại gạch, cách thiết kế thì cũng chóng thất bại mà thôi. Con người sẽ dễ dàng bị biến thành kẻ thụ động trước cuộc sống khi không biết gì về nó. Không có kiến thức, con người thậm chí không thể phục vụ nhu cầu vật chất, tinh thần của bản thân mình. Thế mới thấy vốn hiểu biết, tri thức như chiếc chìa khóa duy nhất để tồn tại, để sống có ý nghĩa vậy”.
(Trích bài làm của học sinh)
=> Hai đoạn văn đều trên phục vụ cho việc lí giải, chứng minh cho luận điểm: Để trở thành người tri thức cần “sự hiểu biết”. Tuy vậy mỗi đoạn văn đều làm sáng rõ lên một ý riêng biệt, đoạn thứ nhất nói về sự hiểu biết về kiến thức trong đời sống thường nhật của con người; đoạn thứ hai khẳng định tích lũy kiến thức là một nhu cầu bản năng của con người và tính cần thiết, lợi ích của sự hiểu biết. Hai đoạn văn có dung lượng gần như cân bằng khiến bài viết không nghiêng quá về một phần, cũng nhờ vậy mà luận điểm được sáng rõ. Các ý được sắp xếp logic, rõ ràng, câu văn có sự liên kết khiến cho tư duy được thể hiện một cách liền mạch.
4.2 Phần mở bài, kết bài .
- Để khắc phục các lỗi trong phần mở bài đã nêu trên, chúng ta cần đọc kỹ đề, xác định chính xác vấn đề nghị luận. Đề yêu cầu nghị luận vấn đề gì thì trong mở bài phải đặt ra được vấn đề ấy, nếu vấn đề nằm trong một nhận định thì mở bài cần phải trích nguyên nhận định ấy vào. Mở bài phải nằm tách khỏi thân bài, là một đoạn văn tách biệt, đặt ở đầu bài văn, lùi đầu dòng, chấm xuống dòng đầy đủ. Phần mở bài không được quá dài, nên giới hạn trong một đoạn văn khoảng 10 đến 12 dòng.
Đối với mở bài của học sinh giỏi, yêu cầu đặt ra không chỉ cần đúng, mà còn cần phải hay, sáng tạo, gây ấn tượng đối với người đọc. Học sinh có thể dẫn dắt vào vấn đề nghị luận bằng một ý kiến, một đoạn thơ hay một câu chuyện (ngắn gọn) có sự tương đồng về ý nghĩa với vấn đề nghị luận ấy. Làm sao để phần dẫn dắt liền mạch, ăn khớp với ý kiến nhận định, câu chuyện mà đề bài đưa ra. Ví dụ:
Đề bài “Có một gã khổng lồ đang say ngủ trong mỗi con người. Khi gã khổng lồ thức giấc, những phép màu sẽ xảy ra.” (Frederick Faust)
Suy nghĩ của anh chị về ý kiến trên?
Mở bài của học sinh:
“Nhà thơ Isa có đôi vần thơ làm tôi nhớ mãi chẳng thể nào quên:
“Chậm rì chậm rì Kìa con ốc nhỏ Leo đỉnh Fuji...”
Chặng đường mà “con ốc nhỏ” phải leo khiến người đọc liên tưởng tới cuộc đời của mỗi con người. Cuộc hành trình của con ốc trong bài thơ trên là một cuộc hành trình không tưởng, cũng như chặng đường đời của con người còn nhiều lắm những chông gai. Tuy nhiên, con đường lên đỉnh Fuji dẫu khó leo tới mức nào, đường đời dù có khó khăn gian khổ ra sao, con người cũng sẽ vượt qua được. Bởi lẽ gì? Phải chăng như Frederick Faust đã từng nói: “Có một gã khổng lồ đang say ngủ trong mỗi con nguời. Khi gã khổng lồ đó thức giấc, những phép màu sẽ xảy ra.”, nâng bước con người đi qua những giông tố của biển đời mênh mông để đặt chân tới đỉnh cao của thành công, danh vọng và niềm hạnh phúc.”
HS cũng cần phải luôn luôn ghi nhớ yêu cầu của mở bài:
- Ngắn gọn, súc tích: Không ít học sinh vì muốn tạo được ấn tượng từ đầu mà đã tốn rất nhiều thời gian vào phần mở bài. Đây là một lỗi cần phải khắc phục vì mở bài NLXH yêu cầu cao sự cô đọng, súc tích bởi nếu quá chú trọng sẽ mất thời gian và nếu quá dài sẽ khiến bị mất ý hoặc lặp ý trong phần thân bài.
- Đầy đủ: Dù mang tính gợi mở nhưng một mở bài đúng là một mở bài phải nêu ra được yêu cầu của đề một cách rõ ràng, chính xác.
- Độc đáo: Phần mở bài phải gây được sự chú ý cho người đọc về vấn đề cần nghị luận bằng cách nêu hoặc có những liên tưởng khác lạ, bất ngờ cho người đọc. Đặc biệt với học sinh giỏi bài viết NLXH yêu cầu cao tính sáng tạo, để gây ấn tượng với người đọc về “chất riêng” của người viết.
- Tự nhiên: Một mở bài hay không đồng nghĩa với sự phức tạp cầu kì. Đa số mở bài gây được cảm tình thường là những mở bài mang tính tự nhiên, gợi mở, gần gũi tạo cảm giác dễ chịu cho người đọc. Do đó, phần mở bài cũng chỉ nên dùng các ngôn từ giản dị, mộc mạc, tránh sáo rỗng, tránh gượng ép. Bởi điều này sẽ gây cho người đọc cảm giác mơ hồ, khó chịu về sự giả tạo.
- Tránh lạc đề: Nếu xác định vấn đề sai dẫn đến việc lạc đề ngay ở mở bài sẽ là một “điểm trừ” lớn, toàn bài có thể không trúng trọng tâm và mất đi cảm tình của người chấm. Bởi vậy một yêu cầu vô cùng quan trọng đó là phải đọc kĩ yêu cầu đề, xác định vấn đề và hướng triển khai một cách rõ ràng.
Khi kết bài học sinh cần thể hiện đúng quan điểm mà bản thân đã trình bày ở phần thân bài. Tùy mục đích nghị luận, người viết có thể sử dụng một trong các cách kết bài sau đây:
- Cách 1: Kết bài mang tính tóm lược, khái quát lại những vấn đề đã nêu ra ở thân bài.
Đề bài: Có ý kiến cho rằng: Sống là một cuộc vượt thoát khỏi những định kiến. Suy nghĩ của anh chị về ý kiến trên.
Bài làm:
“Như vậy,“Sống là cuộc vượt thoát khỏi những định kiến”. Tất cả đều phụ thuộc vào cá nhân có ý thức vượt qua cách trở ấy của loài người. Và tôi luôn tin rằng nếu cố gắng mình có thể khẳng định được nét đẹp phẩm chất người bên trong tâm hồn. Một hình xăm không nói lên điều gì cả, định kiến không thể chiến thắng vẻ đẹp vốn có bên trong con người bạn…”
(Trích bài làm của học sinh)
- Cách 2: Mở rộng và phát triển vấn đề theo chiều hướng mới hoặc rộng hơn.
Đề bài: Nhà văn Đoàn Minh Phượng có lần nảy ra ý tưởng về một bộ phim ngắn với nội dung như sau: "Có một đám dân làng kia được thầy pháp của họ dạy cho bí quyết để không bao giờ còn phải gặp đau khổ phải phiền lụy, không có gì để phải xót thương. Ông dạy họ làm những hình nhân bằng giấy, mỗi hình nhân nhận lấy một khoảng lịch sử, một câu chuyện, một số phận, mỗi hình nhân trở thành một số phận của mình và sau một thời gian khi số phận đó được sống đủ, người ta đem những hình nhân ấy đi nhấn chìm dưới sông, hay bất cứ một con mương con lạch nào đó tình cờ chảy ngang nơi họ sống. Các hình nhân ấy nhận lấy tất cả các buồn phiền và xao động thay cho dân làng.
Dân làng bắc ghế ngồi cạnh nhau nhìn ngắm các hình nhân đại diện đi qua các thứ số phận nhỏ lớn trước khi chìm vào những dòng nước.
Những hình nhân bằng giấy càng về cuối phim càng giống người, và ngược lại. Ở cuối phim ta thấy các hình nhân bằng giấy ngồi nhìn đám người vật vã trong số phận và cuối cùng bị nhấn chìm trong nước”.
Anh chị cảm nhận được điều gì từ ý tưởng của nhà văn Đoàn Minh Phượng?Hãy trình bày những suy nghĩ của mình bằng một bài văn ngắn.
Bài làm:
“Thay vì kết thúc bằng cách nhắc lại những gì đã phân tích trên, tôi muốn mở rộng thêm vấn đề theo một hướng mới. Bởi đôi khi, để cho người khác thấy mình thực hiện một công việc, một trách nhiệm nào đó không phải lúc nào cũng là sai trái. Chỉ là con người có điểm mạnh, điểm yếu, và chúng ta cần có nhau để tồn tại, để sống. Thế nên điều quan trọng chúng ta cần nghĩ tiếp là mỗi con người cần tìm ra ranh giới giữa việc tìm đến sự giúp đỡ và tự tạo con đường dẫn đến hủy diệt chính mình”.
(Trích bài làm của học sinh)
- Cách 3: Vận dụng, nêu phương hướng, bài học phát huy hay khắc phục vấn đề nêu ở thân bài.
Đề bài: Suy nghĩ về câu nói của nhà chính trị Mĩ Fran.KA.Clark đã nói: “Ai cũng muốn làm những điều gì đó lớn lao nhưng không nhận ra rằng cuộc sống được tạo thành từ những điều nhỏ nhất.”
Bài làm:
“Có thể nói, cuộc sống của ta là muôn vàn những điều nhỏ nhặt thú vị. Chính vì vậy, mỗi người hãy sống chậm lại, hãy cảm nhận những giá trị cao đẹp của những điều nhỏ để góp phần vun đắp lên cái lớn lao, xây dựng được những thành công của riêng mình bằng cách ngay bây giờ hãy tập bắt đầu mọi việc bằng những việc nhỏ nhất.
(Trích bài làm của học sinh)
- Cách 4: Mượn lời những câu nói, nhận định có uy tín hay những câu chuyện mang tính chất tương đồng để thay cho lời kết luận của người viết.
Đề bài: Vì mỗi khoảnh khắc đều là duy nhất…
Bài làm:
“Nguyên Tổng thống Mĩ Barack Obama từng nói: “Thay đổi sẽ không đến nếu ta trông chờ người khác hay chờ thời điểm khác. Ta chính là người ta chờ đợi, là khoảnh khắc ta cần đến”. Vì mọi khoảnh khắc đều là duy nhất nên sống ra sao, ghi lại được dấu ấn, ý nghĩa gì đều phụ thuộc ở bản thân mỗi chúng ta. Có thể ngay sau khoảnh khắc này, tôi và bạn đã khác....”
(Trích bài làm của học sinh)
4.3 Khắc phục lỗi về đoạn văn, câu văn, ngôn ngữ.
- Để tránh lỗi viết đoạn văn quá dài hoặc quá ngắn, trước tiên học sinh cần hiểu cấu trúc của một đoạn văn và cách viết một đoạn văn hoàn chỉnh, Có nhiều phương pháp viết đoạn văn: diễn dịch, quy nạp, song hành, móc xích, tổng – phân – hợp (trong đó phương pháp sử dụng phổ biến là diễn dịch, quy nạp… tổng – phân – hợp là phương pháp đòi hỏi ở người viết phải thật “khéo” để diễn ý “trùng nhưng không lặp”; có nghĩa là diễn tả một nội dung nhưng theo cách nói khác nhau. Một đoạn văn hoàn chỉnh sẽ diễn tả trọn vẹn một ý. Bài viết phải được chia thành những luận điểm. Và mỗi luận cứ của luận điểm đó, học sinh có thể trình bày thành một đoạn văn theo một trong các phương pháp trên. Khi bài viết được chia thành đoạn, mỗi đoạn diễn tả một nội dung trọn vẹn, chắc chắn bài viết của học sinh sẽ ghi điểm trong mắt người đọc, người chấm.
- Đối với các lỗi về ngữ pháp, chính tả, học sinh cần tự mình trau dồi, nâng cao vốn từ vựng tiếng Việt, nắm rõ cách sử dụng ngữ pháp để tránh những lỗi sai đáng tiếc. Bên cạnh đó cũng cần hiểu thấu nghĩa của từ để sử dụng chính xác, hợp lí.
- Giáo viên phải giao bài thường xuyên cho học sinh và yêu cầu các em viết bài nhiều. Khi học sinh viết xong, giáo viên cần chấm kĩ và sửa lỗi, chỉ ra những điểm đã được và chưa được yêu cầu học sinh phát huy và khắc phục, tránh viết nhận xét chung chung. Giáo viên cần dành thời gian và tâm huyết cho việc này.
Việc chữa lỗi cho HS thường được tiến hành thường xuyên và đồng bộ, không thể nay chữa ý mai chữa diễn đạt. Kết quả về sự chuyển biến tiến bộ của HS cần được theo dõi sát sao qua các bài viết liền kề. Đôi khi HS cần viết lại chính bài viết, đề bài mình đã được sửa chữa để rèn kỹ năng. Sau đây là một ví dụ về việc HS chữa lỗi sau khi viết bài. Với đề bài dưới đây, ban đầu, HS không xác định được luận điểm trung tâm mà loay hoay viết về định kiến của bản thân, mắc nhiều lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu, bài viết thiếu chất văn, dưới đây là bài viết sau khi HS được chữa lỗi:
Đề bài: “ Thỉnh thoảng chúng ta vẫn bắt gặp những người tự cho mình quyền được phán xét người khác theo một định kiến có sẵn. Những người không bao giờ chịu chấp nhận sự khác biệt. Đó không phải là điều tồi tệ nhất. Điều tồi tệ nhất là chúng ta chấp nhận buông mình vào tấm lưới định kiến đó. Cuộc sống của ta nếu bị chi phối bởi định kiến của bản thân đã là điều rất tệ nếu bị điều khiển bởi định kiến của người khác hẳn còn tệ hơn nhiều.”
(Nếu biết trăm năm là hữu hạn – Phạm Lữ Ân)
Suy nghĩ của anh (chị) về hiện tượng được đề cập trong đoạn trích trên.
Bài làm:
Trong cuộc sống, vẫn còn tồn tại một “căn bệnh lạ” khó chữa, ấy là hội chứng khác Niagara. Con người theo những xoay vần biến cải của cuộc đời buông mình theo dòng chảy của những xu hướng, thả mình trôi theo những đám đông mà không nghe theo tiếng gọi của những khát vọng không thuộc về bản thể những lý tưởng, ước mơ từ trong sâu thẳm, căn bệnh ấy sinh ra, phải chăng là do sự sợ hãi khi đứng trước những cái nhìn khắt khe, những định kiến của người xung quanh như Phạm Lữ Ân đã từng viết : “Thỉnh thoảng chúng ta vẫn gặp những người cho mình quyền được phán xét người khác theo một định kiến có sẵn. Những người không bao giờ chịu chấp nhận sự khác biệt. Đó không phải là điều tồi tệ nhất. Điều tồi tệ nhất là chúng ta đã chấp nhận buông mình vào tấm lưới định kiến đó. Cuộc sống của ta nếu bị chi phối bởi định kiến của bản thân đã là điều rất tệ, nên nếu bị điều khiển bởi định kiến của những người khác hẳn còn tệ hơn nhiều.”
Có thể nói ý kiến của Phạm Lữ Ân đã cho ta một bài học sâu sắc về cách sống của con người . Nhà văn rất tinh ý chỉ ra một biến tướng thường gặp trong cuộc sống của con người bị phán xét theo một “định kiến có sẵn” đó là một người khác đánh giá ta dựa trên một chuẩn mực của số đông. Tuy nhiên việc “bị phán xét” theo Phạm Lữ Ân chưa phải là điều tồi tệ nhất, khi con người “buông mình vào tấm lưới định kiến” nghe theo những đánh giá, nhận xét thậm chí là đưa ra phê bình của đám đông đó mới là điều tệ nhất. “Định kiến” là những tư tưởng, quan niệm thường mang ý nghĩa tiêu cực, áp đặt và rập khuôn con người theo những chuẩn mực nhất định cuộc sống. Nếu bị ảnh hưởng bởi những định kiến của bản thân và của những người xung quanh thì làm sao con người tìm được hạnh phúc , niềm vui thực sự ? Những chia sẻ của Phạm Lữ Ân không chỉ soi tỏ hiện trạng mà còn là một lời cảnh báo, chỉ hướng và tiếp thêm sức mạnh để con người dũng cảm sống chỉ là mình mặc cho định kiến cuả số đông.
Trong cuộc đời, con người là những cá thể với đặc điểm riêng, tính cách, hoàn cảnh và những ước mơ riêng. Con người là một phần của cộng đồng và đôi khi những cá tính, sự khác biệt so với tập thể lại chính là những nguyên nhân của ánh mắt soi mói, những đánh giá tiêu cực từ những người xung quanh, những định kiến xảy ra từ cộng đồng và ta chẳng tránh khỏi sự phán xét từ phía người khác. Tuy nhên bởi ai ai cũng có cái tôi và mong muốn được bộc lộ, được thể hiện cái tôi khác mình nên điều tồi tệ nhất mà con người gặp phải chính là khi con người bị định kiến của đám đông áp đặt và họ chấp nhận nó, gò mình theo khuôn mẫu của những quan niệm nhiều khi là hẹp hòi phiến diện và lạc hậu ấy. Trong con người tồn tại rất nhiều nỗi sợ, có khi ta đâu đủ mạnh mẽ và dũng cảm khi đối diện với ánh mắt và phán xét của một người vậy huống chi là ánh mắt của tập thể ? Bởi vì sự sợ hãi, dù trong thâm tâm ta nhận ra những quan điểm những tư tưởng ấy là lệch lạc, ta vẫn tự ru ngủ mình để rồi chạy theo đám đông. Định kiến dù là của chính mình đặt ra, hay của đám đông áp đặt lên mình đều mang những ảnh hưởng tiêu cực đói với cuộc sống của mỗi con người. Tuy nhiên định kiến của đám đông tác động đến ta, khiến ta bị gò ép, mà ta vẫn coi đó là một điều hiển nhiên và bị điều khiển bởi những điều ấy thì đó thật sự là một bi kịch của con người.Ta dần dần bị thay đổi vì cái nhìn cách đánh giá của một người khác và dần dần ta đánh mất chính mình. Ta không còn đủ kiên định động lực để theo đuổi những ước mơ, những khát vọng mà mình hàng ấp ủ.Ta không còn đủ động lực để bước tiếp con đường mà mình đã chọn . Thay vào đó ta mù quáng chạy theo số đông đánh mất cái đẹp từ thẳm sâu trong con người ta.
Việc con người dám đối diện và phản kháng với những định kiến lệch lạc để sống bằng chính mình đem lại cho con người niềm hạnh phúc và cao hơn là sự công nhận từ những người xung quanh. Hoa hậu H’Henie đăng quang trong ánh mắt soi xét của mọi người, trong sự so sánh của dư luận. Họ lấy chuẩn mực của cái đẹp mà đặt trong bối cảnh ngày nay có phần phiến diện để đánh giá cô và cho rằng cô không xứng đáng với bốn chữ “Hoa Hậu Việt Nam”. Mặc kệ những phán xét khắc khe và phần tiêu cực của số đông, H’Henie vẫn nhận ra thế mạnh, nhận ra những nét đẹp của chính mình và cố gắng hết mình để thể hiện những điều đó . Chính quá trình cố gắng không ngừng để thay đồi suy nghĩ của mọi người đã khiến H’Henie được công nhận, không chỉ vậy cô còn ghi dấu ấn rất riêng bởi vẻ đẹp lạ không trộn lẫn cùng sự thông minh sắc sảo và nghị lực đáng ngưỡng mộ. Như vậy cứ sống là mình dám đối mặt với những định kiến của đám đông cuộc sống của ta mới có ý nghĩa. Thay vì đeo lên tấm mặt nạ, che giấu đi bản chất của mình, việc ta sống với những ước ao, những khát vọng, sống như chính bản thân mình khiến ta nhận ra giá trị của cuộc sống.
Nếu con người cứ bị áp đặt mà không dám dứng lên cất tiếng nói của những điều mới mẻ và đúng đắn thì làm sao xã hội phát triển. Những con người không chịu điều khiển bởi định kiến là những người đi đầu . Họ là những người tiên phong, người mở đường, khai sáng cho con người . Galilê bảo vệ cho quan điểm: Trái Đất có hình tròn, đi ngược lại với những tuyên bố của Giáo Hoàng, để rồi vì thế nhận về cái chết đau đớn.Tuy nhiên, thời gian đã chứng minh học thuyết của ông là đúng đắn. Phải có những người đủ bản lĩnh, đủ năng lực đê tự cởi trói khỏi những quan điểm sai lệch, áp đặt, từ đó cởi trói cho cả những người xung quanh và thậm trí ngày cả nhân loại, xã hội mới có thể ngày càng trở nên văn minh và tiến bộ .
Con người ai mà chẳng muốn đươc sống là chính mình, nhưng đâu phải ai cũng có thể làm được điều đó? Phải có sự dũng cảm đủ ý trí,nghị lực, đủ tỉnh táo để phân biệt điều đúng sai, phải trái, có như thế ta mới đủ sưc để đứng vững trước những sóng gió của dư luận. Trong cuộc sống, có những định kiến tồn tại từ rất lâu đời nhng đó lại là chuẩn mực tích cực để con người vươn tới phấn đấu để hoàn thiện mình...
Như vậy con người giữa cõi cuộc đời còn nhiều biến động phức tạp,phải giữ cho mình sự tỉnh táo, sáng suốt khi đứng trươc ánh mắt soi xét của người khác để không tự nhốt mình trong cái lồng sắt của định kiến, để không đi theo những quan điểm sai lầm của số đông ...
Có người cho rằng sống giữa cuộc đời nên như trái cà chua. Bởi cà chua (tomato), đọc ngược lại vẫn là (tomato). Cà chua khi chín hay khi xanh cả trong hay ngoài đều có một màu đồng nhất.Nhưng nếu ta không dám đối mặt với những suy nghĩ áp đặt, với đinh kiến của số đông liệu ta có là chính mình, liệu ta có thể sống một cuộc sống hạnh phúc và ý nghĩa?
(Bài làm của học sinh )
PHẦN KẾT LUẬN
Với phạm vi của một chuyên đề, vấn đề Chữa lỗi trong bài văn nghị luận xã hội cho học sinh giỏi là một nội dung mà các giáo viên trực tiếp dạy bồi dưỡng các đội tuyển Ngữ văn đang rất trăn trở, quan tâm. Giải quyết tốt được vấn đề này là yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng bài làm văn nghị luận xã hội, cũng là nâng cao kết quả bài làm của học sinh giỏi. Học sinh được trang bị về kiến thức, hướng dẫn về kĩ năng làm bài văn nghị luận xã hội, nhưng không phải cứ được trang bị, hướng dẫn là học sinh có khả năng làm tốt, khả năng thực hiện bài viết ở mỗi học sinh lại có sự khác biệt, chênh lệch... Vì thế, chuyên đề của chúng tôi thực hiện hai bước quan trọng là xác định các lỗi trong bài văn nghị luận xã hội của học sinh giỏi và đề xuất cách sửa các lỗi đó cho các em
Với phạm vi có hạn chế của một chuyên đề nhỏ, số lượng tài liệu tham khảo ít ỏi, kinh nghiệm giảng dạy bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi còn chưa nhiều, chúng tôi không có tham vọng tìm hiểu thật toàn diện, sâu sắc về một đề tài thú vị và mang hàm lượng khoa học cao như đề tài này, nên trong quá trình thực hiện chúng tôi chỉ khiêm tốn mong muốn nêu ra những vấn đề cụ thể, có ý nghĩa thiết thực có thể chia sẻ cùng các đồng nghiệp những nhận thức và kinh nghiệm của chúng tôi trong quá trình bồi dưỡng cho học sinh giỏi. Các lỗi mà chúng tôi thống kê được trong chuyên đề cũng chưa thể tiêu biểu hết được cho những lỗi mà học sinh giỏi mắc trong quá trình làm bài văn nghị luận xã hội, mà chỉ nêu những lỗi mà theo chúng tôi là điển hình và thường gặp nhất. Điều chắc chắn là các bạn đồng nghiệp sẽ thấy còn khá nhiều lỗi trong thực tế bài làm của học sinh mà chúng tôi chưa đề cập đến hoặc chưa có giải pháp chữa lỗi thực sự triệt để.
Chúng tôi mong muốn rằng những gì được trình bày trong chuyên đề này sẽ là một tài liệu có giá trị tham khảo nhỏ bé và hữu ích với đồng nghiệp trong công tác giảng dạy thực tế tại các trường THPT Chuyên.
Mong các bạn đồng nghiệp dành cho chuyên đề của chúng tôi những nhận xét, đóng góp, chia sẻ chân thành để chúng tôi bổ sung và hoàn thiện thêm trong thời gian tới. Để chuyên đề này mang giá trị khoa học thiết thực và phát huy được ý nghĩa trong hoạt động bồi dưỡng học sinh giỏi.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Hạnh, Chuyên đề: Rèn luyện nâng cao kỹ năng làm bài NLXH cho HS giỏi, chuyên đề Hội thảo khoa học Olympic Hùng Vương năm 2019.
2. Nguyễn Duy Kha, Hoàng Văn Quyết (2016), Tuyển chọn những bài văn đoạt giải quốc gia học sinh giỏi trung học phổ thông 2004 – 2014, NXB Giáo dục Việt Nam, H.
3. Nhiều tác giả (2007), Từ điển thuật ngữ Văn học , NXB Giáo dục Việt Nam, H
4. Đỗ Ngọc Thống (2016), Luyện thi trung học phổ thông quốc gia năm 2017 môn Văn, NXB Giáo dục Việt Nam, H.
5. Đỗ Ngọc Thống (2016), Tài liệu chuyên Văn tập một, hai, ba, NXB Giáo dục Việt Nam, H.
6. Nguyễn Thị Liễu Hoàn (2018), Lỗi kĩ năng học sinh thường mắc phải khi làm bài văn nghị luận xã hội, Giáo dục và Thời đại ra ngày 03/5/2018.
7. Hoàng Long Trọng, Kinh nghiệm làm văn Nghị luận xã hội,
http://www.giaoduc.edu.vn
8. Nguyễn Thị Hồng Cảnh, Một số lỗi cần tránh khi làm bài thi văn nghị luận, http://baoninhthuan.com.vn...
chuyên đề HSG
CHỮA LỖI TRONG BÀI VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI CHO HỌC SINH
PHỤ LỤC
|
Trang
|
PHẦN MỞ ĐẦU
|
3
|
I. Lí do chọn đề tài………………………………………………………...
|
3
|
II. Lịch sử vấn đề………………………………………………………….
|
3
|
III. Nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu và đóng góp mới của đề tài…………
|
5
|
1. Nhiệm vụ nghiên cứu…………………………………………………..
|
5
|
2. Phạm vi nghiên cứu……………………………………………………
|
5
|
3. Đóng góp của đề tài……………………………………………………
|
6
|
IV. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………..
|
6
|
V. Cấu trúc của chuyên đề………………………………………………..
|
6
|
PHẦN NỘI DUNG
|
|
I. Cơ sở lí luận…………………………………………………………….
|
7
|
1. Văn nghị luận…………………………………………………………..
|
7
|
2. Nghị luận xã hội………………………………………………………..
|
7
|
3. Nghị luận xã hội trong đề thi học sinh giỏi……………………………
|
8
|
4. Các dạng đề thi NLXH trong đề thi học sinh giỏi.................................
|
8
|
4.1 Nghị luận về một tư tưởng đạo lí.........................................................
|
8
|
4.2 Nghị luận về một hiện tượng đời sống................................................
|
10
|
4.3 Nghị luận về một số vấn đề NLXH được rút ra từ các tác phẩm văn học nghệ thuật……………………………………………………………
|
11
|
II. Cơ sở thực tiễn………………………………………………………..
|
13
|
1. Lỗi xác định vấn đề nghị luận…………………………………………
|
13
|
2. Lỗi về luận điểm………………………………………………………
|
16
|
3. Lỗi về dẫn chứng……………………………………………………...
|
18
|
4. Lỗi về cách trình bày………………………………………………….
|
19
|
III. Cách khắc phục lỗi trong bài văn NLXH của học sinh giỏi…………
|
21
|
1. Cách khắc phục lỗi xác định vấn đề nghị luận………………………..
|
21
|
2. Cách khắc phục lỗi về luận điểm………………………………………
|
22
|
3. Cách khắc phục lỗi về dẫn chứng……………………………………...
|
24
|
4. Cách khắc phục lỗi về trình bày……………………………………….
|
26
|
PHẦN KẾT LUẬN
|
36
|
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
|
37
|
PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, việc phát triển các năng lực, năng khiếu văn chương cho học sinh là nhiệm vụ hàng đầu. Các năng khiếu, năng lực ấy được biểu hiện ra ở rất nhiều các phương diện, yếu tố khác nhau, trong đó quan trọng là cần được thể hiện ra trong các bài viết văn nghị luận. Nghị luận văn học và Nghị luận xã hội.
Nghị luận xã hội là dạng bài bắt buộc trong các đề thi học sinh giỏi, với mục đích kiểm tra và đánh giá được khả năng tư duy, mức độ quan tâm tới thực tế cuộc sống, vốn sống, cách nhìn, cách nghĩ, khả năng ngôn ngữ, văn chương... nhưng trong thực tế, việc rèn luyện kĩ năng viết văn NLXH cho học sinh giỏi hiện nay chưa được chú trọng đúng mức. Việc này dẫn đến chất lượng bài văn nghị luận xã hội ở một bộ phận học sinh còn chưa cao, đặc biệt là các lỗi trong bài văn còn xuất hiện khá nhiều.
Các tài liệu nghiên cứu chuyên sâu về văn nghị luận xã hội còn ít, hơn nữa những bài viết chuyên sâu lại thiên về lí thuyết, dạng nghiên cứu mang tính chất lí luận, hàn lâm. Trực tiếp giảng dạy, rèn kĩ năng, chữa lỗi cho học sinh là giáo viên thì nhiều khi chưa thực sự để tâm khái quát, hệ thống những lỗi thường gặp của học sinh mà chủ yếu quan tâm đến việc khắc phục một số lỗi cụ thể trong những bài văn cụ thể của học sinh. Trong khi đó, mục đích của việc bồi dưỡng học sinh giỏi môn ngữ văn là phát hiện, bồi đắp năng khiếu cho học sinh, bởi vậy, nhất định phải nâng cao chất lượng bài viết cho học sinh. Để làm được điều đó thì việc xác định chính xác những lỗi sai trong bài văn nghị luận xã hội cho học sinh, sửa các lỗi sai đó một cách nghiêm túc, hiệu quả sẽ khắc phục được những hạn chế, làm tăng chất lượng bài làm văn.
Vì vậy, trong phạm vi một chuyên đề, chúng tôi xác định cần có những tìm hiểu sâu hơn về thực trạng và những lỗi mà học sinh có thể mắc khi làm bài văn nghị luận xã hội, hệ thống những lỗi sai thường gặp trong bài văn nghị luận xa hội của học sinh giỏi, từ đó chỉ ra các cách cụ thể để khắc phục những lỗi sai ấy để các em có được những bài làm văn nghị luận xã hội tốt, thể hiện được một cách tôt nhất kiến thức, năng lực, năng khiếu của các em.
II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Có khá nhiều tài liệu hướng dẫn làm văn nghị luận xã hội cho đối tượng là học sinh THCS (tài liệu cho lớp 8, lớp 9, tài liệu hướng dẫn ôn thi tuyển sinh vào 10 THPT), THPT (đặc biệt là các tài liệu luyện thi THPTQG môn Ngữ văn), nhưng qua tìm hiểu của chúng tôi thì chưa có tài liệu nghiên cứu công phu và bài bản về vấn đề Chữa lỗi trong bài văn nghị luận xã hội cho học sinh giỏi.
Trong một số tài liệu có thể tìm thấy những vấn đề liên quan đến vấn đề chúng tôi đang đề cập. Cuốn Tài liệu tập huấn phát triển chuyên môn giáo viên trường THPT Chuyên môn Ngữ văn của Vụ giáo dục trung học xuất bản tháng 11 năm 2011 có phần Một số đề thi đáp án và bài văn đoạt giải Nhất kì thi HSG Quốc gia môn Ngữ văn một số năm, trong đó có những nhận xét ngắn gọn về ưu điểm nổi bật của mỗi bài làm được giới thiệu, từ đó cho chúng ta nắm được những yêu cầu đặt ra của Hội đồng chấm và hạn chế của những bài văn đạt giải thấp hoặc không đạt giải, trong. Trong cuốn Tuyển chọn những bài văn đạt giải quốc gia học sinh giỏi THPT 2004 đến 2014 do Nguyễn Duy Kha và Hoàng Văn Quyết tuyển chọn và biên soạn là tài liệu tập hợp những bài viết xuất sắc nhất của kì thi học sinh giỏi quốc gia hàng năm và với mỗi đề thi có phần gợi ý làm bài. Những nhận xét sau mỗi bài thi xuất sắc là những định hướng quan trọng để chúng tôi tham khảo về cách nhận diện, triển khai vấn đề, cũng như đối chiếu với bài làm của học sinh để xác định rõ ràng hơn những lỗi mà học sinh mắc phải trong quá trình viết bài, trong đó có bài văn nghị luận xã hội.
Mặc dù trong chương trình Ngữ văn cấp THPT có bài Chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận và Kế hoạch dạy học môn Ngữ văn có một số bài viết yêu cầu viết văn nghị luận xã hội (việc xây dựng kế hoạch này hiện nay do các trường chủ động), sau các tiết kiểm tra có bố trí các tiết trả bài kiểm tra. Qua thực tế chấm bài của học sinh, giáo viên đã tìm và chỉ ra các ưu khuyết điểm trong bài viết của học sinh, giúp các em giữ và phát huy được những ưu điểm, sửa chữa những hạn chế, lỗi sai. Nhưng cả sách giáo khoa và chương trình dạy học đều chưa có nội dung nào đề cập đến việc phát hiện và khắc phục các lỗi trong bài làm văn nói chung, nghị luận xã hội nói riêng. Trong chương trình THCS và THPT có các bài lí thuyết và luyện tập: Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí; Nghị luận về một hiện tượng đời sống, nhưng nội dung chủ yếu của các bài này không đề cập đến lỗi thường gặp của học sinh khi viết văn nghị luận xã hội, càng không có liên quan đến vấn đề chữa lỗi trong bài văn nghị luận xã hội cho học sinh giỏi.
Trên các tạp chí, báo, và các trang mạng có khá nhiều bài viết có nội dung hướng dẫn các kĩ năng làm bài văn nghị luận xã hội, các lỗi thường gặp và cách khắc phục như Lỗi kĩ năng học sinh thường mắc phải khi làm bài văn nghị luận xã hội của tác giả Nguyễn Thị Liễu Hoàn, giáo viên trường THPT chuyên Võ Nguyên Giáp - Quảng Bình trên báo Giáo dục và Thời đại ra ngày 03/5/2018, Kinh nghiệm làm văn Nghị luận xã hội của Hoàng Long Trọng, trường THCS Văn Lang, Q1, TP HCM trên trang http://www.giaoduc.edu.vn; Một số lỗi cần tránh khi làm bài thi văn nghị luận của Nguyễn Thị Hồng Cảnh, giáo viên văn trường THPT Chu Văn An trên trang http://baoninhthuan.com.vn... tuy nhiên, các bài viết mới chỉ dừng lại ở hướng dẫn các kĩ năng cơ bản, thống kê các lỗi thường gặp, chưa chỉ ra được cách khắc phục một cách chi tiết và hiệu quả. Đặc biệt là chưa có bài viết nào hướng tới đối tượng học sinh giỏi mà chỉ dành cho học sinh THCS, THPT nói chung, vì thế giá trị tham khảo sử dụng cho đối tượng học sinh giỏi có những hạn chế nhất định.
Từ những thực tiễn trên đây, chúng tôi thực hiện chuyên đề này với mong muốn có những tìm hiểu tương đối sâu kĩ, có tính hệ thống về các lỗi và cách chữa lỗi cho học sinh giỏi trong bài làm văn nghị luận xã hội, trước tiên là để sử dụng trong quá trình dạy bồi dưỡng cho đội tuyển học sinh giỏi môn Ngữ văn của nhà trường, và nếu có thể chúng tôi mong đây có thể là một tài liệu có giá trị tham khảo cho các bạn đồng nghiệp ở các trường THPT khác, đặc biệt là ở các trường THPT Chuyên, với nhiệm vụ đặc thù là bồi dưỡng học sinh năng khiếu.
Chuyên đề của chúng tôi được hoàn thành trên cơ sở có tham khảo những gợi ý của các tài liệu được nhắc đến ở trên và các tài liệu tương tự, dựa vào kinh nghiệm tích lũy trong quá trình dạy bồi dưỡng học sinh giỏi và thực tiễn bài làm của học sinh… mong rằng đây sẽ là một tài liệu có tính hệ thống, có giá trị khoa học nhất định.
III. NHIỆM VỤ, PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để giúp học sinh giỏi nhận thức được những lỗi sai thường mắc phải trong bài văn nghị luận xã hội, nguyên nhân của các lỗi sai đó và cách khắc phục hiệu quả, chuyên đề Chữa lỗi trong bài văn nghị luận xã hội cho học sinh giỏi của chúng tôi đặt ra và hướng tới việc giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Những khái niệm cơ bản liên quan đến kiểu bài nghị luận xã hội, đến bài nghị luận xã hội trong đề học sinh giỏi, việc làm bài nghị luận xã hội của học sinh giỏi.
- Những lỗi thường gặp trong bài văn nghị luận xã hội của học sinh giỏi.
- Một số giải pháp để khắc phục những lỗi đã hệ thống.
Các nội dung sẽ trình bày từ cơ sở lí thuyết đến thực hành, từ khái quát, khái niệm đến những vấn đề chi tiết, cụ thể.
2. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi tập trung làm rõ những lỗi thường gặp trong kiểu bài nghị luận xã hội và cách khắc phục những lỗi đó ở những vấn đề mang tính chất căn bản trong chuyên đề này.
Trình độ, năng lực của học sinh giỏi môn ngữ văn cần được thể hiện qua bài viết. Từ thực tiễn bài làm đa dạng, phức tạp của học sinh, cho thấy trình độ, năng lực khác nhau của mỗi em . Bài làm là minh chứng rõ nét nhất cho thấy những vấn đề còn tồn tại trong quá trình tiếp thu hướng dẫn, hình thành kĩ năng của học sinh. Vì thế, phạm vi nghiên cứu của chúng tôi còn là những bài viết trên lớp và trong các cuộc thi của học sinh, trên cơ sở tìm hiểu bài viết của học sinh chúng tôi xác định được các lỗi mà các em hay mắc phải, từ đó tìm cách chữa lỗi cho học sinh. Như vậy bài làm của học sinh được nghiên cứu để làm tư liệu trong quá trình thực hiện chuyên đề này.
3. Đóng góp mới của chuyên đề
- Chuyên đề chỉ ra một cách hệ thống các lỗi mà học sinh giỏi thường mắc phải khi viết bài văn nghị luận xã hội, đồng thời xác định những cách để chữa các lỗi đó một cách cụ thể, chi tiết trên cơ sở kết hợp giữa kiến thức mang tính chất khoa học với thực tiễn giảng dạy bồi dưỡng học sinh giỏi. Đây là nội dung chưa được thể hiện trong các tài liệu đã công bố.
- Chuyên đề có giới thiệu một số các đề bài nghị luận xã hội và các ví dụ từ bài viết cụ thể của học sinh để minh họa cho phần lý thuyết; đây là các nội dung mới được chuyên đề này thể hiện.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chúng tôi đã sử dụng các phương pháp chủ yếu sau trong quá trình thực hiện đề tài:
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp tổng hợp
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành…
V. CẤU TRÚC CỦA CHUYÊN ĐỀ
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo… chuyên đề của chúng tôi được chia thành ba chương. Gồm:
- Chương I. Cơ sở lí luận: Những vấn đề cơ bản về kiểu bài nghị luận xã hội
- Chương II. Cơ sở thực tiễn: Một số loại lỗi cơ bản mà học sinh giỏi thường mắc phải trong bài văn nghị luận xã hội.
- Chương III. Đề xuất các biện pháp khắc phục lỗi trong bài làm văn nghị luận xã hội của học sinh.
PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KIỂU BÀI NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
1. Văn nghị luận
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Nghị luận: Bàn và đánh giá cho rõ về một vấn đề nào đó. Văn nghị luận là thể văn dùng lí lẽ và dẫn chứng để phân tích giải quyết một vấn đề”.
Từ điển thuật ngữ văn học cũng nêu rõ: “Văn nghị luận: Thể văn nghị luận viết về những vấn đề nóng bỏng thuộc nhiều lĩnh vực đời sống khác nhau: chính trị, xã hội, triết học, văn hoá. Mục đích của văn chính luận là bàn bạc, thảo luận, phê bình hay truyền bá tức thời một tư tưởng, một quan điểm nào đó. Đặc trưng cơ bản nhất của văn chính luận là tính chất luận thuyết. Văn chính luận trình bày tư tưởng và thuyết phục người đọc chủ yếu bằng lập luận, lí lẽ”.
Như vậy, có thể hiểu: Văn nghị luận là một loại văn bản nhằm phát biểu tư tưởng, tình cảm, thái độ, quan điểm của người viết một cách trực tiếp về các vấn đề văn học, chính trị, đạo đức, lối sống... và được trình bày bằng một thứ ngôn ngữ trong sáng, hùng hồn với những lập luận chặt chẽ, mạch lạc, giàu sức thuyết phục. Đây là loại văn phổ biến trong nhà trường, thường được lấy làm yêu cầu của phần làm văn trong các đề thi hiện nay.
2. Nghị luận xã hội
Bàn về khái niệm văn nghị luận xã hội, đã có rất nhiều ý kiến, nhận định uy tín được đưa ra. Dưới đây là một số ví dụ:
Theo Bảo Quyến: “Văn NLXH là văn nghị luận về một vấn đề xã hội, bao gồm những vấn đề thuộc mọi quan hệ, hoạt động của con người trong mọi lĩnh vực đời sống, xã hội cũng như chính trị, kinh tế, giáo dục, môi trường, dân số…”
Theo giáo sư Đỗ Ngọc Thống: “Văn nghị luận xã hội là thể văn hướng tới phân tích, bàn bạc về các vấn đề liên quan đến các mối quan hệ của con người trong đời sống xã hội. Mục đích cuối cùng của nó là tạo ra những tác động tích cực đến con người và những mối liên hệ giữa con người với con người trong xã hội.”
Theo nhà giáo Hoàng Dân: “Nghị luận xã hội là một kiểu bài dùng lí lẽ và thực tế để giải quyết một vấn đề đặt ra trong xã hội, từ những vấn đề trong cuộc sống hàng ngày ở cộng đồng lớn nhỏ đến những vấn đề chính trị rộng lớn, từ những vấn đề luân lí đạo đức cá nhân đến những vấn đề có tầm quan trọng về triết lí nhân sinh. Đó là những vấn đề chính trị - xã hội có liên quan đến mỗi cá nhân, nó khiến mọi người phải suy nghĩ và có trách nhiệm tham gia giải quyết bằng một phương thức nào đó (nói, viết, hành động) để góp phần duy trì sự tồn tại của cộng đồng.”
Theo Từ điển từ và ngữ Hán Việt, “nghị luận” là dùng lí luận để phân tích ý nghĩa phải trái, bàn bạc, mở rộng vấn đề. Còn “xã hội” trước hết là một tập thể người cùng sống, gắn bó với nhau trong quan hệ sản xuất và các quan hệ khác. Cũng có thể hiểu, “xã hội” là những gì thuộc về quan hệ giữa người và người về các mặt chính trị, kinh tế, triết học, lịch sử, văn học, ngôn ngữ… Từ đó, có thể hiểu NLXH là thể văn hướng tới phân tích, bàn bạc về các vấn đề xã hội, mối quan hệ con người trong xã hội, những đòi hỏi của cuộc sống cũng như những yêu cầu của con người, thực trạng xã hội và các hiện tượng đời sống... Mục đích cuối cùng của nó là thể hiện chính kiến, quan niệm của người viết về vấn đề đặt ra đồng thời tạo ra những tác động tích cực đến con người và những mối quan hệ giữa người với người trong xã hội.
Yêu cầu đối với bài văn NLXH trước hết cũng là đảm bảo kĩ năng nghị luận nói chung (tập trung hướng tới luận đề để bài viết không tản mạn, có ý thức triển khai thành những luận điểm chặt chẽ, nhất quán, tìm được những dẫn chứng xác đáng, giàu sức thuyết phục). Bên cạnh đó, bài văn NLXH cũng cần đảm bảo về nội dung kiến thức mang màu sắc chính trị, xã hội (những hiểu biết về chính trị, pháp luật, những kiến thức nền tảng về truyền thống lịch sử, văn hoá, đạo đức, tâm lí, xã hội, những tin tức thời sự cập nhật...); đảm bảo mục đích, tư tưởng: phải vì con người, vì sự tiến bộ chung của toàn xã hội.
3. Nghị luận xã hội trong đề thi học sinh giỏi
Nghị luận xã hội trong đề thi học sinh giỏi: là kiểu bài hướng tới phân tích, bàn bạc về các vấn đề liên quan đến các mối quan hệ của con người trong đời sống xã hội thuộc những kiểu đề khó, đề mở đòi hỏi học sinh phải có nhiều kỹ năng, thao tác trong phân tích và lập luận làm sáng rõ vấn đề. Để viết được một bài văn nghị luận xã hội hay trong đề thi học sinh giỏi yêu cầu học sinh phải có sự giao thoa về cảm xúc và lý trí giúp cho bài văn nghị luận không trở nên khô cứng, giáo điều mà vẫn sắc bén về lý lẽ, hợp lí về lập luận, dẫn chứng. Đặc biệt để có thể viết đúng, trúng vấn đề, bên cạnh kĩ năng, kiến thức cũng rất đề cao đến sự sáng tạo, hiểu biết riêng của người viết tạo được chất riêng, độ sâu, độ lắng trong bài viết của học sinh giỏi.
Trong nhiều năm trở lại đây, nghị luận xã hội là kiểu bài bắt buộc trong đề thi học sinh giỏi các cấp. Và trong đề thi học sinh giỏi cấp quốc gia, bài văn nghị luận xã hội thường chiếm 2/5 số điểm của bài thi.
4. Các dạng đề thi NLXH trong đề thi học sinh giỏi
4.1 Nghị luận về một tư tưởng đạo lí
4.1.1. Khái niệm
Đây là một dạng đề nói về một tư tưởng đạo lí, triết lí nhân văn, câu nói mang tính nhận thức, mối quan hệ về gia đình, xã hội, một số tính cách thể hiện các phẩm chất của con người.
4.1.2 Đề tài hướng tới
Lí tưởng sống của thanh niên hiện nay, mục đích sống và học tập, các đức tính của con người: tính trung thực, sự dũng cảm, lòng khiêm tốn, lòng bao dung, đức tính kiên trì, ý chí nghị lực vươn lên trong cuộc sống, lí tưởng sống ; các mối quan hệ gia đình : tình mẫu tử, chữ hiếu, sự vô tâm thờ ở của cha mẹ với con cái ; mối quan hệ của xã hội : tình bạn, tình quê hương ; đạo lí : ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ nguồn….
Đối với học sinh trong nhà trường phổ thông do tâm lý lứa tuổi và nhận thức nêu những vấn đề đặt ra để bàn luận không phải là những vấn đề phức tạp lớn lao mà chỉ là những khía cách đạo đức tư tưởng tình cảm gắn liền với cuộc sống hàng ngày như tình cảm quê hương, gia đình, ý thức trách nhiệm, tinh thần học tập phương pháp nhận thức… Những vấn đề này có thể đặt ra một cách trực tiếp nhưng thường là được gợi mở qua một câu danh ngôn (tục ngữ, ca dao, câu nói của các bậc hiền triết, các lãnh tụ, các nhà văn hóa khoa học, nhà văn nổi tiếng…)
Trong các đề dành cho học sinh giỏi, dạng đề này thường được đặt ra với những cách hỏi khá phong phú, nội dung tư tưởng đạo lí có thể quen thuộc hoặc mới mẻ, nhưng thường đòi hỏi học sinh có độ "nhạy", tinh nhất định để xác định trúng được vấn đề.
4.1.3 Các bước làm bài
Đối với dạng đề nghị luận về một tư tưởng đạo lí để giải quyết vấn đề cần lưu ý cách học sinh xem xét nó từ nhiều góc độ. Cách đơn giản nhất là đặt ra đặt ra và trả lời những câu hỏi. Sau đây là một số dạng câu hỏi chính:
- Vấn đề đó là gì?
- Vấn đề đó có những biểu hiện cụ thể như thế nào?
- Vì sao lại như thế?
- Như thế thì có ý nghĩa gì với cuộc sống, với con người, với bản thân?
Từ việc đặt ra và trả lời các câu hỏi có thể hình dung một bài văn nghị luận về một tư tưởng đạo lí cần được triển khai theo 3 bước cơ bản sau:
- Giải thích, cắt nghĩa
- Lý giải ( bình luận, chứng minh)
- Đánh giá
4.1.4 Một số đề bài ví dụ
Đề 1: Anh/chị hãy viết bài văn nghị luận bày tỏ suy nghĩ của mình về câu nói của Jean Paul Pougala : “Cuộc sống như một cuốn sách : kẻ điên rồ giở qua nhanh chóng, người không ngoan vừa đọc vừa suy ngẫm, vì biết rằng mình chỉ đọc một lần”.
Đề 2: Trong bài thơ số 27, tập “Người làm vườn” của Tagore, có một câu thơ tác giả đã mượn hình ảnh hoa sen để gửi gắm vào đấy một triết lý cuộc sống : “Thà làm một bông hoa sen nở khi thấy mặt trời rồi mất hết tinh nhụy còn hơn giữ nguyên hình nụ búp trong sương lạnh vĩnh cửu của mùa đông”
Đề 3:
“Thỉnh thoảng chúng ta vẫn gặp những người tự cho mình quyền được phán xét người khác theo một định kiến có sẵn. Những người không bao giờ chịu chấp nhận sự khác biệt. Đó không phải là điều tồi tệ nhất. Điều tồi tệ nhất là chúng ta chấp nhận buông mình vào tấm lưới định kiến đó. Cuộc sống của ta nếu bị chi phối bởi định kiến của bản thân đã là điều rất tệ, nên nếu bị điều khiển bởi định kiến của những người khác hẳn còn tệ hơn nhiều”.
(Trích Nếu biết trăm năm là hữu hạn, Phạm Lữ Ân, Nxb Hội nhà văn, 2013, Tr.83)
Suy nghĩ của anh/chị về vấn đề được đề cập trong đoạn trích trên?
4.2 Nghị luận về một hiện tượng đời sống
4.2.1 Khái niệm
Là dạng đề đề cập tới các hiện tượng phổ biến trong cuộc sống, các hiện tượng đó có thể là tích cực hoặc tiêu cực nhưng nó trực tiếp ảnh hưởng và thường xuyên xảy ra trong cuộc sống hiện nay..
4.2.2 Đề tài thường hướng tới:
An toàn giao thông, tệ nạn xã hội, bạo lực học đường, ô nhiễm môi trường, trung thực trong thi cử, nạn vứt rác bừa bãi, hiến máu nhân đạo, nghiện game, nghiện internet, lối sống ảo, lối học hình thức đối phó, dịch bệnh, vô cảm, những vấn đề nảy sinh hay cần thiết trong thời đại 4.0, các vấn đề đảm bảo về đạo đức, văn hóa, giữ gìn nét đẹp nhân cách, phẩm giá, tâm hồn con người, giữ gìn và phát huy mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người trong đời sống hiện nay.
Khác với dạng đề bàn về một tư tưởng đạo lý, dạng đề này thường nêu lên một hiện tượng có thật trong đời sống xã hội. Đó có thể là một hiện tượng tích cực, nhưng cũng có thể là một hiện tượng tiêu cực trong xã hội, hoặc một hiện tượng có cả hai mặt tích cực lẫn tiêu cực. Do đó, đòi hỏi người viết bằng nhận thức của bản thân thể hiện được chủ kiến của mình, bằng phân tích và lập luận để ca ngợi và biểu dương cái đẹp, cái tốt, cái thiện (chân, thiện, mỹ) và lên án, vạch trần cái xấu, cái ác, cái phi nhân... Tất nhiên những hiện tượng đời sống nêu trong các đề văn dạng này vừa phải gần gũi với tuổi trẻ học đường vừa có ý nghĩa lớn lao đối với cả cộng đồng dân tộc và thế giới.
4.2.3 Các bước tiến hành
- Khái niệm hiện tượng (hiện tượng đó là gì?)
- Thực trạng của hiện tượng (biểu hiện cụ thể, các mặt tích cực, tiêu cực của hiện tượng)
- Hậu quả, tác hại của hiện tượng đó (nếu là hiện tượng tiêu cực)
- Nguyên nhân của việc xảy ra hiện tượng đó là gì?
- Biện pháp khắc phục, xử lí thế nào?
- Liên hệ bản thân.
4.2.4 Một số đề bài ví dụ
Đề 1: Nhân dịp Quốc tế Phụ nữ 8/3/2009 , Tổng thư kí Liên hợp quốc Ban-ki-mun tuyên bố : “Bạo lực đối với phụ nữ nữ là một tội ác ghê tởm”. Suy nghĩ của anh/chị về vấn đề này ?
Đề 2: “Vào đại học có phải là con đường tiến thân duy nhất của tuổi trẻ ngày nay?”. Suy nghĩ của anh/chị về vấn đề trên.
Đề 3: Có ý kiến cho rằng: “Con người từng ngày thay đổi công nghệ nhưng chính công nghệ cũng đang thay đổi cuộc sống của con người”. Viết bài văn nghị luận bàn về ý kiến trên.
Đề 4: Con người và tự nhiên, ai đang làm chủ thế giới này?
4.3 Nghị luận về một số vấn đề NLXH được rút ra từ các tác phẩm văn học, tác phẩm nghệ thuật
4.3.1 Khái niệm:
Đây là dạng đề về một vấn đề xã hội, một triết lí nhân văn sâu sắc nào đó được rút ra từ trong tác phẩm văn học, tác phẩm nghệ thuật. Vấn đề xã hội này có thể học sinh đã được học ở trong chương trình sách giáo khoa của mình hoặc trích trong các mẫu báo, tài liệu khoa học nào đó.
4.3.2 Đề tài hướng tới
Các vấn đề xã hội sâu sắc, nhân văn từ trong tác phẩm văn học như lòng yêu nước, mục đích sống, trách nhiệm của thanh niên trong xã hội hiện nay, ý chí nghị lực trong cuộc sống, đức tính khiêm tốn, lí tưởng sống,..
4.3.3 Các bước được tiến hành theo cấu trúc sau
Bước 1: Tóm tắt, giải thích, nêu nội dung chính của vấn đề xã hội đặt ra.
Bước 2: Nghị luận xã hội, tiến hành các thao tác nghị luận xã hội bình thường tùy thuộc xem đó là tư tưởng đạo lí hoặc hiện tượng đời sống.
4.3.4 Một số đề bài ví dụ
Đề 1: Từ cảm nhận về cảnh tượng người đàn bà hành chài bị chồng đánh trên bãi biển trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, anh/chị hãy bàn về nạn bạo hành gia đình.
Đề 2: Trong đoạn trích “Đất nước” (trường ca “Mặt đường và khát vọng”) có những câu thơ:
“Em ơi em đất nước là xương máu của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nước muôn đời…”
Theo anh/chị nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm muốn gửi tới thế hệ trẻ thông điệp gì qua đoạn thơ trên ? Hãy viết bài văn trình bày suy nghĩ của mình về vai trò của gia đình với cuộc sống của mỗi con người.
Đề 3:
“Đừng đố kị cũng đừng hợm hĩnh
Bạn tôi ơi hãnh diện làm chủ bản thân
Tự dưới thấp hãy nhìn thông cao vợi
Nhìn mây trời
Chứ không phải nhìn thế nhân
Còn nếu bạn giữa vinh quang chói lọi
Hãy tự mình vượt qua nó bạn ơi
Tự trên cao hãy nhìn xuống suối
Xuống cỏ hoa chứ không phải con người”
(Vô đề, Pimen Panchenko)
Đoạn thơ trên gợi cho anh chị suy nghĩ gì về cách mỗi con người nhìn thấy chính mình?
Đề 4:
LÀM NGƯỜI
“Ngồi thì co
đứng thì thẳng
làm người thật khó”
(Lời người Dáy)
để trở thành một người biết sinh con đẻ cái
như thế chưa khó
để trở thành người biết ăn ngon mặc đẹp
như thế cũng chưa khó
để trở thành một người giàu có
như thế vẫn chưa khó
để trở thành một người sống lâu trăm tuổi
như thế cũng vẫn chưa khó
vậy làm người khó nhất là gì?
nghĩ đi nghĩ lại
|
nghĩ gần nghĩ xa
nghĩ cao nghĩ thấp
nghĩ hẹp nghĩ rộng
có người đẹp ngoài mà xấu trong
có người xấu ngoài mà đẹp trong
có người già mà vẫn trẻ
có người trẻ mà đã già
có người sống mà đã chết
có người chết mà vẫn sống
làm người khó nhất là: sống!
|
(Lò Ngân Sủn- Người trên đá, NXB Văn hóa- dân tộc, 2000, tr.6)
Suy nghĩ của anh (chị) về thông điệp tác giả gửi gắm trong bài thơ trên?
Đề 5: Viết bài văn thể hiện những suy nghĩ của anh/ chị về điều được gợi ra từ bức tranh dưới đây:

II. CƠ SỞ THỰC TIỄN - CÁC LỖI THƯỜNG GẶP TRONG BÀI VĂN NLXH CỦA HỌC SINH GIỎI.
1. Lỗi xác định vấn đề nghị luận.
Thiết nghĩ, khi làm bài nghị luận xã hội thì đây là một khâu quan trọng, có phần quyết định bài làm đạt yêu cầu hay không của học sinh. Bởi lẽ, nếu xác định yêu cầu sai, không đúng hoặc chưa toàn diện thì học sinh sẽ làm lạc đề, lệch hướng hoặc chưa toàn diện bài viết.
Để có thể viết được một bài văn nghị luận xã hội đúng và chặt chẽ, trước hết học sinh cần xác định đúng vấn đề cần nghị luận. Rồi sau đó mới có thể đưa ra hệ thống các ý hay luận điểm, luận cứ để lập luận một cách logic.
Song cũng cần lưu ý, để không bị lạc đề và xác định đúng hướng của bài làm, học sinh cần đọc và phân tích thật kĩ đề bài. Tức là phải hiểu rõ ý nghĩa của từng từ, từng câu và cả cách ngắt câu, dùng dấu câu trong đề bài.
Tuy nhiên trong quá trình làm bài học sinh đôi khi vẫn không thể tránh khỏi việc mắc phải một số lỗi trong việc xác định yêu cầu của đề. Và đặc biệt đây cũng là một lỗi không phải hiếm gặp trong một số bài viết của học sinh giỏi. Dưới đây là một số lỗi sai điển hình mà bài làm văn nghị luận xã hội của học sinh giỏi thường mắc:
1.1 Không xác định được hoặc xác định sai vấn đề nghị luận.
- Với đặc thù của đề thi học sinh giỏi là thường khó với các dạng đề mở, hay đề có nhiều ẩn ý, nhiều lớp nghĩa chìm sâu trong câu chữ nên đôi khi việc không đọc kĩ đề hay còn chưa chắc chắn về kiến thức dễ dẫn đến việc học sinh xác định sai vấn đề nghị luận. Đây là một lỗi rất nghiêm trọng bởi lẽ xác định sai vấn đề cần nghị luận sẽ dẫn đến không nắm được yêu cầu của đề bài, bài viết sẽ đi sai hướng không nhấn mạnh được vào trọng tâm khiến bài làm lan man, dài dòng mà không đạt đến vấn đề cần nghị luận. Đặc biệt đây cũng là một lỗi rất thường thấy không chỉ trong bài viết của học sinh đại trà mà có cả trong bài làm của học sinh giỏi.
Ví dụ 1: Trong bài thơ “Khúc dân ca” Nguyễn Duy viết:
“Mây bay bằng gió của trời
Là ta ta hát bằng lời của ta.”
Suy nghĩ của anh/ chị về ý thơ trên.
Có học sinh xác định vấn đề nghị luận là hai câu thơ đề cập đến lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, mỗi công dân trong một đất nước phải luôn tự hào về những nét bản sắc riêng, tiếng nói riêng của dân tộc mình. Trong khi đó trọng tâm vấn đề lại đề cập tới vấn đề: Dẫu rằng cuốc sống đầy phức tạp, nhiều điều phải chịu tác động từ hoàn cảnh nhưng con người cần được sống là chính mình một cách trọn vẹn nhất. Ở đây học sinh đã không đọc kĩ đề dẫn đến xác định sai vấn đề từ đó bài viết triển khai lệch hướng, thất bại khi không bàn luận được đúng yêu cầu đặt ra trong đề bài.
Ví dụ 2:
Một ngọn cỏ tự do làm thành thảo nguyên
Một cái cây tự do làm thành cánh rừng
Một con cá tự do làm thành biển cả
Một con chim tự do làm thành bầu trời
Một con người tự do làm thành vũ trụ.
(Nguyễn Quang Thiều, Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng)
Theo anh/ chị đoạn thơ trên đề cập đến vấn đề gì? Viết một bài văn nghị luận bàn về vấn đề đặt ra trong đoạn thơ.
Đề bài này đề cập đến vấn đề: Tự do là nhu cầu bản thể, là quyền cơ bản của con người khi tồn tại trong cuộc đời. Nhưng có học sinh lại xác định vấn đề nghị luận ở đây là: Những cá thể nhỏ bé lâu dần với nỗ lực không ngừng sẽ có thể phát triển thành những điều to lớn, vĩ đại. Ở đây vì không chắc về kiến thức nên học sinh đã xác định sai lệch hoàn toàn với vấn đề cần bàn luận dẫn đến việc bài viết viết về một vấn đề khác xa, không trúng với những gì mà đề bài đặt ra.
Ví dụ 3:
Một ngày kia tôi đi thăm bố tôi ở Atlanta. Nhà cụ cách nhà tôi khoảng ba, bốn dặm và muốn đến đó phải đi qua đường Simpson. Khi tôi về nhà vào ban đêm – quý bạn ơi, tôi nói cho quý bạn nghe, đường Simpson là một con đường ngoằn ngoèo, khúc khuỷu. Bên lề đường có một anh chàng đưa tay vẫy tôi dừng lại. Tôi cảm thấy là người này cần giúp đỡ; tôi biết là người này cẩn giúp đỡ. Nhưng lúc đó tôi không biết được điều này. Và thú thực với các bạn, tôi đi luôn. Tôi không dám mạo hiểm như vậy
Tôi muốn nói với các bạn sáng ngày hôm nay là câu hỏi câu hỏi đầu tiên thầy tế lễ hỏi cũng là câu đầu tiên tôi hỏi trên đoạn đường Jericho ở Atlanta, tức là đường Simpson. Câu hỏi đầu tiên mà người Lê – vi hỏi là: “Nếu tôi dừng lại để giúp người này, thì việc gì sẽ xảy đến cho tôi?” Nhưng người tốt bụng Samari đi đến và đảo ngược câu hỏi. Không phải là “điều gì sẽ xảy đến cho tôi nếu tôi dừng lại để giúp người này?” mà là “điều gì sẽ xảy đến cho anh ta nếu tôi không dừng lại gặp anh ấy?”…
(Trích diễn văn: Ba Chiều của Một Đời Sống Trọn Vẹn- Dr. Martin Luther King)
Suy nghĩ của anh (chị) từ hai câu hỏi trong đoạn trích trên.
Với đề bài này có học sinh xác định vấn đề nghị luận là đặt ra câu hỏi: Liệu rằng chúng ta đã và đang nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện hay chưa? Song ở đề bài này thì vấn đề cần bàn luận lại là: Bên cạnh việc yêu quý, trân trọng, lo lắng cho bản thân thì mỗi người cũng cần biết quan tâm, chia sẻ với người khác mới có thể làm nên ý nghĩa của cuộc sống.
1.2 Xác định chưa trúng trọng tâm của vấn đề nghị luận.
- Nếu như lỗi xác định sai vấn đề nghị luận là một lỗi đôi khi mới mắc phải trong bài viết của học sinh giỏi thì việc xác định chưa trúng trọng tâm của vấn đề nghị luận lại là một lỗi thường thấy trong bài làm của học sinh. Tất nhiên lỗi xác định chưa thật sâu, thật trúng vấn đề không ảnh hưởng quá nhiều và nghiêm trọng đến chất lượng của bài viết song không phải là nó sẽ không làm giảm đi độ sâu, và độ chính xác trong bài văn của học sinh giỏi. Từ đây cũng dẫn đến thực trạng là học sinh xác định trọng tâm nghị luận rộng hơn hoặc hẹp hơn yêu cầu của đề ra, do đó bài làm bị vênh với đề, luận điểm vừa thừa vừa thiếu. Đây là một lỗi thường mắc phải khiến cho bài văn của học sinh mới chỉ chạm đến được vấn đề mà vẫn chưa thật trúng vào vấn đề mà đề cập tới khiên cho bài viết có ý nhưng lại không sâu, chưa thực có độ lắng, người đọc văn sẽ cảm thấy chưa thật thỏa mãn khi đọc bài viết như vẫn còn mong muốn nuối tiếc điều gì từ ngòi bút của người viết. Vậy nguyên nhân gì dẫn đến việc người học, người viết vẫn thường mắc phải lỗi xác định chưa thật trúng, thật sát vấn đề cần nghị luận.
Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến là việc người viết đọc chưa thật kĩ đề, chỉ đọc lướt một lần rồi bắt tay vào viết bài dẫn đến chưa thực sự hiểu thấu vấn đề mà đề cập khiến bài viết cho dù bàn luận rất dài mà không nhấn mạnh đúng, trúng yêu cầu cần đạt.
Một nguyên nhân nữa dẫn đến việc xác định được một phần của vấn đề mà vẫn không thể xác định, triển khai hết toàn vẹn được những điều mà đề bài đặt ra, đó chính là việc người viết hay chính là bản thân học sinh giỏi chưa hiểu được ngôn từ, ý nghĩa của các vế câu trong nhận định, những tầng nghĩa ẩn sâu trong một tác phẩm nghệ thuật. Đây có lẽ cũng là một trong những nguyên nhân thường thấy trong các bài viết của học sinh. Việc không hiểu đúng, toàn vẹn, hoặc hiểu nhưng chưa thực sâu sắc rất dễ dẫn đến việc học sinh dù có đề cập đến vấn đề nhưng vẫn không đạt được đến vấn đề cuối cùng mà đề bài đặt ra khiến cho bài viết không thể có những lập luận chặt chẽ, sắc bén làm thuyết phục người đọc.
Ví dụ 1:
“ Sống – là cá nhân mỗi người đang gửi một thông điệp đến cuộc sống.”
Suy nghĩ của anh (chị) về vấn đề trên và về một thông điệp anh (chị) muốn gửi gắm.
Với đề bài này có học sinh mới chỉ xác định được vấn đề cần nghị luận là: Ý kiến chính là một bức thông điệp mà người nói muốn gửi gắm tới cuộc đời chung rằng: mỗi con người sống trên đời này đều luôn phải tìm tòi và không ngừng khám phá cho mình một cách sống riêng và cách sống ấy sẽ giống như một bức thông điệp gửi tới cuộc đời chung giúp xã hội trở nên phong phú, muôn màu, muôn vẻ. Và cũng từ đây, mỗi chúng ta cũng tự soi xét lại bản thân để đúc rút và gửi gắm một bức thông điệp của riêng mình tới cuộc sống. Trong khi đó vấn đề cần nghị luận ở đây hiểu một cách sâu sắc và đầy đủ là: Bản chất cuộc sống của mỗi chúng ta, cách chúng ta sống đã là một thông điệp chúng ta gửi đến cuộc sống, tác động sâu xa đến cuộc sống xung quanh, chúng ta cần có trách nhiệm với thông điệp của mình. Như vậy, ở đề bài này học sinh đã hiểu hơi xa so với vấn đề cần bàn khi cho rằng thông điệp sống mà mỗi cá nhân gửi đến là luôn phải tìm tòi, khám phá cho mình một cách sống riêng. Tuy nhiên ở đề này chúng ta chỉ cần hiều rằng chính cách sống của ta đã là một thông điệp đầy ý nghĩa ta gửi tới cuộc đời cho dù không cao sang, phi thường mà chỉ giản dị là chính ta.
Ví dụ 2:
“Thỉnh thoảng chúng ta vẫn bắt gặp những người tự cho mình quyền được phán xét người khác theo một định kiến có sẵn. Những người không bao giờ chịu chấp nhận sự khác biệt. Đó không phải là điều tồi tệ nhất. Điều tồi tệ nhất là chúng ta chấp nhận buông mình vào tấm lưới định kiến đó. Cuộc sống của ta nếu bị chi phối bởi định kiến của bản thân đã là điều rất tệ nếu bị điều khiển bởi định kiến của người khác hẳn còn tệ hơn nhiều.”
(Nếu biết trăm năm là hữu hạn – Phạm Lữ Ân)
Suy nghĩ của anh (chị) về hiện tượng được đề cập trong đoạn trích trên.
Có học sinh xác định vấn đề nghị luận của đề bài này là đề cập đến hai kiểu người trong cuộc sống mà ta đã gặp phải, đó là những người thường phán xét, nhìn nhận người khác bằng định kiến và cả những con người chịu đựng sống dưới tấm lưới định kiến đó. Xác định như vậy không sai nhưng chưa chạm đến được vấn đề mà đề bài đặt ra dẫn đến bài viết sẽ không sâu sắc khi người viết quên mất bài học vô cùng ý nghĩa mà ý kiến đặt ra. Đối với đề bài này cần xác định yêu cầu của đề là : Trong cuộc sống, mỗi con người phải biết vượt qua những định kiến, vượt qua nỗi sợ hãi cố hữu để khẳng định mình, để được sống đúng là mình.
Ví dụ 3:
Bình luận câu nói của Tônxtôi: “Bạn đừng chờ đợi những quà tặng bất ngờ từ cuộc sống, mà hãy tự mình làm nên cuộc sống”.
Nhiều học sinh xác định vấn đề nghị luận là: Phải sống chủ động, tích cực, trong lúc trọng tâm vấn đề hẹp hơn: phải chủ động, tích cực để tự mang lại hạnh phúc thành công cho chính mình.
2. Lỗi về luận điểm
2.1 Không xác lập được luận điểm, viết chung chung, thiếu luận điểm
Đây là một thực trạng khá phổ biến , nhiều học sinh khi làm bài, lập ý mà thiếu kĩ năng trình bày, dẫn đến thiếu luận điểm, luận điểm không nổi bật vì bị lẫn vào nhưng câu phân tích lí giải,…Một số học sinh thích diễn đạt rườm rà , cầu kì khiến luận điểm mơ hồ, thiếu chính xác.
Ví dụ 1: Với đề bài Viết bài văn khoảng 1000 từ bàn về lời bài hát sau: “Đừng sống giống như hòn đá,…sống không một tình yêu, sống chỉ biết riêng mình. Tâm hồn luôn luôn băng giá. Đừng hóa thân thành đá, vì tâm hồn đá giá băng”: Nhiều học sinh chỉ quan tầm đến bề nổi của vấn đề là lối sống vị kỉ, phải biết yêu thương người khác,… Thế nhưng đối với bài làm của HSG thì cần phải đào sâu và nhìn nhận toàn diện mọi vấn đề. Vậy nên không thể phủ nhận hoàn toàn sự yêu thương bản thân của mỗi con người, bởi chỉ khi yêu bản thân con người ta mới có thể mở lòng mình yêu thương người khác. Và đây cũng là một luận điểm quan trọng làm nổi bật vấn đề nghị luận của bài.
Ví dụ 2: Có học sinh khi phản biện ý kiến : “Bị đánh bại chỉ là nhất thời, bỏ cuộc mới là thất bại vĩnh viễn” đã diễn đạt : “Trong cuộc sống con người cũng cần học cách từ bỏ”. Khi thảo luận thậm chí các em còn không nhận ra mình bị mắc lỗi diễn đạt ở phản biện. Đó là lỗi diễn đạt chung chung. Việc diễn đạt chung chung như thế dễ trở thành “vơ đũa cả nắm”, biến điều cá biệt trở thành phổ biến, dẫn đến tự mâu thuẫn với chính những điều mình ra sức chứng minh ở phần trước.
2.2 Lặp ý, sắp xếp các ý lộn xộn
Bài làm của học sinh thường bị ý sau lặp lại nội dung của ý trước hoặc các ý sắp xếp không theo trật tự, thiếu tính logic khiến cho bài văn dàn trải, không gây được ấn tượng với người chấm.
Ví dụ 1: Để chứng minh “Lao động là cái đáng quý nhất”, có học sinh nêu ra bốn ý :
(1). Lao động sáng tạo ra loài người.
(2). Lao động nuôi sống con người.
(3). Lao động sáng tạo ra mọi của cải vật chất và tinh thần trong xã hội.
(4). Lao động là môi trường rèn luyện để con người hoàn thiện không ngừng.
- > Ta thấy ý (2) bị bao chứa trong ý (3). Đặt một ý nhỏ ngang hàng với ý lớn như vậy cũng gây ra tình trạng lặp ý khi viết.
2.3 Ý không phục vụ cho vấn đề
Có những ý nhỏ không phù hợp với nội dung của ý lớn hoặc có những ý nhỏ bậc dưới không phù hợp với nội dung của ý nhỏ bậc trên, hoặc có những luận điểm không phục vụ cho vấn đề mà đề bài đặt ra cho người viết.
Ví dụ: Để nêu nguyên nhân của vấn đề bạo lực học đường, một bạn phân tích như sau :
+ Nguyên nhân khách quan:
(1). Một trong những nguyên nhân cơ bản là tình trạng nhiều nơi chú trọng về chữ, nhẹ về dạy người, đạo đức dần bị bỏ quên.
(2). Gia đình ít quan tâm giáo dục con cái.
(3). Các bạn học sinh học tập căng thẳng nên dễ dẫn đến những tình trạng ức chế về tâm lý. Cộng với ở độ tuổi vị thành niên, học sinh thường có những suy nghĩ bốc đồng, mang trên mình cái tôi cá nhân quá lớn. Lòng tự trọng, hay nổi nóng vì những chuyện không đáng và có khi gây ra những hậu quả đáng tiếc cho bản thân và cho người khác.
+ Nguyên nhân chủ quan:
(4). Nhiều bạn trẻ quan niệm rằng: dùng bạo lực có tác dụng nhanh, hiệu quả tức thì, đối phương phải phục tùng mình. Thế nên tình trạng bạo lực học đường cứ tiếp diễn từ ngày này sang ngày khác, truyền từ người này sang người khác.
Ở ví dụ trên, ý nhỏ (3) không phù hợp với nội dung của ý lớn ” nguyên nhân khách quan“.
3. Lỗi về dẫn chứng
Dẫn chứng là những sự vật, sự việc, số liệu, ý kiến được đưa ra để chứng minh, làm cơ sở cho điều nói ra, viết ra. Đối với bộ môn ngữ văn, quá trình làm bài cần thiết phải có dẫn chứng để bài viết tăng sức thuyết phục, tạo nên văn phong hấp dẫn, sinh động. Dẫn chứng đưa vào bài nhằm khẳng định, củng cố phần đã phân tích, cảm nhận. Vì vậy, dẫn chứng phải được chọn lọc, tiêu biểu, chính xác, đảm nhiệm được chức năng làm ngọn đuốc, đốm lửa của nó trong bài văn nghị luận.
Mục đích của văn nghị luận là tác động, thuyết phục người đọc, người nghe. Để làm sáng tỏ vấn đề nghị luận thì cần đến lí lẽ và dẫn chứng. Nếu như lí lẽ là những giải thích, cắt nghĩa để hiểu vấn đề thì dẫn chứng là đưa ra chứng cứ để chứng minh cho vấn đề. Một bài văn nghị luận mà không hoặc thiếu dẫn chứng thì sẽ không hoặc thiếu sức thuyết phục, người đọc sẽ không tin vào lí lẽ suông vì thiếu minh chứng.
3.1 Dẫn chứng không tiêu biểu, không cụ thể, dẫn chứng sai.
- Dẫn chứng sai: Lỗi này làm ảnh hưởng đến tính xác thực của văn bản. Bài viết không có dẫn chứng thì không có sức thuyết phục, dẫn chứng không chính xác thì cũng không có tác dụng gì. Không ít bài viết trích dẫn chứng không chính xác, chẳng hạn như trích sai từ ngữ, sai dấu câu, nhầm lẫn tên tác giả...
VD: Câu nói nổi tiếng của nhà bác học Thomas Edison: “Thiên tài chỉ có 1% là bẩm sinh, còn 99% là do sự nỗ lực” thì có học sinh lại viết vào trong bài làm của mình đó là câu nói của Albert Einstein.
Hoặc khi trích dẫn chứng là thơ:
“Hãy sống đi hãy hái tự bây giờ
Bông hồng thắm của cuộc đời đang sống”
(Sonnet gửi Helen- Pierre de Ronsard)
Thì có học sinh trích sai:
“Hãy sống đi hăng hái tự bây giờ
Bông hồng thắm của cuộc đời đang sống”
- Dẫn chứng mờ nhạt, không cụ thể: Dẫn chứng không đặc sắc, không tiêu biểu, không rõ ràng sẽ không làm sáng rõ được vấn đề cần nghị luận. Đối với bài văn NLXH của học sinh giỏi, các em càng phải tinh trong khâu chọn dẫn chứng. Trong rất nhiều bài văn NLXH mà chúng tôi chấm, có một số bài khi đưa dẫn chứng không nêu tên đối tượng, sự việc cụ thể mà chỉ nói chung chung “cô ấy...”, “có một bác sĩ nọ...” hoặc “tập thể này đã làm được những hành động hết sức tốt đẹp để đóng góp cho cộng đồng...” v.v Tất cả cách đưa dẫn chứng như thế này sẽ làm giảm sức thuyết phục của tất cả những lập luận, lí lẽ đi kèm.
- Dẫn chứng không có tính mới: Dẫn chứng đã quá quen thuộc, đã nhàm, không mới mẻ làm giảm đi tính hấp dẫn của văn bản nghị luận, không thể thu hút sự chú ý của người đọc, người chấm. Ví dụ: bàn về vấn đề nghị lực trong cuộc sống, sự cố gắng không ngại khó khăn gian khổ, chúng ta thường chỉ nhắc đến các dẫn chứng về Chủ tịch Hồ Chí Minh, thầy giáo Nguyễn Ngọc Kí.
3.2 Kể lể, chưa biết phân tích, tinh lọc dẫn chứng
Ở đây, vấn đề mà học sinh gặp phải đó là tìm dẫn chứng rồi nhưng viết dẫn chứng không đạt. Lỗi thường gặp nhất vẫn là sa đà, kể lể. Các em chưa biết cách tinh lọc dẫn chứng, chọn ra những đặc điểm tiêu biểu nhất về đối tượng, sự việc để đưa vào bài viết.
Ví dụ: Đề bài: “Thỉnh thoảng, chúng ta vẫn gặp những người tự cho mình quyền được phán xét người khác theo một định kiến có sẵn. Những người không bao giờ chịu chấp nhận sự khác biệt. Đó không phải điều tồi tệ nhất. Điều tồi tệ nhất là chúng ta chấp nhận buông mình vào tấm lưới định kiến đó. Cuộc sống của ta nếu bị chi phối bởi định kiến của bản thân đã là điều rất tệ, nên nếu bị điều khiển bởi những định kiến của người khác hẳn còn tệ hơn nhiều” ( Nếu trăm năm là hữu hạn - Phạm Ngữ Ân ). Hãy bình luận ý kiến trên. Có học sinh đã chọn dẫn chứng về hoa hậu
Một lỗi khác trong việc phân tích dẫn chứng đó là dung lượng dẫn chứng không được chia đều, có dẫn chứng viết quá sâu, quá dài, có dẫn chứng lại chỉ điểm qua một cách sơ sài, thậm chí chỉ nêu tên đối tượng, sự việc, không có lời lẽ diễn giải, bàn luận.
4. Lỗi về cách trình bày
4.1 Bố cục bài viết chưa hợp lí
Bố cục chính là cái “sườn” của bài văn. Không chỉ có bài văn NLXH, với bất kỳ dạng đề nào thì bài viết của học sinh cũng phải đầy đủ ba phần: mở bài, thân bài và kết bài. Tuy nhiên, học sinh thỉnh thoảng vẫn mắc phải những lỗi về bố cục chưa thật hợp lý như:
- Viết mở bài liền với thân bài hoặc thân bài liền với kết bài khiến người đọc rất khó phân biệt được bố cục ba phần của bài văn; hoặc viết mở bài hơn một đoạn văn ( nhiều đoạn).
- Một số học sinh do không đủ thời gian làm bài nên không kịp triển khai hết ý cho phần thân bài và viết luôn phần kết bài.
- Ngay cả trong phần thân bài, việc phân chia dung lượng cho các luận điểm lớn cũng không đều. Điều này là do các em chưa biết căn chỉnh thời gian hợp lí. Ví dụ như phần bàn luận, mở rộng nâng cao vấn đề viết quá dài khiến phần bài học nhận thức và hành động chỉ viết được một đoạn văn ngắn ba, bốn dòng.
4.2 Chưa biết cách mở bài, kết bài
Mở bài là đặt vấn đề, giới thiệu vấn đề nghị luận. Mở bài một bài văn tốt sẽ tạo ấn tượng tốt cho người đọc, người chấm. Ai cũng biết vậy. Nhưng để có một mở bài tốt, một mở bài đúng, không phải học sinh nào cũng làm được. Nhiều em không biết mở bài, mà đúng hơn là chưa chú ý mở bài sao cho đúng, cho hay. Các em cứ đặt bút là viết theo cảm tính, nghĩ gì viết nấy, không chịu để ý đề yêu cầu nghị luận cái gì, cứ viết chung chung, tràn lan, linh tinh, không có chọn lọc. Cho nên viết xong mở bài rồi chuyển xuống làm thân bài mà chưa thấy nêu ra được vấn đề đề yêu cầu nghị luận là gì cả. Những bài như vậy dù phần thân bài có viết nhiều mấy cũng trở nên mơ hồ, dễ lạc đề, lệch đề, điểm sẽ rất thấp. Có những mở bài phần dẫn dắt và phần trích dẫn vấn đề không ăn khớp, không hợp lí.
Ví dụ: Đề bài: Suy nghĩ của anh chị về câu nói của Blaise Pascal “Con người là một cây sậy, nhưng là một cây sậy biết suy nghĩ”. Có học sinh mở bài rằng:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng...”
Dòng sông, bông hoa hay hình ảnh con chim đều là hình ảnh của thiên nhiên và gắn bó mật thiết với cuộc sống của con người. Con người và tự nhiên là hai khía cạnh tồn tại song song với nhau. Vì vậy, trong một lần khẳng định giá trị của con người, Blaise Pascal đã cho rằng : “Con người là một cây sậy, nhưng là một cây sậy biết suy nghĩ.” Câu nói đã gợi lên trong chúng ta về mối quan hệ giữ con người và tự nhiên.
=> Nhận xét: Phần trên của mở bài không logic, không có khả năng dẫn đến phần sau. Cả phần mở bài có cảm giác không ăn khớp, liền mạch với nhau.
Kết bài có một vai trò quan trọng, nó có nhiệm vụ tổng kết, đánh giá những vấn đề đã được đặt ra ở phần mở bài và giải quyết ở phần thân bài. Đây chính là phần giúp cho bài văn thêm hoàn chỉnh và trọn vẹn. Tuy nhiên, trong bài viết của học sinh vẫn còn mắc một số lỗi như sau:
Nếu mở bài có tính chất của một câu hỏi, thì kết bài có tính chất là một câu trả lời. Vì vậy kết bài phải thâu tóm lại vấn đề đã được đặt ra ở mở bài và phát triển ở thân bài, đồng thời khơi gợi những nội dung cảm xúc nối tiếp từ những vấn đề đã nêu ra và giải quyết. Tuy nhiên, khi viết kết bài, học sinh thường quên hoặc rất ít tóm lại vấn đề được nghị luận ở bên trên. Đây là lỗi không phổ biến nhưng vẫn có học sinh mắc phải.
Bên cạnh lỗi sai đầu tiên, một số học sinh còn có phần kết bài quá ngắn gọn do không đủ thời gian hoặc mở bài thân bài viết quá nhiều dẫn tới phần kết bài cảm thấy không còn cảm xúc để viết. Viết sơ sài bằng một hai câu tón gọn, không có ấn tượng, không đọng lại được gì trong lòng người đọc. Thậm chí, có học sinh chỉ kết bài bằng một câu văn. Các em nên nhớ, một câu văn chưa đủ để tạo nên một đoạn văn kết bài, cho dù các em có viết câu văn đó dài đến bốn, năm dòng.
Và lỗi kết bài cuối cùng học sinh hay vướng phải, đó là kết bài quá dài dòng và lan man. Đây cũng là điều khiến cho học sinh bị mất điểm một cách đáng tiếc do viết lạc đề hoặc ý viết bị trùng với ý ở phần thân bài.
4.3 Cách sử dụng từ ngữ, đoạn văn.
Đoạn văn quá dài hoặc quá ngắn: có những đoạn văn chứng minh cho một luận điểm, học sinh viết quá dài, từ một trang rưỡi đến hai trang giấy, còn có đoạn văn chỉ viết bốn, năm dòng. Ta đều biết trong một bài văn sẽ có ý chính, ý phụ tương ứng với các đoạn văn, nhưng nếu viết đoạn văn quá dài hoặc quá ngắn sẽ khiến bố cục cả bài văn mất cân đối.
Lỗi lặp từ: không chỉ có bài viết của các đối tượng học sinh khác, học sinh giỏi đôi khi cũng mắc lỗi lặp từ trong khi viết. Ví dụ, trong bài làm của học sinh có đoạn:
“Con người là một loại sinh vật sống với những cảm xúc, và cảm xúc ấy được thể hiện qua trạng thái, ử chỉ, khuôn mặt của con người. Mọi biến thiên trong nội tâm con người chính là thứ tạo nên cảm xúc. Khi vui ta hạnh phúc, ta biết cười; khi buồn, khi sợ ta biết khóc; khi gặp những điều bất ngờ ta biết ngạc nhiên. Cảm xúc là thế giới tinh thần của con người, nó phân biệt con người với những loài robot khác, cỗ máy khác. Bởi vậy, con người không nên và không thể sống vô cảm, không bao giờ được sống như những hòn đá vô cảm, mà phải luôn sống mạnh mẽ, dũng cảm và tràn đầy tình yêu thương.”
=> Nhận xét: ta thấy ở đây học sinh bị lặp từ “con người” và “cảm xúc” làm giảm sức hấp dẫn của đoạn văn.
Sai chính tả: Cẩu thả, tùy tiện, thiếu ý thức tôn trọng tiếng Việt là nguyên nhân dẫn đến lỗi này. Đây lại là lỗi mà hầu như học sinh nào cũng mắc, kể cả HSG, không nhiều thì ít, không nặng thì nhẹ. Lỗi này cũng làm các em bị mất nhiều điểm đáng tiếc. Thay vì trả lời đúng hết ý, các em sẽ được trọn điểm của câu, nhưng vì dính lỗi này nên bị trừ điểm. Có những lỗi sai nhỏ, lỗi không đáng kể giám khảo có thể bỏ qua. Nhưng có lỗi không thể tha thứ được vì các em dùng từ, viết từ quá tùy tiện, ngô nghê, rất khó chấp nhận.
Ví dụ: Thái độ “bàng quan” lại viết “bàng quang”, vật “gia bảo” lại viết “gia truyền”, “độc giả” lại viết là “đọc giả”,… rồi thì tiếng Anh, tiếng Pháp dùng chung với tiếng Việt... Đây là những lỗi tối kỵ phải tuyệt đối tránh.
III. CÁCH KHẮC PHỤC LỖI TRONG BÀI VĂN NLXH CỦA HỌC SINH GIỎI.
1. Cách khắc phục lỗi xác định vấn đề nghị luận
- Trước khi làm bài học sinh cần đọc thật kĩ yêu cầu của đề để xác định đúng dạng đề rồi mới có thể định hình chính xác được phạm vi vấn đề nghị luận.
- Chú ý những từ khóa của đề (với đề dưới dạng ý kiến, nhận định, đoạn thơ, đoạn văn), tìm ra cốt ý của cả câu; quan sát tỉ mỉ những điểm đặc biệt đáng chú ý của đề (với đề là bức tranh, hình ảnh) để có thể xác định đúng, trúng trọng tâm vấn đề cần nghị luận.
- Nâng cao vốn từ vựng, vốn hiểu biết để không bị động trước những từ ngữ khó, những đề mở hóc búa, những tầng nghĩa sâu xa ẩn dưới lớp ngôn từ và hình ảnh của đề bài.
- Học sinh trước những đề văn cần tư duy thật sâu sắc, thật mạch lạc, cần phải tỉnh táo để không xác định sai, thiếu hoặc xác định vấn đề quá rộng so với yêu cầu của đề tránh dẫn đến việc bài viết lan man, dài dòng mà vẫn thiếu ý, lập luận không chặt chẽ, sắc bén.
- Nâng cao vốn từ vựng, vốn hiểu biết để không bị động trước những từ ngữ khó, những đề mở hóc búa, những tầng nghĩa sâu xa ẩn dưới lớp ngôn từ và hình ảnh của đề bài.
- Bên cạnh đó học sinh cũng cần phải thường xuyên rèn luyện, tự mình tìm tòi luyện tập xác định vấn đề nghị luận của các đề văn do thầy cô giáo ra đề hay các đề học sinh tự tìm kiếm được trên mạng, qua sách báo,… Từ đó rèn cho mình được kĩ năng đọc, phân tích đề hiều quả để không còn bỡ ngỡ trước những kiểu đề khó, đề mới và có thể xác định được đúng vấn đề cần nghị luận, có được một bài viết chất lượng, đi vào lòng người đọc.
- Song ngoài việc trau dồi, học tập và cải thiện về mặt kĩ năng tìm hiểu, xác lập sao cho có thể xác định chính xác vấn đề nghị luận, học sinh cũng cần không ngừng bồi đắp vốn kiến thức thực tế để không bỡ ngỡ trước những dạng đề mới về những vấn đề của đời sống.
- Có thể thấy để có thể xác định đúng, trúng vấn đề và viết được một bài văn có độ sâu, độ lắng, độ sắc bén trong triển khai và lập luận cần phải bỏ ra rất nhiều thời gian và công sức. Để xác định được sâu sắc một vấn đề nghị luận thì cũng rất cần sự kiên trì, tinh thần không ngừng học hỏi, cầu thị để có thể tiến bộ từng ngày và có thể dễ dàng xác định và giải quyết được bất cứ một đề bài nào.
2. Cách khắc phục lỗi về luận điểm
2.1 Không xác lập được luận điểm, nói chung chung, thiếu luận điểm
- Muốn xác lập đúng luận điểm thì phải thường xuyên đặt ra vấn đề: Vì sao? Tại sao? cách hỏi ấy làm hiện lên ý trả lời trong đầu.
Chẳng hạn với vấn đề nhận thức đặt ra trong quan niệm của J.Houston: “Chúng ta sẽ nắm được 10% những gì đọc được, 15% những gì nghe thấy và 80% những gì tự trải nghiệm” thì sau khi giải thích để xác định rằng chúng ta chỉ làm được phần nhỏ những gì mình đọc được, nghe thấy và sẽ nắm được phần lớn những gì sự trải nghiệm”, chúng ta có thể đặt ra những câu hỏi sau:
- Vì sao chúng ta chỉ tiếp thu được một phần nhỏ những gì đọc được, nghe thấy?
- Vì sao chúng ta sẽ nắm được phần lớn những gì tự trải nghiệm?
Việc suy nghĩ tìm ra câu trả lời sẽ giúp ta tháo gỡ dần để tiếp cận và nắm vững bản chất vấn đề. Với câu hỏi thứ nhất, chúng ta cần thấy rõ những khía cạnh sau:
- Vì mỗi chúng ta đều chỉ có một giới hạn về năng lực, một giới hạn về chuyên môn và một giới hạn về phạm vi hiểu biết nên không phải những gì ta đọc được nghe thấy đều có thể hiểu hết được.
- Vì trong trường hợp đó sự tiếp thu của chúng ta chỉ là tiếp thu một cách gián tiếp qua hiểu biết, nhận thức cách nhìn và cách lý giải của người khác.
- Vì những gì đọc được, nghe thấy mà chưa có sự kiểm nghiệm trong thực tế thì ý nghĩa giá trị của nó chưa thể bộc lộ rõ ràng trọn vẹn.
Với câu hỏi thứ hai, chúng ta cần thấy được những khía cạnh sau:
- Khi trải nghiệm, chúng ta sẽ nắm bắt trực tiếp vấn đề trong ý nghĩa thực tế của nó.
- Khi trải nghiệm, dù thành công hay thất bại ta cũng có được những kinh nghiệm thực tế để giải quyết vấn đề.
- Khi tự trải nghiệm, ta sẽ phải vận dụng toàn bộ năng lực hiểu biết trong quá trình tích lũy trước đó để ứng phó, xử lý những tình huống cụ thể, đó chính là điều kiện để ta nắm bắt nó một cách trọn vẹn hơn.
Ví dụ như với đề bài :
“Mây bay bằng gió của trời
Là ta ta hát bằng lời của ta”
(Khúc dân ca - Nguyễn Duy)
Suy nghĩ của anh/chị về ý kiến trên ?
Đa số học sinh chỉ làm luận điểm chính của bài là “con người cần phải sống là chính mình” tức là chỉ chú ý đến vế hai của câu thơ mà quên đi vế một “Mây bay bằng gió của trời”. Điều này dẫn đến việc luận điểm không được chặt chẽ, không làm nổi bật được rõ nội dung của đề. Bởi vậy, với đề bài này thì học sinh khi làm bài cần phải nhìn bao quát toàn vấn đề từ diện đến điểm. Không thể chỉ dựa vào chính bản thân mà làm nên hạnh phúc cho con người mà còn cần đến sự quan tâm giúp đỡ của người khác. Đặc biệt không thể cực đoan chỉ nhất nhất làm theo ý mình mà không cần quan tâm đến người khác.
Như vậy khi làm bài văn NLXH thì học sinh cần chú ý đến yêu cầu của đề bài, nhìn nhận vấn đề mà đề bài đặt ra dưới nhiều góc độ để không bị thiếu luận điểm hay luận điểm chung chung. Có như thế bài viết mới sắc sảo và gây được hứng thú cho người đọc.
2.2 Lặp ý, sắp xếp các ý lộn xộn
- Để khắc phục lỗi này thì học sinh nên tuân thủ theo các bước của bài văn NLXH thông thường là : Giải thích -> Bình luận chứng minh ý kiến nhận định đó là đúng hay là sai -> rút ra bài học cho bản thân. Như vậy bài văn sẽ tránh được việc lộn xộn, lập luận không có sức thuyết phục.
- Còn về lỗi lặp ý, hiện tượng ý sau lặp ý trước, ý trước bao trùm lên ý sau hoặc trình tự các ý lộn xộn dài dòng. Để khắc phục tình trạng trên, các bạn học sinh nên làm dàn ý trước, đề ra những luận điểm, luận cứ cần triển khai trong bài viết.
2.3 Ý không phục vụ cho vấn đề
- Lỗi ý không phục vụ cho vấn đề là do khi viết bài học sinh không chịu đọc kỹ đề, không xác định đúng được các yêu cầu của đề ra, không nắm phương pháp làm bài, hoặc chỉ chăm chăm chú chú học thuộc lòng văn mẫu để đối phó…
- Để tránh trường hợp này, trước hết cần phải đọc đề thật kỹ, sau đó cẩn trọng xác định thật chính xác 3 yêu cầu đề ra:
+ Yêu cầu về nội dung nghị luận. Đây là yêu cầu quan trọng nhất.
+ Yêu cầu về phương pháp – cách thức nghị luận (nghị luận bằng cách nào? Phân tích hay chứng minh …)
+ Yêu cầu về phạm vi nghị luận (trong thực tế cuộc sống, trong văn học,…)
Chốt lại, lỗi về ý căn nguyên chủ yếu là do việc lập dàn ý của HS chưa chu toàn, sửa từ gốc sẽ không gây khó khăn cho HS khi loay hoay chữa lỗi từng bài viết về ý vốn thuộc phần ngọn. Bài viết có thể giới hạn trong số lượng nhất định, song lập dàn ý với HS giỏi cần trở thành công việc hàng tuần, thậm chí hàng ngày, GV kết hợp sửa chéo giữa các HS và sửa trực tiếp cho HS là cách làm tốt nhất để HS không mắc lỗi về ý trong quá trình viết.
3. Cách khắc phục lỗi về dẫn chứng
- Để có nguồn dẫn chứng phong phú cho mình, học sinh cần phải thu thập bằng cách quan sát xã hội, theo dõi thông tin báo đài, ghi chép và ghi nhớ. Có thể lấy dẫn chứng từ người thật việc thật, từ sách, từ các tác phẩm văn học. Cần chia các nguồn dẫn chứng thành các nhóm đề tài, chủ đề riêng để tiện cho việc sử dụng. Ví dụ: Dẫn chứng về những nhân vật giàu nghị lực sống; những con người có niềm đam mê, có khát vọng lớn; những việc tử tế, những hành dộng nhân đạo trong cộng dồng;...
* Lưu ý: NLXH cần hài hòa dẫn chứng từ văn học và đời sống. Trong đó cần ưu tiên hơn từ đời sống để phù hợp với kiểu bài. Chẳng hạn một bài văn NLXH chỉ cần một hoặc cũng có thể không cần đến dẫn chứng từ văn học, nhưng chúng ta cần hai đến ba dẫn chứng từ đời sống. Bởi văn học dù xuất phát từ hiện thực nhưng vẫn là sản phẩm của hư cấu tưởng tượng.
- Người xưa có câu: “Nói có sách, mách có chứng”. Nay học sinh muốn thuyết phục giám khảo, cần biết cách đưa dẫn chứng vào bài văn nghị luận. Để đưa dẫn chứng vào bài làm hiệu quả, nên áp dụng 3 bước sau:
Bước 1, từ luận điểm đang nghị luận, liên hệ với dẫn chứng tương ứng (dẫn chứng có thể tương đồng hoặc dị biệt).
Bước 2, tái hiện lại dẫn chứng (có kèm phân tích/diễn giải/bàn luận).
Bước 3, chốt ý, bám sát dẫn chứng với luận điểm (dẫn chứng có liên hệ gì với luận điểm, dẫn chứng làm sáng tỏ hơn cho luận điểm điều gì…).
- Dẫn chứng phải có tính thực tế và thuyết phục. Đó thường là các dẫn chứng về những tấm gương tốt, người nổi tiếng, có tài năng, phẩm chất và có đủ sức tác động đến bạn đọc; những việc làm nhân đạo, ý nghĩa, truyền cảm hứng đến cho người tiếp nhận.
VD: vấn đề nghị luận là nghị lực, sự cố gắng bền bỉ không ngừng, vượt lên hoàn cảnh, ta có thể lấy một số dẫn chứng như:
Nhà sáng lập hãng xe Ford – Henry Ford: Trước khi hãng xe Ford có được một cơ ngơi như ngày nay, người sáng lập Henry Ford đã từng lập rồi phá ba công ty. Công ty thứ nhất mang tên Detroit nhưng nhanh chóng phá sản do Henry Ford chỉ tập trung thiết kế xe mà không kinh doanh. Công ty thứ hai mang tên ông chuyên về xe đua, nhưng sau đó chính Henry Ford bị các nhà đầu tư buộc rời khỏi công ty. Doanh nghiệp thứ ba thì bị phá sản do doanh thu đi xuống. Nhưng ông không hề nản hí mà tiếp tục cố gắng và giành được thành công trong sự nghiệp của mình.
Alexander Graham Bell: Khuyết tật: Mắc chứng khó đọc – viết (dyslexia) và không có khả năng học tập (learning disability) Nhưng ông vẫn phát minh ra điện thoại – một phát minh giúp ích rất lớn cho cuộc sống của con người và cũng là một bước tiến trong sự phát triển ngành thông tin liên lạc.
Đề bài: Có ý kiến cho rằng: Sống là một cuộc vượt thoát khỏi những định kiến. Suy nghĩ của anh chị về ý kiến trên.
Bài làm:
“Định kiến ban đầu bắt nguồn từ lối suy nghĩ áp đặt. Đó là hệ lụy của môi trường sống, cách giáo dục, quan hệ xã hội và nhiều yếu tố khác nữa. Sống trong cùng một gia đình, tư tưởng của bố mẹ ảnh hưởng trực tiếp di truyền đến con cái. Điều đó lí giải vì sao một đứa trẻ quý tộc ngay từ khi còn nhỏ đã mang định kiến, xa lánh bạn bè nghèo khó. Nhớ lại lịch sử thế giới những năm 1930, ở Châu Âu, người da màu không bao giờ được hưởng quyền lợi hay công bằng. Họ bị kì thị, bị khinh thường, rẻ rúng. Người da đen không được phép đi vào các nhà hàng, khách sạn. Thậm chí sinh mạng của họ còn không đáng giá bằng một con chó của người da trắng. Họ chỉ là lũ tay sai ngu dốt, mạt hạ. Định kiến găm chặt vào tiềm thức, chỉ cần nhìn thấy bất cứ một ai mang màu da khác biệt đều bị coi là kẻ thấp kém hơn mình. Nó đã phân tách thế giới của người da trắng và người ra màu thành hai thế giới biệt lập, cũng là cách chúng tạo ra sự khoảng cách giữa người với người, thử hỏi còn gì đáng sợ hơn khoảng cách ấy?”
(Trích bài làm của học sinh)
=> Trước hết việc lựa chọn dẫn chứng ở bài viết này tiêu biểu, gắn với vấn đề. Đồng thời người viết không chỉ dừng lại ở việc đưa ra dẫn chứng mà việc phân tích dẫn chứng cũng khá hay khi biết từ dẫn chứng ấy chỉ ra được tác hại to lớn của “định kiến”. Đó là cách tạo ra sự liên kết các ý một cách tự nhiên, khiến cho dẫn chứng phát huy được hết tác dụng của mình, mang tính thuyết phục cao, lôi cuốn được người đọc.
Tương tự, chúng tôi có một số cách phân tích dẫn chứng tham khảo sau:
Đề bài:“Thất bại lớn nhất của con người là sợ phải thất bại”.Anh/chị có đồng tình với quan điểm trên hay không?
Bài làm:
“Nếu thành công là quả ngọt của những năm tháng nỗ lực theo đuổi mục tiêu, thì thất bại chính là người thầy tuyệt vời trên chặng đường ấy. Thất bại cho ta những kinh nghiệm, hiểu biết mà không có bất cứ sách vở nào nói đến. Bạn có biết rằng Edison đã thành công phát minh ra bóng đèn điện sau hơn 10000 lần thất bại, tất nhiên điều đó cũng đã từng đem đến cho ông những mỏi mệt; nhưng một điều chắc chắn rằng Edison không bao giờ nản chí, hai chữ “thất bại” không thể hình thành nên trong ông nỗi sợ hãi. Tôi vẫn có nhớ như in những lời bất hủ của ông: “Tôi không thất bại. Tôi chỉ là tìm ra được 10000 cách nó không hoạt động”. Trước ý chí và niềm tin ấy, thất bại đã ngả mũ trước ông, người đàn ông không mang trong mình nỗi sợ thất bại ấy đã làm lên lịch sử với phát minh khiến toàn nhân loại sửng sốt. Đúng vậy, mỗi chúng ta sinh ra định sẵn là một kẻ chiến đấu, nếu cứ mang trong mình nỗi sợ thất bại vậy kết cục chỉ là một sự tồn tại vô danh, chứ liệu rằng có được mọi người nhớ đến muôn đời như Edison? […]”
(Trích bài làm của học sinh)
*Lưu ý rằng, khi đưa dẫn chứng không nhất thiết lúc nào cũng phải lựa chọn những dẫn chứng cụ thể, đôi khi cũng thể nói chung chung chỉ một tập thể, một loại người cũng là một cách hay:
“Ai cũng ôm giấc mộng muốn làm được những điều lớn lao, vì vậy, mơ ước, khát vọng của mỗi người chính là những điều nhỏ để tạo nên những khát vọng lớn. Những nguyện vọng ấy là tâm huyết chính đáng của mỗi người vì thế mọi người xung quanh cần tôn trọng, động viên, khuyến khích họ thực hiện. Như mỗi học sinh chúng ta thì mong muốn mình sẽ đỗ vào trường đại học mà mình mơ ước, bác nông dân thì mơ tới một mùa màng bội thu hay những người nghèo thì mơ tới một cuộc sống đủ cơm ăn áo mặc, có khi lại là người thầy giáo, cô giáo với ao ước được truyền lại cho học trò của mình những kiến thức bổ ích về cả học thuật lẫn đạo đức, ... Mong muốn của con người là vô tận và trong cuộc sống xung quanh ta có nhiều người ấp ủ trong mình những khát vọng lớn lao”.
(Trích bài làm của học sinh)
4. Cách khắc phục lỗi về trình bày
4.1 Bố cục bài viết hợp lí
Dù bài viết ở dạng đề nào thì cũng phải duy trì bố cục 3 phần là mở bài, thân bài, kết luận để làm hài hòa phần hình thức của bài viết, Dù là bài viết của HSG có phá cách, sáng tạo thì vẫn phải đảm bảo bố cục ba phần:
Mở bài: Cần trình bày được vấn đề được đặt ra trong đề ( hiện tượng, tư tưởng nào đó ). Cần có phần dẫn dắt vấn đề đi vào một cách tự nhiên, tránh gò bó, tránh gượng ép gây cảm giác khó chịu cho người đọc, mở đầu phải tạo được ấn tượng cho người đọc.
Thân bài: Được xem như phần xương sống của bài viết, bởi vì nó giải quyết những vấn đề chính của đề bài. Thường phần thân bài sẽ trả lời cho các câu hỏi vấn đề này có ý nghĩa gì? Nó đúng hay sai, tại sao? Vấn đề này thường diễn ra phổ biến trong cuộc sống như thế nào? Cần làm gì để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của nó trong xã hội hiện nay? Bạn cần làm gì để hiện thực hóa nó trong cuộc sống thực tế hiện tại? Đó là một yêu cầu cơ bản trong việc viết một thân bài của dạng bài nghị luận xã hội.
Đối với phần nghị luận xã hội về hiện tượng đời sống nên lấy nhiều ví dụ minh họa cụ thể ở ngoài đời sống đề làm cho bài viết của bạn thêm sinh động, thuyết phục người đọc hơn.
Kết bài: tuy ngắn nhưng có vai trò quan trọng vì nó khép lại cả vấn đề mà bài viết đang đề cập tới và mở rộng liên tưởng ra những ý kiến cá nhân của bạn về bài viết.
Một số cách để viết đoạn văn đúng, hay:
+ Xác định đoạn văn thuộc phần nào của thân bài (giải thích hay bình luận, chứng minh) để có thao tác lập luận phù hợp.
+ Xác định luận điểm, các ý cần triển khai trong đoạn văn (đã xây dựng ở phần dàn ý) để đi đúng hướng, tránh lan man, xa đề không làm sáng rõ được luận điểm.
+ Mỗi đoạn văn chỉ nên phục vụ một hoặc hai ý chính, tránh việc lẫn lộn, không rõ ý, mất đi tính logic của văn bản.
+ Đảm bảo sự cân bằng: Để tăng tính khoa học cho toàn bài các đoạn văn cần sự cân bằng, không đoạn văn nào quá dài cũng không đoạn văn nào quá ngắn.
+ Diễn đạt trong sáng, hấp dẫn để tăng tính thuyết phục cho đoạn văn
+ Đảm bảo tính liên kết giữa các câu văn trong đoạn, xác định và sắp xếp các luận cứ một cách rõ ràng (diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp).
VD:
Đề bài: Giản Tư Trung trong cuốn sách “Đúng việc” có đưa ra khái niệm người trí thức. Đó là những người có đủ ba điều kiện:
1) Sự hiểu biết
2) Thức tỉnh xã hội
3) Vì mục đích cao quý (hướng xã hội đến cái đúng và cái đẹp)
Nếu không hội tụ đủ ba điều kiện này(hoặc chỉ có đủ điều kiện đầu tiên) thì chỉ là trí nô mà thôi.
Anh/chị suy nghĩ như thế nào về quan điểm trên.
Bài làm:
“Trong bất kì xã hội nào, thời đại nào cũng vậy, con người luôn cần có kiến thức, có hiểu biết về cuộc sống xung quanh. Thế giới mà chúng ta đang sống theo guồng quay của công nghệ, kĩ thuật số không ngừng biến đổi như vũ bão. Mỗi giây trôi qua lại ghi nhận vào kho tàng tri thức của nhân loại bao khám phá mới về mọi lĩnh vực. Nếu con người không có hiểu biết phong phú và không ngừng mở rộng vốn hiểu biết ấy sẽ nhanh chóng bị đánh bật ra khỏi vòng xoáy chung của cuộc sống, công việc. Có ai đó đã từng nói “Điều duy nhất giúp con người tồn tại được là khả năng thích nghi mạnh mẽ” và hiểu biết chính là một loại năng lực thích nghi của con người vói sự chuyển biến không ngừng trong cuộc sống bộn bề, phức tạp này. Cứ nhìn vào cuộc hành trình của nhân loại từ lửa đến khí ga và năng lượng điện từ, từ ti vi đen trắng đến màn hình tinh thể siêu mỏng, chỉ trong vòng vài chục năm mà chiếc điện thoại bàn cồng kềnh đã bị thay thế bởi chiếc điện thoại thông minh cũng đủ thấy sự cần thiết của hiểu biết, tri thức với mỗi con người,. Thiếu đi hiểu biết, con người lập tức sẽ trở nên lạc lõng, tụt lại phía sau quy luật phát triển chung.
Hiểu biết còn là một nhu cầu mang tính bản năng của con người. Đứng trước thế giới phong phú với vô vàn những hiện tượng phức tạp, đa chiều, con người luôn có nhu cầu được tìm hiểu, khám phá. Hiểu biết giúp chúng ta có được cái nhìn sâu sắc, toàn diện về đời sống xung quanh, tránh gặp phải những sai lầm không đáng có. Ngày xưa hay ngày nay, trong bất kể lĩnh vực nào cũng vậy, không có hiểu biết thì kể cả những công việc lao động chân tay con người cũng khó mà làm được. Trồng cây, trồng lúa mà không biết gì về thời vụ, đặc tính cây trồng hay xây nhà mà không hiểu gì về loại gạch, cách thiết kế thì cũng chóng thất bại mà thôi. Con người sẽ dễ dàng bị biến thành kẻ thụ động trước cuộc sống khi không biết gì về nó. Không có kiến thức, con người thậm chí không thể phục vụ nhu cầu vật chất, tinh thần của bản thân mình. Thế mới thấy vốn hiểu biết, tri thức như chiếc chìa khóa duy nhất để tồn tại, để sống có ý nghĩa vậy”.
(Trích bài làm của học sinh)
=> Hai đoạn văn đều trên phục vụ cho việc lí giải, chứng minh cho luận điểm: Để trở thành người tri thức cần “sự hiểu biết”. Tuy vậy mỗi đoạn văn đều làm sáng rõ lên một ý riêng biệt, đoạn thứ nhất nói về sự hiểu biết về kiến thức trong đời sống thường nhật của con người; đoạn thứ hai khẳng định tích lũy kiến thức là một nhu cầu bản năng của con người và tính cần thiết, lợi ích của sự hiểu biết. Hai đoạn văn có dung lượng gần như cân bằng khiến bài viết không nghiêng quá về một phần, cũng nhờ vậy mà luận điểm được sáng rõ. Các ý được sắp xếp logic, rõ ràng, câu văn có sự liên kết khiến cho tư duy được thể hiện một cách liền mạch.
4.2 Phần mở bài, kết bài .
- Để khắc phục các lỗi trong phần mở bài đã nêu trên, chúng ta cần đọc kỹ đề, xác định chính xác vấn đề nghị luận. Đề yêu cầu nghị luận vấn đề gì thì trong mở bài phải đặt ra được vấn đề ấy, nếu vấn đề nằm trong một nhận định thì mở bài cần phải trích nguyên nhận định ấy vào. Mở bài phải nằm tách khỏi thân bài, là một đoạn văn tách biệt, đặt ở đầu bài văn, lùi đầu dòng, chấm xuống dòng đầy đủ. Phần mở bài không được quá dài, nên giới hạn trong một đoạn văn khoảng 10 đến 12 dòng.
Đối với mở bài của học sinh giỏi, yêu cầu đặt ra không chỉ cần đúng, mà còn cần phải hay, sáng tạo, gây ấn tượng đối với người đọc. Học sinh có thể dẫn dắt vào vấn đề nghị luận bằng một ý kiến, một đoạn thơ hay một câu chuyện (ngắn gọn) có sự tương đồng về ý nghĩa với vấn đề nghị luận ấy. Làm sao để phần dẫn dắt liền mạch, ăn khớp với ý kiến nhận định, câu chuyện mà đề bài đưa ra. Ví dụ:
Đề bài “Có một gã khổng lồ đang say ngủ trong mỗi con người. Khi gã khổng lồ thức giấc, những phép màu sẽ xảy ra.” (Frederick Faust)
Suy nghĩ của anh chị về ý kiến trên?
Mở bài của học sinh:
“Nhà thơ Isa có đôi vần thơ làm tôi nhớ mãi chẳng thể nào quên:
“Chậm rì chậm rì Kìa con ốc nhỏ Leo đỉnh Fuji...”
Chặng đường mà “con ốc nhỏ” phải leo khiến người đọc liên tưởng tới cuộc đời của mỗi con người. Cuộc hành trình của con ốc trong bài thơ trên là một cuộc hành trình không tưởng, cũng như chặng đường đời của con người còn nhiều lắm những chông gai. Tuy nhiên, con đường lên đỉnh Fuji dẫu khó leo tới mức nào, đường đời dù có khó khăn gian khổ ra sao, con người cũng sẽ vượt qua được. Bởi lẽ gì? Phải chăng như Frederick Faust đã từng nói: “Có một gã khổng lồ đang say ngủ trong mỗi con nguời. Khi gã khổng lồ đó thức giấc, những phép màu sẽ xảy ra.”, nâng bước con người đi qua những giông tố của biển đời mênh mông để đặt chân tới đỉnh cao của thành công, danh vọng và niềm hạnh phúc.”
HS cũng cần phải luôn luôn ghi nhớ yêu cầu của mở bài:
- Ngắn gọn, súc tích: Không ít học sinh vì muốn tạo được ấn tượng từ đầu mà đã tốn rất nhiều thời gian vào phần mở bài. Đây là một lỗi cần phải khắc phục vì mở bài NLXH yêu cầu cao sự cô đọng, súc tích bởi nếu quá chú trọng sẽ mất thời gian và nếu quá dài sẽ khiến bị mất ý hoặc lặp ý trong phần thân bài.
- Đầy đủ: Dù mang tính gợi mở nhưng một mở bài đúng là một mở bài phải nêu ra được yêu cầu của đề một cách rõ ràng, chính xác.
- Độc đáo: Phần mở bài phải gây được sự chú ý cho người đọc về vấn đề cần nghị luận bằng cách nêu hoặc có những liên tưởng khác lạ, bất ngờ cho người đọc. Đặc biệt với học sinh giỏi bài viết NLXH yêu cầu cao tính sáng tạo, để gây ấn tượng với người đọc về “chất riêng” của người viết.
- Tự nhiên: Một mở bài hay không đồng nghĩa với sự phức tạp cầu kì. Đa số mở bài gây được cảm tình thường là những mở bài mang tính tự nhiên, gợi mở, gần gũi tạo cảm giác dễ chịu cho người đọc. Do đó, phần mở bài cũng chỉ nên dùng các ngôn từ giản dị, mộc mạc, tránh sáo rỗng, tránh gượng ép. Bởi điều này sẽ gây cho người đọc cảm giác mơ hồ, khó chịu về sự giả tạo.
- Tránh lạc đề: Nếu xác định vấn đề sai dẫn đến việc lạc đề ngay ở mở bài sẽ là một “điểm trừ” lớn, toàn bài có thể không trúng trọng tâm và mất đi cảm tình của người chấm. Bởi vậy một yêu cầu vô cùng quan trọng đó là phải đọc kĩ yêu cầu đề, xác định vấn đề và hướng triển khai một cách rõ ràng.
Khi kết bài học sinh cần thể hiện đúng quan điểm mà bản thân đã trình bày ở phần thân bài. Tùy mục đích nghị luận, người viết có thể sử dụng một trong các cách kết bài sau đây:
- Cách 1: Kết bài mang tính tóm lược, khái quát lại những vấn đề đã nêu ra ở thân bài.
Đề bài: Có ý kiến cho rằng: Sống là một cuộc vượt thoát khỏi những định kiến. Suy nghĩ của anh chị về ý kiến trên.
Bài làm:
“Như vậy,“Sống là cuộc vượt thoát khỏi những định kiến”. Tất cả đều phụ thuộc vào cá nhân có ý thức vượt qua cách trở ấy của loài người. Và tôi luôn tin rằng nếu cố gắng mình có thể khẳng định được nét đẹp phẩm chất người bên trong tâm hồn. Một hình xăm không nói lên điều gì cả, định kiến không thể chiến thắng vẻ đẹp vốn có bên trong con người bạn…”
(Trích bài làm của học sinh)
- Cách 2: Mở rộng và phát triển vấn đề theo chiều hướng mới hoặc rộng hơn.
Đề bài: Nhà văn Đoàn Minh Phượng có lần nảy ra ý tưởng về một bộ phim ngắn với nội dung như sau: "Có một đám dân làng kia được thầy pháp của họ dạy cho bí quyết để không bao giờ còn phải gặp đau khổ phải phiền lụy, không có gì để phải xót thương. Ông dạy họ làm những hình nhân bằng giấy, mỗi hình nhân nhận lấy một khoảng lịch sử, một câu chuyện, một số phận, mỗi hình nhân trở thành một số phận của mình và sau một thời gian khi số phận đó được sống đủ, người ta đem những hình nhân ấy đi nhấn chìm dưới sông, hay bất cứ một con mương con lạch nào đó tình cờ chảy ngang nơi họ sống. Các hình nhân ấy nhận lấy tất cả các buồn phiền và xao động thay cho dân làng.
Dân làng bắc ghế ngồi cạnh nhau nhìn ngắm các hình nhân đại diện đi qua các thứ số phận nhỏ lớn trước khi chìm vào những dòng nước.
Những hình nhân bằng giấy càng về cuối phim càng giống người, và ngược lại. Ở cuối phim ta thấy các hình nhân bằng giấy ngồi nhìn đám người vật vã trong số phận và cuối cùng bị nhấn chìm trong nước”.
Anh chị cảm nhận được điều gì từ ý tưởng của nhà văn Đoàn Minh Phượng?Hãy trình bày những suy nghĩ của mình bằng một bài văn ngắn.
Bài làm:
“Thay vì kết thúc bằng cách nhắc lại những gì đã phân tích trên, tôi muốn mở rộng thêm vấn đề theo một hướng mới. Bởi đôi khi, để cho người khác thấy mình thực hiện một công việc, một trách nhiệm nào đó không phải lúc nào cũng là sai trái. Chỉ là con người có điểm mạnh, điểm yếu, và chúng ta cần có nhau để tồn tại, để sống. Thế nên điều quan trọng chúng ta cần nghĩ tiếp là mỗi con người cần tìm ra ranh giới giữa việc tìm đến sự giúp đỡ và tự tạo con đường dẫn đến hủy diệt chính mình”.
(Trích bài làm của học sinh)
- Cách 3: Vận dụng, nêu phương hướng, bài học phát huy hay khắc phục vấn đề nêu ở thân bài.
Đề bài: Suy nghĩ về câu nói của nhà chính trị Mĩ Fran.KA.Clark đã nói: “Ai cũng muốn làm những điều gì đó lớn lao nhưng không nhận ra rằng cuộc sống được tạo thành từ những điều nhỏ nhất.”
Bài làm:
“Có thể nói, cuộc sống của ta là muôn vàn những điều nhỏ nhặt thú vị. Chính vì vậy, mỗi người hãy sống chậm lại, hãy cảm nhận những giá trị cao đẹp của những điều nhỏ để góp phần vun đắp lên cái lớn lao, xây dựng được những thành công của riêng mình bằng cách ngay bây giờ hãy tập bắt đầu mọi việc bằng những việc nhỏ nhất.
(Trích bài làm của học sinh)
- Cách 4: Mượn lời những câu nói, nhận định có uy tín hay những câu chuyện mang tính chất tương đồng để thay cho lời kết luận của người viết.
Đề bài: Vì mỗi khoảnh khắc đều là duy nhất…
Bài làm:
“Nguyên Tổng thống Mĩ Barack Obama từng nói: “Thay đổi sẽ không đến nếu ta trông chờ người khác hay chờ thời điểm khác. Ta chính là người ta chờ đợi, là khoảnh khắc ta cần đến”. Vì mọi khoảnh khắc đều là duy nhất nên sống ra sao, ghi lại được dấu ấn, ý nghĩa gì đều phụ thuộc ở bản thân mỗi chúng ta. Có thể ngay sau khoảnh khắc này, tôi và bạn đã khác....”
(Trích bài làm của học sinh)
4.3 Khắc phục lỗi về đoạn văn, câu văn, ngôn ngữ.
- Để tránh lỗi viết đoạn văn quá dài hoặc quá ngắn, trước tiên học sinh cần hiểu cấu trúc của một đoạn văn và cách viết một đoạn văn hoàn chỉnh, Có nhiều phương pháp viết đoạn văn: diễn dịch, quy nạp, song hành, móc xích, tổng – phân – hợp (trong đó phương pháp sử dụng phổ biến là diễn dịch, quy nạp… tổng – phân – hợp là phương pháp đòi hỏi ở người viết phải thật “khéo” để diễn ý “trùng nhưng không lặp”; có nghĩa là diễn tả một nội dung nhưng theo cách nói khác nhau. Một đoạn văn hoàn chỉnh sẽ diễn tả trọn vẹn một ý. Bài viết phải được chia thành những luận điểm. Và mỗi luận cứ của luận điểm đó, học sinh có thể trình bày thành một đoạn văn theo một trong các phương pháp trên. Khi bài viết được chia thành đoạn, mỗi đoạn diễn tả một nội dung trọn vẹn, chắc chắn bài viết của học sinh sẽ ghi điểm trong mắt người đọc, người chấm.
- Đối với các lỗi về ngữ pháp, chính tả, học sinh cần tự mình trau dồi, nâng cao vốn từ vựng tiếng Việt, nắm rõ cách sử dụng ngữ pháp để tránh những lỗi sai đáng tiếc. Bên cạnh đó cũng cần hiểu thấu nghĩa của từ để sử dụng chính xác, hợp lí.
- Giáo viên phải giao bài thường xuyên cho học sinh và yêu cầu các em viết bài nhiều. Khi học sinh viết xong, giáo viên cần chấm kĩ và sửa lỗi, chỉ ra những điểm đã được và chưa được yêu cầu học sinh phát huy và khắc phục, tránh viết nhận xét chung chung. Giáo viên cần dành thời gian và tâm huyết cho việc này.
Việc chữa lỗi cho HS thường được tiến hành thường xuyên và đồng bộ, không thể nay chữa ý mai chữa diễn đạt. Kết quả về sự chuyển biến tiến bộ của HS cần được theo dõi sát sao qua các bài viết liền kề. Đôi khi HS cần viết lại chính bài viết, đề bài mình đã được sửa chữa để rèn kỹ năng. Sau đây là một ví dụ về việc HS chữa lỗi sau khi viết bài. Với đề bài dưới đây, ban đầu, HS không xác định được luận điểm trung tâm mà loay hoay viết về định kiến của bản thân, mắc nhiều lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu, bài viết thiếu chất văn, dưới đây là bài viết sau khi HS được chữa lỗi:
Đề bài: “ Thỉnh thoảng chúng ta vẫn bắt gặp những người tự cho mình quyền được phán xét người khác theo một định kiến có sẵn. Những người không bao giờ chịu chấp nhận sự khác biệt. Đó không phải là điều tồi tệ nhất. Điều tồi tệ nhất là chúng ta chấp nhận buông mình vào tấm lưới định kiến đó. Cuộc sống của ta nếu bị chi phối bởi định kiến của bản thân đã là điều rất tệ nếu bị điều khiển bởi định kiến của người khác hẳn còn tệ hơn nhiều.”
(Nếu biết trăm năm là hữu hạn – Phạm Lữ Ân)
Suy nghĩ của anh (chị) về hiện tượng được đề cập trong đoạn trích trên.
Bài làm:
Trong cuộc sống, vẫn còn tồn tại một “căn bệnh lạ” khó chữa, ấy là hội chứng khác Niagara. Con người theo những xoay vần biến cải của cuộc đời buông mình theo dòng chảy của những xu hướng, thả mình trôi theo những đám đông mà không nghe theo tiếng gọi của những khát vọng không thuộc về bản thể những lý tưởng, ước mơ từ trong sâu thẳm, căn bệnh ấy sinh ra, phải chăng là do sự sợ hãi khi đứng trước những cái nhìn khắt khe, những định kiến của người xung quanh như Phạm Lữ Ân đã từng viết : “Thỉnh thoảng chúng ta vẫn gặp những người cho mình quyền được phán xét người khác theo một định kiến có sẵn. Những người không bao giờ chịu chấp nhận sự khác biệt. Đó không phải là điều tồi tệ nhất. Điều tồi tệ nhất là chúng ta đã chấp nhận buông mình vào tấm lưới định kiến đó. Cuộc sống của ta nếu bị chi phối bởi định kiến của bản thân đã là điều rất tệ, nên nếu bị điều khiển bởi định kiến của những người khác hẳn còn tệ hơn nhiều.”
Có thể nói ý kiến của Phạm Lữ Ân đã cho ta một bài học sâu sắc về cách sống của con người . Nhà văn rất tinh ý chỉ ra một biến tướng thường gặp trong cuộc sống của con người bị phán xét theo một “định kiến có sẵn” đó là một người khác đánh giá ta dựa trên một chuẩn mực của số đông. Tuy nhiên việc “bị phán xét” theo Phạm Lữ Ân chưa phải là điều tồi tệ nhất, khi con người “buông mình vào tấm lưới định kiến” nghe theo những đánh giá, nhận xét thậm chí là đưa ra phê bình của đám đông đó mới là điều tệ nhất. “Định kiến” là những tư tưởng, quan niệm thường mang ý nghĩa tiêu cực, áp đặt và rập khuôn con người theo những chuẩn mực nhất định cuộc sống. Nếu bị ảnh hưởng bởi những định kiến của bản thân và của những người xung quanh thì làm sao con người tìm được hạnh phúc , niềm vui thực sự ? Những chia sẻ của Phạm Lữ Ân không chỉ soi tỏ hiện trạng mà còn là một lời cảnh báo, chỉ hướng và tiếp thêm sức mạnh để con người dũng cảm sống chỉ là mình mặc cho định kiến cuả số đông.
Trong cuộc đời, con người là những cá thể với đặc điểm riêng, tính cách, hoàn cảnh và những ước mơ riêng. Con người là một phần của cộng đồng và đôi khi những cá tính, sự khác biệt so với tập thể lại chính là những nguyên nhân của ánh mắt soi mói, những đánh giá tiêu cực từ những người xung quanh, những định kiến xảy ra từ cộng đồng và ta chẳng tránh khỏi sự phán xét từ phía người khác. Tuy nhên bởi ai ai cũng có cái tôi và mong muốn được bộc lộ, được thể hiện cái tôi khác mình nên điều tồi tệ nhất mà con người gặp phải chính là khi con người bị định kiến của đám đông áp đặt và họ chấp nhận nó, gò mình theo khuôn mẫu của những quan niệm nhiều khi là hẹp hòi phiến diện và lạc hậu ấy. Trong con người tồn tại rất nhiều nỗi sợ, có khi ta đâu đủ mạnh mẽ và dũng cảm khi đối diện với ánh mắt và phán xét của một người vậy huống chi là ánh mắt của tập thể ? Bởi vì sự sợ hãi, dù trong thâm tâm ta nhận ra những quan điểm những tư tưởng ấy là lệch lạc, ta vẫn tự ru ngủ mình để rồi chạy theo đám đông. Định kiến dù là của chính mình đặt ra, hay của đám đông áp đặt lên mình đều mang những ảnh hưởng tiêu cực đói với cuộc sống của mỗi con người. Tuy nhiên định kiến của đám đông tác động đến ta, khiến ta bị gò ép, mà ta vẫn coi đó là một điều hiển nhiên và bị điều khiển bởi những điều ấy thì đó thật sự là một bi kịch của con người.Ta dần dần bị thay đổi vì cái nhìn cách đánh giá của một người khác và dần dần ta đánh mất chính mình. Ta không còn đủ kiên định động lực để theo đuổi những ước mơ, những khát vọng mà mình hàng ấp ủ.Ta không còn đủ động lực để bước tiếp con đường mà mình đã chọn . Thay vào đó ta mù quáng chạy theo số đông đánh mất cái đẹp từ thẳm sâu trong con người ta.
Việc con người dám đối diện và phản kháng với những định kiến lệch lạc để sống bằng chính mình đem lại cho con người niềm hạnh phúc và cao hơn là sự công nhận từ những người xung quanh. Hoa hậu H’Henie đăng quang trong ánh mắt soi xét của mọi người, trong sự so sánh của dư luận. Họ lấy chuẩn mực của cái đẹp mà đặt trong bối cảnh ngày nay có phần phiến diện để đánh giá cô và cho rằng cô không xứng đáng với bốn chữ “Hoa Hậu Việt Nam”. Mặc kệ những phán xét khắc khe và phần tiêu cực của số đông, H’Henie vẫn nhận ra thế mạnh, nhận ra những nét đẹp của chính mình và cố gắng hết mình để thể hiện những điều đó . Chính quá trình cố gắng không ngừng để thay đồi suy nghĩ của mọi người đã khiến H’Henie được công nhận, không chỉ vậy cô còn ghi dấu ấn rất riêng bởi vẻ đẹp lạ không trộn lẫn cùng sự thông minh sắc sảo và nghị lực đáng ngưỡng mộ. Như vậy cứ sống là mình dám đối mặt với những định kiến của đám đông cuộc sống của ta mới có ý nghĩa. Thay vì đeo lên tấm mặt nạ, che giấu đi bản chất của mình, việc ta sống với những ước ao, những khát vọng, sống như chính bản thân mình khiến ta nhận ra giá trị của cuộc sống.
Nếu con người cứ bị áp đặt mà không dám dứng lên cất tiếng nói của những điều mới mẻ và đúng đắn thì làm sao xã hội phát triển. Những con người không chịu điều khiển bởi định kiến là những người đi đầu . Họ là những người tiên phong, người mở đường, khai sáng cho con người . Galilê bảo vệ cho quan điểm: Trái Đất có hình tròn, đi ngược lại với những tuyên bố của Giáo Hoàng, để rồi vì thế nhận về cái chết đau đớn.Tuy nhiên, thời gian đã chứng minh học thuyết của ông là đúng đắn. Phải có những người đủ bản lĩnh, đủ năng lực đê tự cởi trói khỏi những quan điểm sai lệch, áp đặt, từ đó cởi trói cho cả những người xung quanh và thậm trí ngày cả nhân loại, xã hội mới có thể ngày càng trở nên văn minh và tiến bộ .
Con người ai mà chẳng muốn đươc sống là chính mình, nhưng đâu phải ai cũng có thể làm được điều đó? Phải có sự dũng cảm đủ ý trí,nghị lực, đủ tỉnh táo để phân biệt điều đúng sai, phải trái, có như thế ta mới đủ sưc để đứng vững trước những sóng gió của dư luận. Trong cuộc sống, có những định kiến tồn tại từ rất lâu đời nhng đó lại là chuẩn mực tích cực để con người vươn tới phấn đấu để hoàn thiện mình...
Như vậy con người giữa cõi cuộc đời còn nhiều biến động phức tạp,phải giữ cho mình sự tỉnh táo, sáng suốt khi đứng trươc ánh mắt soi xét của người khác để không tự nhốt mình trong cái lồng sắt của định kiến, để không đi theo những quan điểm sai lầm của số đông ...
Có người cho rằng sống giữa cuộc đời nên như trái cà chua. Bởi cà chua (tomato), đọc ngược lại vẫn là (tomato). Cà chua khi chín hay khi xanh cả trong hay ngoài đều có một màu đồng nhất.Nhưng nếu ta không dám đối mặt với những suy nghĩ áp đặt, với đinh kiến của số đông liệu ta có là chính mình, liệu ta có thể sống một cuộc sống hạnh phúc và ý nghĩa?
(Bài làm của học sinh )
PHẦN KẾT LUẬN
Với phạm vi của một chuyên đề, vấn đề Chữa lỗi trong bài văn nghị luận xã hội cho học sinh giỏi là một nội dung mà các giáo viên trực tiếp dạy bồi dưỡng các đội tuyển Ngữ văn đang rất trăn trở, quan tâm. Giải quyết tốt được vấn đề này là yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng bài làm văn nghị luận xã hội, cũng là nâng cao kết quả bài làm của học sinh giỏi. Học sinh được trang bị về kiến thức, hướng dẫn về kĩ năng làm bài văn nghị luận xã hội, nhưng không phải cứ được trang bị, hướng dẫn là học sinh có khả năng làm tốt, khả năng thực hiện bài viết ở mỗi học sinh lại có sự khác biệt, chênh lệch... Vì thế, chuyên đề của chúng tôi thực hiện hai bước quan trọng là xác định các lỗi trong bài văn nghị luận xã hội của học sinh giỏi và đề xuất cách sửa các lỗi đó cho các em
Với phạm vi có hạn chế của một chuyên đề nhỏ, số lượng tài liệu tham khảo ít ỏi, kinh nghiệm giảng dạy bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi còn chưa nhiều, chúng tôi không có tham vọng tìm hiểu thật toàn diện, sâu sắc về một đề tài thú vị và mang hàm lượng khoa học cao như đề tài này, nên trong quá trình thực hiện chúng tôi chỉ khiêm tốn mong muốn nêu ra những vấn đề cụ thể, có ý nghĩa thiết thực có thể chia sẻ cùng các đồng nghiệp những nhận thức và kinh nghiệm của chúng tôi trong quá trình bồi dưỡng cho học sinh giỏi. Các lỗi mà chúng tôi thống kê được trong chuyên đề cũng chưa thể tiêu biểu hết được cho những lỗi mà học sinh giỏi mắc trong quá trình làm bài văn nghị luận xã hội, mà chỉ nêu những lỗi mà theo chúng tôi là điển hình và thường gặp nhất. Điều chắc chắn là các bạn đồng nghiệp sẽ thấy còn khá nhiều lỗi trong thực tế bài làm của học sinh mà chúng tôi chưa đề cập đến hoặc chưa có giải pháp chữa lỗi thực sự triệt để.
Chúng tôi mong muốn rằng những gì được trình bày trong chuyên đề này sẽ là một tài liệu có giá trị tham khảo nhỏ bé và hữu ích với đồng nghiệp trong công tác giảng dạy thực tế tại các trường THPT Chuyên.
Mong các bạn đồng nghiệp dành cho chuyên đề của chúng tôi những nhận xét, đóng góp, chia sẻ chân thành để chúng tôi bổ sung và hoàn thiện thêm trong thời gian tới. Để chuyên đề này mang giá trị khoa học thiết thực và phát huy được ý nghĩa trong hoạt động bồi dưỡng học sinh giỏi.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Hạnh, Chuyên đề: Rèn luyện nâng cao kỹ năng làm bài NLXH cho HS giỏi, chuyên đề Hội thảo khoa học Olympic Hùng Vương năm 2019.
2. Nguyễn Duy Kha, Hoàng Văn Quyết (2016), Tuyển chọn những bài văn đoạt giải quốc gia học sinh giỏi trung học phổ thông 2004 – 2014, NXB Giáo dục Việt Nam, H.
3. Nhiều tác giả (2007), Từ điển thuật ngữ Văn học , NXB Giáo dục Việt Nam, H
4. Đỗ Ngọc Thống (2016), Luyện thi trung học phổ thông quốc gia năm 2017 môn Văn, NXB Giáo dục Việt Nam, H.
5. Đỗ Ngọc Thống (2016), Tài liệu chuyên Văn tập một, hai, ba, NXB Giáo dục Việt Nam, H.
6. Nguyễn Thị Liễu Hoàn (2018), Lỗi kĩ năng học sinh thường mắc phải khi làm bài văn nghị luận xã hội, Giáo dục và Thời đại ra ngày 03/5/2018.
7. Hoàng Long Trọng, Kinh nghiệm làm văn Nghị luận xã hội,
http://www.giaoduc.edu.vn
8. Nguyễn Thị Hồng Cảnh, Một số lỗi cần tránh khi làm bài thi văn nghị luận, http://baoninhthuan.com.vn...