Chuyên đề: Kĩ năng bồi dưỡng học sinh giỏi với kiểu bài lí luận văn học (Nguyễn Thị Hạnh)
KỸ NĂNG BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI VỚI KIỂU BÀI LÍ LUẬN VĂN HỌC
MÔN NGỮ VĂN
TÊN TÁC GIẢ: Nguyễn Thị Hạnh
Đơn vị công tác: Tổ Ngữ văn - Trường THPT Chuyên Lào Cai
MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn sáng kiến kinh nghiệm……………………………………………1
2. Mục đích sáng kiến …………………………………………………………..2
TỔNG QUAN SÁNG KIẾN
1. Thông tin khái quát về những vấn đề nghiên cứu…………………………….2
2. Phạm vi đối tượng của sáng kiến kinh nghiệm……………………………….2
3. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………………...3
4. Cấu trúc của sáng kiến kinh nghiệm………………………………………….3
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. Khái niệm……………………………………………………………………..3
2. Nội dung, tính chất của lí luận văn học……………………………………….3
2.1. Lí luận văn học là một bộ phận của nghiên cứu văn học…………………...3
2.2. Nội dung của lí luận văn học………………………………………………..4
2.3. Tính chất của lí luận văn học………………………………………………..5
3. Lí luận văn học ở trường THPT………………………………………………6
Chương 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Trang bị những kiến thức về một số vấn đề lí luận văn học…………………..7
1.1. Dạy lí luận VH theo chuyên đề……………………………………………7
1.2. Ôn tập hệ thống hóa kiến thức lí luận VH………………………………......8
2. Kĩ năng làm kiểu bài lí luận văn học…………………………………………8
2.1. Xác định yêu cầu cần có…………………………………………………….8
2.2. Phương pháp làm bài………………………………………………………10
2.2.1. Phân tích đề……………………………………………………………...10
2.2.2. Giải quyết vấn đề…………………………………………………….11
2.3. Giới thiệu một số đề tham khảo………………………………………….17
Chương 3: VIẾT, CHẤM CHỮA BÀI VÀ GIỚI THIỆU BÀI VIẾT THAM KHẢO
3.1. Luyện viết bài……………………………………………………………..25
3.2. Chấm, chữa bài viết………………………………………………………..27
3.3. Bài viết tham khảo…………………………………………………………28
KẾT LUẬN……………………………………………………………………47
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………….49
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. 1. Lí do chọn sáng kiến kinh nghiệm
Bồi dưỡng học sinh giỏi văn là một công việc khó, bồi dưỡng học sinh giỏi với kiểu bài Lí luận Văn học lại càng khó khăn và gian nan hơn gấp bội phần. Như Nguyễn Du đã từng nói: “ đã mang lấy nghiệp vào thân”. Chúng tôi và các đồng chí đều có chung một nghề gian nan, một nghiệp đầy thử thách. Dạy môn Ngữ văn ở trường chuyên, cũng có nghĩa là thêm một trọng trách nữa là bồi dưỡng học sinh giỏi và kiểu bài Lí luận văn học không thể thiếu trong bồi dưỡng đội tuyển. Và như vậy, chúng ta không thể từ chối, không thể không trăn trở đi tìm con đường và những phương pháp, kỹ năng để dạy và bồi dưỡng với mong muốn đạt kết quả cao nhất.
Lý luận văn học là một bộ môn chính trong khoa nghiên cứu văn học. Nắm chắc kiến thức Lí luận văn học chính là chìa khóa để chúng ta đi khám phá vẻ đẹp của văn chương nghệ thuật. Với học sinh năng khiếu thì không thể không biết đến Lí luận Văn học. Vì đây là môn cơ sở giúp các em phát triển năng khiếu học văn của mình.
Lý luận văn học đối với học sinh phổ thông là những kiến thức mới mẻ và rất khó, song vận dụng những kiến thức ấy để làm một bài văn còn khó khăn, nan giải hơn nhiều. Nhưng công việc của người giáo viên dạy học sinh giỏi theo chúng tôi là phải biết cách hướng dẫn học sinh có kỹ năng làm bài thuộc dạng này.
1.2. Mục đích sáng kiến
“Mục tiêu của các lớp chuyên Văn là trên cơ sở học vấn phổ thông, bồi dưỡng sâu thêm những năng lực về Ngữ văn, tạo cho học sinh có được những điều kiện thuận lợi để học lên và làm việc một cách sáng tạo, có hiệu quả trong các lĩnh vực Khoa học xã hội và nhân văn” (Báo cáo trong Hội nghị tập huấn giáo viên dạy giỏi môn Văn THPT-HN 09/2002).
Từ việc xác định rõ mục tiêu của các lớp chuyên Văn, chúng tôi đã xây dựng cho mình một hệ thống, quy mô đào tạo học sinh giỏi, nhất là kiểu bài Lí luận văn học nhằm mục đích nâng cao thành tích trong các kì thi học sinh giỏi Văn.
Riêng với học sinh giỏi đội tuyển Quốc gia, giáo viên chúng tôi lại chuẩn bị một chương trình tập huấn đặc biệt chặt chẽ. Chúng tôi chia lượng kiến thức thành nhiều phân môn nhỏ: phần lí luận văn học; phần văn học sử; phần văn bản, tác phẩm cụ thể; phần rèn luyện ngôn ngữ và kĩ năng làm văn… Nhưng trong đó, chúng tôi đặc biệt chú ý rèn luyện kỹ năng viết văn nghị luận với kiểu bài Lí luận văn học. Vì đây là kiểu bài thường xuất hiện trong các kỳ thi học sinh giỏi.
2. TỔNG QUAN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Những vấn đề cần nghiên cứu
Kiến thức lí thuyết về Lí luận VH
Kỹ năng làm kiểu bài Lí luận VH
Viết văn và sửa lỗi
2.2. Phạm vi và đối tượng của sáng kiến kinh nghiệm
Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề này là học sinh chuyên văn THPT.
Học sinh năng khiếu các trường THPT trên toàn tỉnh.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu được sử dụng là thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm GD
Phương pháp thực nghiệm cũng được áp dụng để xây dựng chuyên đề. Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu áp dụng thử nghiệm và kiểm tra kết quả ở lớp 10,11,12 chuyên văn của nhà trường để đi đến kết luận và để ra những giải pháp được đề cập trong chuyên đề.
2.4. Kết cấu của sáng kiến: Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, chuyên đề được chia làm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận
Chương 2: Cơ sở thực tiễn – Kĩ năng bồi dưỡng học sinh giỏi với kiểu bài Lí luận Văn học
Chương 3: Viết bài, chấm chữa bài và một số bài văn tham khảo
3. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Khái niệm
Lí luận văn học là bộ môn có nhiệm vụ nghiên cứu những quy luật chung nhất của văn chương. Nó có nhiệm vụ thông qua các nghiên cứu hàng loạt tác phẩm Đông – Tây- Kim – Cổ, tìm ra các quy luật chung nhất, cái bản chất chung của văn chương – cái mà bất kì tác phẩm nào được gọi là văn chương đều có sự tôn tại của nó.
1.2. Nội dung, tính chất của lí luận văn học
1.2.1. Lí luận văn học là một bộ phận của nghiên cứu văn học
Lí luận khoa học về văn học lấy các hiện tượng văn học như tác phẩm, thể loại, nhà văn, quá trình sáng tác, sự tiếp nhận, quá trình pát triển của văn học,…làm đối tượng nghiên cứu. Mục đích của lí luận văn học là rút ra các khái niệm, các quy luật có tính phổ biến về văn học nhằm trả lời câu hỏi văn học là gì, tác phẩm có cấu tạo như thế nào, thế nào là tác phẩm hay,… từ đó giúp Người đọc thưởng thức, nghiên cứu văn học là một cách tự giác. Lí luận văn học nghiên cứu văn học như một hoạt động sáng tạo tinh thần thẩm mỹ của con người, bao gồm các mặt hoạt động của các yếu tố, quan hệ tạo thành hoạt động đó. Nó nghiên cứu các hiện tượng văn học cụ thể để rút ra các khái niệm phổ biến về bản chất, tính chất, quy luật của văn học. Chính vì vậy, nội dung của lí luận văn học là khái niệm, phạm trù văn học.
1.2.2. Nội dung của lí luận văn học
Lí luận văn học là lí luận khoa học về văn học, lấy văn học làm đối tượng nghiên cứu. Lí luận văn học có nhiệm vụ khái quát về bản chất, đặc trưng, cấu tạo, quy luật tồn tại và phát triển của văn học, giúp con người hiêu được mọi hiện tượng văn học từ tác phẩm, tác giả, thể loại, trào lưu, phong cách,… Lí luận văn học có nhiệm vụ cung cấp một hệ thống các khái niệm, phạm trù khoa học chặt chẽ với tư cách là những công cụ để người đọc và các nhà phê bình, các nhà văn học sử có thể vận dụng và nghiên cứu văn học một cách hữu hiệu.
Đối tượng của lí luận văn học không phải là một vài tác phẩm, tác giả cụ thể, mà là toàn bộ văn học như một lĩnh vực nghệ thuật, một hình thái ý thức xã hội. Đó là một đối tượng rộng, vừa thống nhất, vừa đa dạng, lại luôn đổi thay trong lịch sử, do đó lí luận văn học không dễ trả lời câu hỏi “ Văn học là gì?” nếu không xem xét một cách toàn diện.
Lí luận văn học tất nhiên không thể không phân tích một số tác phẩm, tác giả cụ thể, nhưng nó nghiên cứu các hiện tượng đó như là những ví dụ. Nói cách khác, nghiên cứu tác phẩm, tác giả cụ thể, lí luận văn học không nghiên cứu như nhà phê bình văn học và lịch sử văn học nhằm đánh giá ý nghĩa, vị trí từng tác phẩm, tác giả đó, mà là nhằm xem xét một trào lưu văn học, cuộc vận động của văn học. Lí luận văn học vận dụng phương pháp luận triết học, từ tầm cao lí luận mà trình bày và phân tích tính chất, đặc điểm, quy luật của văn học, xây dựng nên các khái niệm, phạm trù. Phạm vi của lí luận văn học ngày nay bao gồm các bộ phận sau: Một là bản chất, đặc trưng của văn học, hai là cấu tạo của tác phẩm và thể loại, ba là quá trình sáng tác, bốn là tiến trình phát triển văn học, năm là sự tiếp nhận của văn học. Năm bộ phận này bao quát hết các mặt quy luật của văn học. Một bộ lí luận văn học đầy đủ phải bao gồm ngần ấy bộ phận. Mỗi bộ phận có những quy luật, phạm trù riêng. Nhưng các bộ phận đều liên hệ mật thiết với nhau trong quá trình lịch sử. Theo nhà lí luận Mỹ là M.H.Abrams thì có bốn yếu tố tạo thành đời sống văn học. Đó là tác phẩm, nhà văn, thế giới, người đọc được sắp xếp theo mô hình dưới đây:
Thế giới
Tác phẩm
Nhà văn
Người đọc
Từ bốn yếu tố cơ bản đó có thể sắp xếp thành mô hình vòng tròn phản ánh các mối liên hệ qua lại của chúng:
Thế giới
Tác phẩm
Nhà văn
Người đọc
1.2.3. Tính chất của lí luận văn học
Lý luận văn học là một bộ môn khoa học, là thành quả đúc kết, khái quát kinh nghiệm của văn học nhân loại. Văn học càng phát triển phong phú thì khái niệm về lí luận văn học càng sâu sắc. Lí luận văn học là sản phẩm của lịch sử, nó không ngừng phong phú thêm, và đổi thay cho sâu sắc hơn. Là sự khái quát, đúc kết kinh nghiệm về văn học, lí luận văn học chịu sự chi phối của trình độ phát triển của văn học và trình độ nhận thức của con người. Chẳng hạn Aristote khi bàn đến bản chất của văn học chủ yếu chỉ nói đến bản chất “ bắt chước” của nó, còn bàn đến thể loại thì hầu như chưa nói gì đến thể loại trữ tình. Ở phương Đông, lí luận Nho giáo nói đến văn học chủ yếu đề cập đến chức năng giáo hóa và không đánh giá cao các tác phẩm hư cấu… do đó lí luận văn học hôm nay là sự tổng kết thành quả của một quá trình nhận thức lâu dài về văn học của nhân loại. Nhưng lí luận văn học không phải là số cộng giản đơn các kiến thức về văn học. Từ kinh nghiệm nâng lên lí luận phải trải qua một quá trình kiểm nghiệm, sàng lọc, khái quát, hệ thống hóa. Quá trình xây dựng lí luận văn học phải chịu sự chỉ đạo của một hệ thống thế giới khác quan và các phương pháp khoa học. Bởi vì văn học là một hoạt động tinh thần của con người thông qua hình thức thẩm mĩ, hình thức đánh giá nhằm chiếm lĩnh thế giới, cho nên lí luận văn học không giản đơn là hệ thống kiến thức về văn học mà còn là hệ thống giá trị về văn học. Lí luận văn học không chỉ giải thích văn học là gì mà còn phải cho biết văn học thế nào là hay, là tiến bộ. Lí luận văn học là bộ môn khoa học nhân văn, mang đậm bản chất nhân văn, nó nói lên mối quan hệ khăng khít giữa văn học và con người, thể hiện bản tính người của văn học. Triết học Marx- Lenin là cơ sở khoa học vững chắc để xây dựng và phát triển lí luận văn học hiện đại. Tất nhiên lí luận văn học mác- xít không hề gạt bỏ các thành quả lí luận văn học phong phú thuộc các trào lưu tư tưởng khác, mà hấp thụ chúng, phát triển chúng, làm cho lí luận văn học ngày càng sâu sắc và toàn diện. Lí luận văn học mác- xít là một hệ thống mở.
1.3. Lí luận văn học ở trường THPT
- Lí luận văn học là một bộ phận của phân môn Văn học, nhưng lại có tầm quan trọng rất lớn đối với cả bộ môn và có quan hệ mật thiết với phân môn Văn học. Những kiến thức Lí luận văn học sẽ giúp giáo viên trang bị cho học sinh những công cụ và phương tiện cơ bản để từng bước hình thành năng lực văn.
- Qua Lí luận văn học, học sinh có thể cảm thụ thẩm mỹ một cách có ý thức từ các phương diện của tác phẩm văn học như: ngôn từ, hình ảnh, nhịp điệu,… Đó cũng là con đường khắc phục có hiệu quả hội chứng “ xã hội học dung tục” trong dạy học văn. Lí luận văn học cũng giúp học sinh nâng cao năng lực tư duy. Đó là khả năng phát hiện vấn đề, đặt vấn đề trước một đối tượng, một hiện tượng nào đó của đời sống hiện thực hay đời sống văn học, khoa học. Đặc biệt với học sinh giỏi Văn, kiến thức lí luận văn học là chìa khóa giúp học sinh chủ động hơn trong việc tiếp nhận văn học, thể hiện năng lực hiểu và lí giải các vấn đề thuộc về bản chất, quy luật của văn học.
Chương 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN
2.1. Trang bị những kiến thức về một số vấn đề lí luận văn học
2.1.1. Dạy lí luận văn học theo chuyên đề
- Chuyên đề 1: Văn học – nhà văn và quá trình sáng tác
- Chuyên đề 2: Đọc hiểu văn bản văn học
- Chuyên đề 3: Thể loại văn học – thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch
- Chuyên đề 4: Tiếp nhận văn học
- Chuyên đề 5: Các mối quan hệ văn học
- Chuyên đề 6: Một số vấn đề về quá trình văn học ,…
Theo chúng tôi, đây là những chuyên đề cực kì quan trọng, vừa cung cấp kiến thức lí luận văn học, vừa hệ thống hoá, khắc sâu kiến thức về tác giả, tác phẩm, vừa rèn kĩ năng… cho học sinh. Bởi vậy, giáo viên không được chủ quan bỏ bất kì một chuyên đề nào. Hơn nữa, cần phải có sự bố trí, sắp xếp một cách hợp lí vị trí của các chuyên đề này trong chương trình. Theo chúng tôi, không nên dạy toàn bộ các chuyên đề của từng khối lớp vào đầu hoặc cuối năm học, mà nên dạy vào cuối mỗi phần, mỗi giai đoạn, thời kì văn học, mỗi tác gia … mà chuyên đề đó có liên quan. Có như vậy thì việc dạy các chuyên đề mới thực sự có tác dụng. Nếu dạy vào đầu năm học, học sinh chưa được đọc – hiểu các tác giả, tác phẩm cụ thể, chưa có cái nhìn toàn diện về văn học của từng thời kì, giai đoạn, trào lưu, thể loại… thì chẳng khác nào đánh đố học sinh, bắt học sinh phải công nhận. Còn nếu dạy vào cuối năm, sau khi đã học xong toàn bộ chương trình, thì chắc chắn tác dụng, hiệu quả cũng không cao. Vì, giữa các chuyên đề (có tính tổng hợp, khái quát) và phần kiến thức cụ thể về tác giả, tác phẩm … có liên quan là cả một khoảng cách khá xa.
Song, theo chúng tôi, ở từng chuyên đề, dù rất quan trọng, giáo viên cũng không nhất thiết phải tung ra một lượng kiến thức quá rộng, quá sâu, quá hàn lâm, mà nên cung cấp và chốt lại những đơn vị kiến thức thật cơ bản, để tránh cho học sinh cảm giác choáng ngợp, tâm lí nặng nề, hoang mang…
Ngay trong Hướng dẫn nội dung dạy – học các môn chuyên trường THPT chuyên do Bộ ban hành từ năm học 2001-2002 cũng đã nêu rõ : Phần lí luận văn học mới chỉ yêu cầu học sinh nắm được những kiến thức sơ đẳng. Ngoài ra, khi dạy những bài văn học sử hay giảng văn, giáo viên nên có ý thức cung cấp cho học sinh một số khái niệm, thuật ngữ lí luận văn học cơ bản, đặc biệt là khắc sâu thêm những kiến thức lí luận đã được học, biến lí luận trở thành một bộ phận hữu cơ của môn Văn học.
2.1.2. Ôn tập hệ thống hóa kiến thức Lí luận VH
Chúng tôi là yêu cầu học sinh đọc thật kĩ sách giáo khoa. Khi tập huấn thi tỉnh, nhất là tập huấn thi Quốc gia, học sinh phải đọc đi, đọc lại, giáo viên giảng giải và chốt lại những đơn vị kiến thức cơ bản nhất, then chốt nhất ở từng bài.
(GV hệ thống theo sơ đồ tư duy để học sinh dễ theo dõi)
2.2. Kĩ năng làm kiểu bài lí luận văn học
2.2.1. Hướng dẫn học sinh kỹ năng viết bài thuộc dạng lý luận văn học
2.2.1.1. Xác định yêu cầu cần có
1. Học sinh phải có vốn nhất định về tác phẩm, tác giả , về lí luận văn học… Những kiến thức lí luận cần trang bị cho học sinh là: đặc trưng, chức năng, thể loại, nhà văn và quá trình sáng tạo, phong cách nghệ thuật, tiếp nhận văn học…
2. Học sinh phải có khả năng suy nghĩ trừu tượng, khái quát để hiểu được luận điểm khoa học được đề cập đến trong bài, bởi các vấn đề lí luận thường được nhà văn, nhà nghiên cứu nói một cách hình ảnh, thậm chí là rất trừu tượng và không thật dễ hiểu với học sinh.
Ví dụ:
- Câu nói của Biêlixki “Như một hạt giống vô hình, tư tưởng gieo vào tâm hồn nghệ sĩ và từ mảnh đất màu mỡ ấy, nó triển khai và phát triển thành một hình thức xác định, thành các hình tượng tràn đầy vẻ đẹp và sức sống, cuối cùng nó là một thế giới hoàn toàn đặc thù, nhất quán” (Sự hình thành tác phẩm văn học).
- Câu nói của Ngô Thì Nhậm “Thơ không phải là toà lâu đài mà là cái bóng của toàn lâu đài dưới nước” (Cái đẹp độc đáo của thơ, cách phản ánh hiện thực của thơ)
- Chế Lan Viên:
“Có nên chăng
Ta nói mãi cái hồn nhiên, cái truyền thống, cái nghìn năm
Để nỗi bó tay chả làm gì được nữa”
Lần khác ông lại viết:
“Cuộc đời đẻ ra nhiều hình thức
D ù là ngọc thì cũng nhiều viên ngọc
Cứ đâu phải cứ xanh xanh vĩnh viễn một màu trời”
(Tiếp thu tinh hoa của văn học truyền thống và sự sáng tạo không ngừng, văn học luôn đòi hỏi sự đa dạng)
3. Có khả năng trình bày lại và vận dụng các kiến thức lí luận văn học để giải quyết các vấn đề đặt ra.
4. Có kĩ năng viết, trình bày các luận điểm rõ ràng và vận dụng các kiến thức về tác giả, tác phẩm để làm rõ luận điểm chính
2.2.1.2.Phương pháp làm bài
Để giúp học sinh đạt được yêu cầu đó người dạy học sinh giỏi phải tốn rất nhiều công sức, tập cho các em từ khâu phân tích đề, tìm hướng giải quyết vấn đề.
(1) Phân tích đề
- Đọc kĩ đề, gạch dưới những từ chứa đựng nội dung đề, xem hình ảnh mà nhà văn dùng chứa đựng ý niệm gì rồi đẩy nó về phạm trù lí luận văn học mà đề đặt ra.
- Tiếp đó phải biết đẩy từ ngữ, hình ảnh đó lên tầm khái quát. Ví dụ Về thơ, Xuân Diệu cho rằng “Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác”, Tố Hữu lại quan niệm “Thơ hay là không thấy câu thơ chỉ thấy tình người”. Suy nghĩ của em?
+ Câu của Xuân Diệu: Những từ ngữ và hình ảnh cần tập trung: hồn, xác, câu thơ, tình người; hình ảnh hay cả hồn lẫn xác, không thấy câu thơ chỉ thấy tình người
Hồn: cái bên trong, còn phong kín (cảm xúc, ý tưởng nhà thơ gửi gắm- nội dung của thơ), hồn được thể hiện qua xác.
Xác: là cái diện mạo bên ngoài của thơ (ngôn ngữ, nhịp điệu, hình ảnh…- hình thức của thơ).
Bản chất câu nói của Xuân Diệu: Thơ hay là thơ phải đạt giá trị cao cả về nội dung và hình thức.
+ Câu nói của Tố Hữu: chú ý hai từ Thơ đứng đầu câu là danh từ chỉ câu thơ, bài thơ, chữ thơ thứ hai nằm giữa câu là tính từ nói về vẻ đẹp của nghệ thuật thơ (hình thức); Tình người là đề tài, chủ đề, cảm xúc thơ (nội dung). Theo quan niệm của Tố Hữu một bài thơ, câu thơ được coi là hay khi người đọc không thấy dụng công nghệ thuật của tác giả chỉ còn lại tình người, cảm xúc tác động đến trái tim người đọc. Tố Hữu đề cao nội dung nhưng không tách khỏi nghệ thuật
+ Nâng cao: Quan niệm của hai ông không chỉ đúng với thơ mà với mọi tác phẩm nghệ thuật nói chung. Một tác phẩm là hay phải là “một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung”
Như vậy, phạm trù đưa ra để lí giải cho quan niệm này là: Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức trong tác phẩm văn học
Ví dụ 2: Trong tác phẩm Việt Hán văn khảo, Phan Kế Bính viết “Ngồi trong xó nhà mà lịch lãm suốt các nơi danh lam thắng cảnh của thiên hạ, xem trêm mảnh giấy mà tinh tường được hết các việc hay dơ của thế gian; sinh ra sau mấy nghìn năm mà tựa hồ như đối diện và nghe được tiếng bàn bạc của người sinh về trước mấy nghìn năm, cũng là nhờ có văn chương cả”
+ Các từ cần lưu ý: xó nhà, lịch lãm, danh thắng, thiên hạ, xem mảnh giấy, tinh tường, đối diện và được nghe…
+ Bản chất của câu nói: vai trò, tác dụng to lớn của văn chương đối với con người
Phạm trù lí luận cần có: chức năng của văn học (nhận thức), đặc trưng văn học (ngôn ngữ phi vật thể)
(2) Xây dựng giải quyết vấn đề
Theo tôi, với bất kì đề ra thuộc kiểu bài lí luận văn học, người làm đều phải sử dụng các thao tác: giải thích, chứng minh, bình luận. Giải thích để hiểu được thực chất nội dung vấn đề ở đây là gì? Chứng minh là làm rõ hơn cho vấn đề cả về mặt lí luạn văn học và thực tế văn học. Bình luận là nhìn vấn đề đó dưới nhiều góc độ khác nhau để bàn luận sự đúng, sai, để tìm hiểu ý nghĩa của quan điểm lí luận văn học đó với đời sống văn học, với người cẩm bút và họ phải làm gì để trở thành một nhà văn có chỗ đứng trong lòng độc giả.
a. Giải thích
- Giải thích khái niệm: từ ngữ, hình ảnh của nhận định (nghĩa đen, nghĩa chuyển đặc biệt là nghĩa hàm ẩn được thể hiện trong cái vỏ bọc từ ngữ, hình ảnh, các nói trừu tượng của nhà văn.
- Giải thích ý nghĩa: xem bản chất của câu nói ấy là gì? (Xem phần hướng dẫn phân tích đề)
- Mở rộng tới các câu nói tương tự của các tác giả khác…
b. Đề xuất nhận định, đánh giá, mở rộng
- Tất nhiên các vẫn đề lí luận đưa cho học sinh làm bài thường là đúng, học sinh ít khi phải nghĩ ra một cái gì thật mới mẻ mà thường là khẳng định vấn đề đúng và đúng đến đâu, và dựa vào sự hiểu biết về lí luận văn học mà giải thích rõ rồi dùng thực tế văn học mà mình đã học, đã biết để chứng minh cho sự đúng đắn của nhận định.
- Ví dụ ở đề văn trên (Ví dụ 1)
+ Cách hiểu của hai nhà thơ tưởng như mâu thuẫn nhưng thực ra lại hoàn toàn thống nhất bởi hai ông đều có nét tương đồng trong quan niệm thơ hay: Thơ là một chỉnh thể nghệ thuật được kết hợp bởi hai yếu tố: nội dung và hình thức nghệ thuật. Vì vậy, thơ hay phải đạt đến sự hài hoà đến mức như là máu thịt, như là thể xác và linh hồn.
+ Đây là một quan niệm đúng đắn. Quan niệm này có cơ sở cả về mặt lí luận và thực tế văn học:
Cơ sở triết học: cặp phạm trù nội dung và hình thức của mọi hiện tượng trong đời sống
Cơ sở lí luận văn học: nội dung và hình thức trong tác phẩm văn học. Tác phẩm văn học là một hiện tượng xã hội nên những tác phẩm có giá trị, nội dung và hình thức phải luôn thống nhất chặt chẽ. Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức tạo nên sức mạnh tư tưởng, nghệ thuật của chỉnh thể tác phẩm văn học.
Thực tế văn học cho thấy: nếu chỉ coi trọng nội dung thì thơ chỉ có nội dung tư tưởng cao, chỉ đứng được một thời (Những bài thơ của phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh: Bài ca cách mạng,…). Ngược lại, nếu chỉ quan tâm tạo dựng cho một cái xác đẹp đẽ với những sáo ngữ ồn ào, mà không chú ý đến phần hồn thì câu thơ chỉ làm cho người đọc sướng tai, vui mắt trong một khoảnh khắc nhất định, không lưu lại trong lòng một cái gì, đọc câu thơ như ngắm một bông hoa có sắc mà không có hương. Nhiều bài thơ hay để đời là những bài thơ hay cả hồn lẫn xác không thấy câu thơ, chỉ thấy tình người: Hoàng hạc lâu, Tôi yêu em, Đây thôn Vĩ Dạ…
c. Ý nghĩa tác dụng và mở rộng vấn đề
- Đóng góp vào kho tàng lí luận phong phú của văn chương.
- Bài học cho người cầm bút và người tiếp nhận
Đề bài luyện tập
Lê Quý Đôn cho rằng “Thơ phát khởi từ trong lòng người ta”, còn Ngô Thì Nhậm lại nhấn mạnh “Hãy xúc động hồn thơ cho ngọn bút có thần”. Từ ý kiến trên hãy nêu vai trò của tình cảm trong thơ.
Gợi ý
Hướng giải quyết vấn đề:
1. Giải thích
( ? ý nghĩa của hai câu nói là gì ? )
- Lê Quý Đôn (1726-1874) và Ngô Thì Nhậm (? – 1803) đều là những nhân sĩ Bắc Hà học rộng tài cao có nhiều đóng góp sắc sảo về thơ.
- Lê Quý Đôn cho rằng: Thơ phát khởi từ trong lòng người ta. “Lòng” là thế giới nội tâm, là tâm hồn, tình cảm, cảm xúc của người làm thơ, khởi phát là từ xuất phát, là khởi đầu. Theo Lê Quý Đôn thì thơ được ra đời, nảy mầm từ tâm hồn, tình cảm của con người. Tình cảm, tâm hồn là cái gốc của thơ.
- Ngô Thì Nhậm: Hãy xúc động hồn thơ cho ngòi bút có thần. Xúc động hồn thơ là cảm xúc, tình cảm của người làm thơ đạt đến độ rung động cao, ngọn bút có thần là ngọn bút tài hoa, tinh tế. Ngô Thì Nhậm muốn nói: sự rung động mãnh liệt của người nghệ sĩ là tác nhân quan trọng cho bút lực họ sung mãn, thể hiện được cái thần, cái hồn của đối tượng trữ tình, khiến quỷ thần phải sợ.
- Cả hai câu nói có tính chất bổ sung cho nhau nhằm khẳng định vai trò tình cảm trong sáng tác thơ: tình cảm là nơi bắt đầu của thơ và rung động mãn liệt là khởi điểm của sự sáng tạo nghệ thuật, là phút xuất thần của ngọn bút thi nhân.
2. Phát biểu suy nghĩ về vai trò tình cảm trong thơ
- Tình cảm, cảm xúc là đặc trưng cơ bản của thơ. Thơ không phải văn xuôi, thơ thuộc phạm trù trữ tình, thơ lấy điểm tựa ở sự bộc lộ thế giới nội cảm của nhà thơ trước cuộc đời. “Ta nói trời xanh hôm nay nên thơ nhưng chính ra lòng chúng ta mang nỗi niềm vui buồn mà muốn làm thơ hoặc đọc thơ về trời xanh. Mưa phùn buổi chiều gợi những câu thơ nào nhớ nhung, nhưng chính nỗi nhớ nhung ấy gặp trời mưa mà muốn thì thầm những câu thơ chưa thành hình rõ” (Nguyễn Đình Thi). Bạch Cư Dị cũng đã cho rằng: đối với thơ, tình là gốc, lời là cành, thanh là hoa, nghĩa là quả”. Không có tình, thơ như cây không gốc, thơ không thể là thơ vì lời, thanh nghĩa của thơ không thể nảy mầm. Tình là nơi nuôi dưỡng thơ mãi mãi xanh tươi như cây đời.
- Tình cảm trong thơ không thể là tình cảm giả tạo gượng gạo, hời hợt, mờ nhạt. Tình cảm nhạt nhoà, giả dối chỉ tạo nên những con chữ vô hồn, sự gào rú hỗn độn của âm thanh và sự rỗng tuếch của nghĩa lí; Tình cảm trong thơ phải chân thành tự nhiên: “Thơ là tiếng nói hồn nhiên nhất của tình cảm con người” (Tố Hữu), phải mãnh liệt và sâu sắc. Nhà thơ phải yêu, ghét, vui buồn đến tận độ, phải mang nghìn trái tim trong một trái tim. “Thơ muốn làm người ta khóc trước tiên mình phải khóc, muốn làm người ta cười trước tiên mình phải cười” (Chế Lan Viên). Có lẽ vậy mà Platôn gọi thơ là Thần hứng, Đecgavin lại cho thơ là ngọn lửa thần.
- Nhà thơ làm thơ là để giãi bày lòng mình với mọi người, để tìm sự đồng cảm “Thơ là chuyện đồng điệu. Nó là tiếng nói của người nào đó đối với người nào đó có sự cảm thông chung dựa trên cơ sở đồng ý, đồng tình, đồng chí” (Tố Hữu). Thơ dựa trên cơ sở tri âm; Thơ đi từ trái tim đến với trái tim. Vì vậy tình cảm trong thơ không thể là tình cảm chung của cá nhân nhà thơ là tình cảm có tính chất xã hội. Từ nhịp đập của trái tim mình, nhà thơ phải vẽ lên nhịp đập của trái tim quần chúng.
- Có cảm xúc, tình cảm chưa đủ để có thơ, nghĩ ra thơ là tâm hồn làm ra thơ là tay. Do vậy người nghệ sĩ phải có tay nghề thơ, có khả năng biến cảm xúc ý tưởng thành lời, nghĩa là phải có tài làm thơ. Tài dù khéo đến đâu mà không có tình nuôi dưỡng thì nhà thơ chỉ tạo được những xác con chữ nằm bất động trên trang giấy. Thi hào Gơt nổi tiếng thế giới đã từng khuyên các nhà văn trẻ “Hãy đập vào tin anh thiên tài là ở đó”. Chỉ khi nào con tim thi nhân “rẩy tựa dây đần” thì ngòi bút họ mới thăng hoa, xuất thần đến không ngờ, thơ sẽ như lửa gặp gió sẽ bốc cao. Người đọc lúc ấy “không thấy câu thơ chỉ thấy tình người” (Tố Hữu) và câu thơ sẽ neo trụ mãi trong họ.
Thực tế văn học cho ta thấy rõ điều đó. Thi thánh Đỗ Phủ đời nhà đường chưng cất từ nỗi đau rỉ máu của mình – của một ông quan do chiến tranh phong kiến bị đẩy tới chân trời tây nam của huyện Quỳ Châu xa xôi, nếm cuộc sống bần cùng của muôn dân - để tạo nên những vần thơ khắc khoải nỗi nhớ quê ám ảnh người đọc bao thế kỷ:
“Nước mắt tuôn theo dòng lệ cũ
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà”
Bạch Cư Dị với “Lệ ai chan chứa hơn người” trước thân phận bọt bèo của một tài nữ đánh đần trên bến Tầm Dương mà có một Tỳ bà hành lưu trước nhân gian bạn cùng trăng sáng; Nguyễn Du tạo nên tuyệt tác truyện Kiều- và hình tượng Vương Thuý Kiều bất hủ bởi tấm lòng Đau đớn thay phận đàn bà đến tê buốt của ông. Hoàng Cầm viết Bên kia sông Đuống, một tác phẩm để đời của ông chỉ trong có một đêm bởi cảm xúc thơ xuất thần từ “tâm tư chồng chất nhớ thương với cảnh với người quê hương bị giặc tàn phá giết hại”.
3. Ý nghĩa tác dụng và mở rộng vấn đề
- Những ý kiến về vai trò tình cảm trong thơ của Lê Quý Đôn và Ngô Thì Nhậm đã đóng góp vào kho tàng lí luận phong phú của thơ ca và là định hướng, lời khuyên rất quý giá với người cầm bút.
- Người cầm bút muốn có những đứa con tinh thần khoẻ mạnh có sức sống dẻo dai trong lòng người đọc và vượt qua được sự băng hoại của thời gian thì cần phải nuôi dưỡng cảm xúc, tâm hồn, tình cảm mình ngày một phong phú và tinh tế, phải tạo cho mình một phong cách riêng độc đáo. Muốn vậy phải sống hết mình với cuộc đời, phải tu tâm và dưỡng tài “Phải chịu đau đớn thì vẫn đốt cháy mình và đốt cháy những người khác” (Lep xtôn).
- Người tiếp nhận văn học cũng phải có một tâm hồn rộng mở, giàu tình cảm, cảm xúc,...
Nói tóm lại: Trong các tiết làm văn, học sinh bước đầu đã có những hiểu biết nhất định về kiểu bài nghị luận để xác định được nghị luận nghĩa là phải bàn bạc, đánh giá, nhận xét, đưa ra ý kiến riêng của mình trên cơ sở giải thich, cắt nghĩa, lí giải, bỡnh luận những vấn đề chung.
Để giải quyết vấn đề, cần lưu ý học sinh cách xem xét nó từ nhiều góc độ. Cách đơn giản nhất là tập đặt ra và trả lời những câu hỏi. Sau đây là một số dạng câu hỏi chính:
- Nó là gì?
- Nó như thế nào?
- Vì sao nó lại như thế?
- Như thế thì có ý nghĩa gì với cuộc sống, với con người?
Từ việc đặt ra và trả lời các câu hỏi, có thể hình dung một bài văn nghị luận văn học về kiểu bài Lí luận văn học cần được triển khai theo ba bước cơ bản sau:
1. Giải thích, cắt nghĩa
2. Bình luận, lý giải, chứng minh
3. Đánh giá, mở rộng
2.2.1.3. Giới thiệu một số đề luyện tập
Đề 1: "Nghệ thuật phải khơi gợi được niềm vui sống, lòng yêu đời. Nhưng cũng rất đúng nếu nói rằng: nghệ thuật bắt con người phải ngẫm nghĩ và xúc động, khơi gợi lên ở con người lòng trắc ẩn, sự phản kháng chống lại cái ác, phải gợi lên cho con người cái cớ để buồn, để thương, để khát khao khôi phục, bảo vệ những cái tốt đẹp trong cuộc sống đang bị chà đạp, lăng nhục" (T. Aimatop).
Anh (chị) hãy bình luận quan niệm trên.
Gợi ý:
* Bản chất vấn đề: bàn về chức năng, cụ thể là về giá trị, ý nghĩa xã hội của văn học. Có nét gặp gỡ với quan điểm "Văn học làm con người sống sâu sắc hơn, tinh tế hơn trong một thế giới ước lệ" và "Mỗi tác phẩm là một bặc thang nhỏ nâng tôi lên từ con thú thành một con người".
1. "Nghệ thuật phải khơi gợi niềm vui sống, lòng yêu đời":
- Là gì: nhiệm vụ, sứ mạng của văn học là giúp cho con người hiểu được ý nghĩa, giá trị của cuộc sống. Chỉ khi con người hiểu ra ý nghĩa, giá trị của cuộc sống mới thấy cuộc sống là đáng sống. Chỉ khi con người nhận ra những điều tốt đẹp trong cuộc đời con người mới có thể yêu đời.
- Vì sao: vì văn học là một hoạt động tinh thần của con người, nó xuất phát từ những nhu cầu tinh thần của con người trong cuộc sống, cũng có nghĩa là nó hướng tới giải quyết những nhu cầu ấy. Bản chất con người là luôn có khát vọng hướng tới những cái hoàn thiện, tới cuộc sống đích thực của con người (căn tính thiện vốn có trong con người). Văn chương chân chính đương nhiên phải hướng vào khát vọng đó.
- Bằng cách nào:
+ Mô tả bức chân dung cuộc sống: vẻ đẹp (Vội vàng), tình người (Vợ nhặt), tình yêu (Sóng), nhân cách (Lão Hạc).
---> "Chao ơi, cuộc đời không hẳn là đáng buồn" (Lão Hạc) - nghĩa là nó đáng sống.
+ Lý tưởng hóa những vẻ đẹp, những giá trị của đời sống.
+Ý nghĩa: tạo nên giá trị nhân đạo, nhân văn, có tác dụng to lớn trong việc bồi đắp tâm hồn con người.
2. "Nghệ thuật bắt con người phải ngẫm nghĩ và xúc động... đang bị chà đạp, lăng nhục":
- Là gì: nhiệm vụ của văn học không chỉ là giúp con người biết đến những điều tốt đẹp, bởi nếu chỉ có thế văn học sẽ trở nên giản đơn trong sự đơn giản hóa con người và cuộc sống. Văn học cần giúp con người hiểu biết sâu sắc về cuộc sống: tốt - xấu, đúng - sai, thật - giả, thiện - ác... để có thể nhìn thấy và nhìn thấu, để không chỉ biết phân biệt mà còn biết lựa chọn, không chỉ đi theo mà còn biết hành động.
- Vì sao: vì sứ mạng rất quan trọng của văn học là giúp con người hiểu biết. Biết mới chỉ là nấc đơn giản nhất của kiến thức, hiểu mới là cái đích cần vươn tới của con người để có thể sống với đúng nghĩa của từ này. Sứ mạng rất quan trọng...
- Bằng cách nào:
+ Tạo ra những cuộc đối thoại của lương tri. Xây dựng những tấm gương để con người tự soi mình, tự đối chiếu và phán xét người khác cũng như chính bản thân mình.
+ Cụ thể: phóng to cái tốt để nó trở nên lộng lẫy, cường điệu cái xấu để nó trở nên đáng ghê tởm, không chỉ phát hiện và lý giải những hiện tượng đời sống mà còn đặt ra những câu hỏi để gợi mở những băn khoăn và kích thích ý thức tìm kiếm câu trả lời cho những câu hỏi ấy...
+ Ý nghĩa: giúp con người hiểu biết đầy đủ hơn để sống tốt hơn, nhân ái hơn, đẹp hơn lên.
3. Bình luận:
- Tác giả của nhận định đã chỉ ra thiên chức thiêng liêng và con đường để văn chương chân chính thực hiện thiên chức ấy:
+ Thiên chức: nhân đạo hóa con người.
+ Con đường: tác động vào nhận thức, song quan trọng hơn là tác động vào tình cảm bởi tình cảm là mục đích và cũng là con đường riêng của văn chương.
- Từ nhận định này, người đọc có cơ sở để đánh giá và thưởng thức văn chương chân chính, nhà văn thấy được cái đích cần hướng tới để tạo nên những giá trị văn chương.
Đề 2: Nhà văn L. Tônxtôi đã viết: "Chỉ có những tác phẩm nghệ thuật nào truyền đạt được cho mọi người những tình cảm mới mà họ chưa từng được thể nghiệm thì mới là tác phẩm nghệ thuật đích thực"
Anh/chị hiểu thế nào về ý kiến trên? Hãy chứng minh rằng "Vội vàng" của XD là một tác phẩm nghệ thuật đích thực.
Gợi ý:
1. Nội dung ý kiến:
- Tình cảm: là sự rung động trong lòng trước một đối tượng nào đó.
Văn học thuộc lĩnh vực tinh thần tình cảm - tác động bằng tình cảm và tác động đến tình cảm. Văn học còn là lĩnh vực của sự sáng tạo. Do đó, việc tác động, khơi dậy những tình cảm mới ở người đọc để bồi đắp và làm phong phú thêm cho đời sống tinh thần tâm hồn của con người là điều cần thiết.
- Chưa từng được thể nghiệm: là điều hoàn toàn mới mẻ - sản phẩm của sự khám phá, sáng tạo ở nghệ sĩ.
Văn chương rất cần đến cái mới, cái đẹp của hình thức song điều cốt yếu cuối cùng làm nên sức rung động mãnh liệt của văn chương chính là cái lõi tình cảm của nó. Cái mới của tình cảm ở đây không nhất thiết là những tình cảm mới mà là những khía cạnh mới, chiều sâu mới của tình cảm hoặc những tình cảm mới hơn, khác đi đối với những đối tượng quen thuộc.
- Tác phẩm nghệ thuật đích thực: tác phẩm nghệ thuật hoàn thành được sứ mạnh của văn chương chân chính, có giá trị thực sự đối với cu ộc sống của con người.
Một tác phẩm nghệ thuật đích thực phải truyền đạt cho người đọc những tư tưởng mới, tình cảm mới, cách nhìn mới về cuộc đời và con người; cảm nhận mới về nhân sinh, về lẽ yêu - ghét; bồi dưỡng tình cảm, nâng cao sự hiểu biết và cũng nâng cao phẩm chất người của con người; phải truyền đạt một cách có nghệ thuật để gợi hứng thú mới mẻ cho người đọc.
2. Phân tích bài thơ "Vội vàng":
- Bài thơ đã được khẳng định và thử thách qua thời gian, đáp ứng đầy đủ những tiêu chuẩn theo quan niệm của Tônxtôi.
- XD đã nêu ra một quan niệm về cuộc sống trần thế - hấp dẫn vô cùng, vô tận trong khi đời người ngắn ngủi, con người không thể thờ ơ, lãng phí thời gian. Sống là niềm vui vô tận nên phải tận hưởng nó. Thể hiện điều này, cảm xúc của nhà thơ đã đi đến giới hạn tận cùng của khao khát, ham muốn.
- Bút pháp lãng mạn với giọng thơ sôi nổi, lời thơ táo bạo, tinh tế, một nghệ thuật thơ với nhiều cách tân mạnh mẽ tạo ra những câu thơ rất trẻ, rất sống, rất đẹp. Nhiều từ ngữ có tính hình tượng cao, có khả năng biểu đạt cảm giác mạnh mẽ, nhiều điệp từ được sử dụng tài tình để diễn tả mọi cung bậc của cảm xúc.
---> Đọc "Vội vàng" thấy cái tươi trẻ của một hồn thơ, đồng thời cũng thấy yêu hơn sự sống, yêu hơn tuổi trẻ của con người. "Vội vàng" khơi dậy cái khát vọng sống khiến nó rộn rực, trào dâng trong mỗi người để tâm hồn con người được thanh xuân và tươi trẻ.
Đề bài: Phong cách đối với nhà văn cũng như sắc màu với người họa sĩ, không phải là vấn đề kĩ thuật mà là cách nhìn. (Marcel Proust)
Suy nghĩ của Anh/ Chị về ý kiến trên?
1. Giải thích:
- Phong cách: Là nét riêng, nét độc đáo có sự thống nhất và vận động trong quá trình sáng tác của nhà văn. Biểu hiện tài nghệ của người nghệ sĩ ngôn từ trong việc đem đén cho người đọc 1 cái nhìn mới mẻ chưa từng có về cuộc sống, con người, thông qua hình tượng nghệ thuật độc đáo và những phương thức, phương tiện thể hiện đặc thù in đậm dấu ấn cá nhân của chủ thể sáng tạo. Phong cách khi đã định hình thường có tính bền vững.
- Phong cách đối với nhà văn cũng giống như sắc màu đối với người họa sĩ: Marcel Proust đã so sánh nét riêng nét đọc đáo của nhà văn với người họa sĩ – những người nghệ sĩ trên con đường sáng tạo nghệ thuật.
- Không phải là vấn đề kỹ thuật mà là cách nhìn: phong cách tác giả không đơn thuần là một vấn đề kỹ thuật hay chỉ là lớp vỏ ngoài trang trí cho tác phẩm văn chương mà nó là cách nhìn rất riêng của mỗi người về thế giới, phân biệt với cách nhìn của những người khác.
=> Như vậy, ý kiến của Marcel Proust đã khẳng định vai trò của cách nhìn trong việc hình thành, duy trì và phát triển nét riêng nét độc đáo trong quá trình sáng tác của người nghệ sĩ dù hoạt động ở bất kì lĩnh vực nghệ thuật nào, trong đó có văn học.
2. Bình luận
* Khẳng định: Ý kiến hoàn toàn chính xác
* Lý giải
- Bản chất của lao động nghệ thuật là sáng tạo. Nghệ thuật rất tối kỵ sự trừng lặp, “lúc 1 người không có cái gì là riêng của mình thì phải thấy ở người đó chẳng có gì hết”. Bất cứ lĩnh vực lao động nào cũng ccần tính sáng tạo nhưng sự sáng tạo trong lao động nghệ thuật mang bản sắc riêng và trở thành 1 thuộc tính. Bởi lẽ sản phẩm của lao động là tác phẩm nghệ thuật, nó đáp ứng nhu cầu thưởng thức và nhu cầu thẩm mĩ cho con người, nó là đối tượng thẩm mĩ tác động trực tiếp vào đời sống tư tưởng của con người. Vì vậy tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó là bản sao của người khác, hay không đem lại điều gì mới mẻ cho sự cảm thụ thẩm mĩ của con người.
=> Lao động nghệ thuật của người nghệ sĩ nói chung, của nhà văn nói riêng là lao động đặc thù chịu sự quy định khắt khe của những quy luật sáng tạo nghệ thuật chân chính.
- Sự thật cuộc sống trong tác phẩm nghệ thuật không thể tồn tại bên ngoài cách nhìn thé giới của nhà văn. Cách nhìn này vốn có ở mỗi nhà văn chân chính. Nhà văn phải có khả năng khám phá, nắm bắt những quá trình bên trong của cuộc sống, miểu tả được những tính cách điển hình, mô tả tồn tại phương diện, nội hạt của con người, tâm lí của con người. Cuối cùng đem đến cho người đọc những điều mới mẻ trong tư tưởng, tình cảm, cảm xúc qua cách sử dụng ngôn từ độc đáo.
- Cách nhìn trong phong cách của nhà văn cũng cần thay đổi vận động sao cho phù hợp, hài hòa với phong cách thời đại, phong cách dân tộc…Song cũng không vì thế mà nhà văn thay đổi mất dần nét phong cách riêng biệt của chính mình, mà nó cũng cần có tính bền vựng sau khi được định hình rõ nét.
- Ngoài việc lách ngòi bút của mĩnh vào những thứ nhỏ nhặt trong cuộc sống để đem đến những triết lý sâu xa, thì nhà văn cũng cần có cách nhìn bao quát, rộng lớn, mang tầm nhân loại để xây dựng sức sống lâu bền cho đứa con tinh thần của mình.
- Nhu cầu của bạn đọc luôn luôn đòi hỏi những cái nhìn mới -> áp lực đòi hỏi nhà văn phải có những cách nhìn, cahcs khám phá mới.
3. Chứng minh
* Chí Phèo: NC phát hiện sự tồn tại của thân xác trong CP hay ngôn ngữ cơ thể
- Trước Nam Cao, thân xác thường được xem là những gì thấp kém, không có nhiều giá trị -> thân xác trong văn học dường như bị lãng quên như Nguyễn Văn Trung từng nói: "Thân xác của con người là sự tồn tại bị bỏ quên vắng mặt"
- Nam Cao lại cách nhìn mới cho thấy thân xác con người có tiếng nói riêng của nó. Nó không phải nô lệ của tâm hồn mà còn tác động vào tâm hồn, làm thay đổi tâm hồn con người.
+ Sự thay đổi lớn nhất của Chí qua sự gặp gỡ Thị Nở đêm trăng
. Gã đàn ông chưa bao giờ bị ốm, bây giờ bị ốm -> sự thay đổi của thân xác
. Gã đàn ông chưa bao giờ lo âu về thân xác -> cô đơn trong tuổi già
. Cơ thể già đi theo năm tháng khiến Chí càng trở nên cô độc
=> Chí đã “già” từ thân xác -> tâm hồn
. Sự thay đổi giác quan: nghe thấy.... -> tác động giúp Chí nhớ lại quá khứ ngày xưa -> làm thay đổi tâm hồn con người Chí -> khao khát hoàn lương
=> Sự thay đổi thân xác -> sự thay đổi tâm hồn -> khao khát lương thiện
+ Câu hỏi: "Làm cách nào....lương thiện" thường được quan tâm chú ý hơn câu hỏi: "Làm thế nào để het những vết sẹo này?" -> cho thấy thân xác thường bị bỏ quên.
+Toát mồ hôi khi ăn bát cháo hành cũng là biểu hiện của thể xác cho thấy tâm hồn Chí đang rỉ máu
=> Thân xác con người là gì rất quý giá. Khi con người đã mang gương mặt của con vật thì không thể trở lại được nữa -> tâm hồn Chí khao khát lương thiện nhưng mặt Chí đã thành con vật rồi.
- Từ đây, Nam Cao đã:
+ Lên án tố cáo sự thay đổi nhân hình con người mãi mãi k hòa tan
+ Ông không cắt rời tâm hồn và thân thể mà nó là những dấu gạch nối
=> thân thể trong sáng tác của Nam Cao phát hiện ra tiếng nói riêng của nó, giá trị riêng của nó.
- Lý giải nguyên nhân vì sao Nam Cao có cái nhìn độc đáo ấy:
+ Nguyên nhân khách quan: Nền văn học ít quan tâm đến thân xác
+ Nguyên nhân chủ quan: Cuộc đời, con người Nam Cao
* Vội vàng: Xuân Diệu phát hiện trần gian mang vẻ đẹp thiên đường và mang vẻ đẹp thân xác con người
- Đôi mắt của XD khi nhìn vào cảnh trần gian -> thiên đường
- Trần gian luôn mang vẻ đẹp con người
- Lí giải nguyên nhân vì sao XD có những cái nhìn đặc biệt ấy:
+ Vì chính cuộc đời XD: ám ảnh cái chết do đồng tính luyến ái -> chính vì thế XD mới yêu quý sự sống của mình hơn. XD viết về cái chết ngay ở độ tuổi hoa niên
+ Ảnh hưởng của triết học phương Tây (quan niệm thời gian)
4. Mở rộng
- Cách nhìn mới mẻ đối với mỗi nhà văn cũng rất quan trọng. Nhưng cách nhìn ấy cũng cần được gắn liền với một cách thể hiện đốc đáo, mới lạ và ấn tương. Hay nói cách khác, phong cách nghệ thuật cũng cần quan tâm đến “vấn đề kỹ thuật”
- Yêu cầu với nhà văn và người đọc
Chương 3: LUYỆN VIẾT, CHẤM CHỮA BÀI VÀ GIỚI THIỆU BÀI VIẾT THAM KHẢO
3.1. Luyện viết
Theo chúng tôi đây là phần việc quan trọng nhất, và cũng công phu, nặng nhọc bậc nhất. Trên cái nền kiến thức rộng và sâu hơn hẳn mặt bằng chung của học sinh đại trà và chuyên chọn, các em sẽ vận dụng vào các bài viết cụ thể như thế nào để đáp ứng yêu cầu của học sinh giỏi? Công đoạn luyện viết thể hiện rõ trí tuệ của cả thầy và trò. Với thầy là việc rèn luyện kỹ năng và phương pháp viết văn cho học sinh, từ khâu ra đề đến khâu chấm chữa bài. Với trò là việc vận dụng những kiến thức và kỹ năng đã được học để thể hiện tất cả những gì là tinh hoa, trí tuệ của mình trên cơ sở bài viết ở độ thăng hoa nhất.
Chúng tôi dành cho công đoạn này một thời lượng đáng kể khoảng hơn nửa thời gian tập huấn, bao gồm:
- Trong quá trình học kiến thức, học sinh đã được thực hành viết bài. Sau mỗi mảng kiến thức, giáo viên dạy chịu trách nhiệm ra đề kiểm tra và chấm chữa bài cho học sinh
- Nửa cuối của thời gian tập huấn, phần lớn dành cho việc luyện viết. Phần việc này chủ yếu là do giáo viên lãnh đội phải làm, rất tỉ mỉ và công phu.
- Ra đề kiểm tra theo đúng định hướng của Bộ giáo dục và Đào tạo. Coi thi nghiêm ngặt sít sao, theo đúng thời lượng cho phép.
Trong quá trình học sinh làm bài, hết 1 tiếng giáo viên lại phải nhắc nhở học sinh, để các em buộc phải có ý thức với quĩ thời gian cho phép ở từng câu. 15 phút cuối phải nhắc để học sinh kết thúc bài viết trọn vẹn, và soát lại bài.
Chúng tôi đặc biệt chú trọng rèn cho học sinh kĩ năng viết. Bởi vì: mục đích cuối cùng của việc dạy văn, học văn là học sinh phải biết cách làm bài văn nghị luận văn học bằng hình thức nói và viết. Nhưng trong tình hình thi cử đối với môn văn những năm qua và hiện nay vẫn là tự luận, thi viết, vì vậy, học sinh phải làm được một bài nghị luận văn học bằng hình thức viết. Đối với học sinh nói chung và học sinh chuyên Văn nói riêng, muốn tiến bộ nhanh, chắc chắn không có cách nào khác, nhất thiết phải luyện tập thật nhiều, với nhiều hình thức khác nhau, nhất là hình thức viết. Bởi, từ nhận thức được vấn đề đến phát biểu ra được bằng lời, rồi diễn đạt thành một bài văn hoàn chỉnh là cả một quá trình, có thể nói là khổ luyện. Thực tế cho thấy, không phải em nào nói tốt đã viết tốt và ngược lại. Vì thế cho nên, giáo viên vừa phải giải thích, động viên, vừa phải ốp học sinh viết bài (tâm lí học sinh thường rất ngại). Về số lượng, bài viết phải đảm bảo đủ theo yêu cầu của chương trình. Ngoài ra, vào mỗi kì tập huấn học sinh giỏi Tỉnh, chúng tôi thường yêu cầu các em viết thêm, viết liên tục ngày một bài, khoảng 12 bài. Và như vậy thì việc luyện tập sẽ không có hiệu quả, tác dụng.
Riêng đối với học sinh giỏi Quốc gia, chúng tôi yêu cầu cao hơn : Số lượng bài khoảng 20 và khi viết cần rèn thói quen :
- Không được sử dụng bất cứ tài liệu nào, khi đến lớp viết bài chỉ được phép mang dụng cụ học tập.
- Chỉ được phép làm bài đúng thời gian
- Làm bài trên giấy thi, giấy nháp qui định, đề bài in, phát cho từng học sinh.
- Trong giờ kiểm tra, giáo viên và học sinh tuyệt đối im lặng, giữ trật tự…
Trong quá trình rèn kĩ năng, tiếp tục ôn tập, củng cố kiến thức, đặc biệt là kiến thức Lí luận VH. Đây là điểm yếu nhất của học sinh, do các em chưa thật nắm vững kiến thức lí luận. Ngoài ra các em cũng cần phải nắm vững kiến thức tác phẩm văn học, các em chưa thật sự sống với tác phẩm, vì vậy mà chưa nắm bắt được hồn cốt của tác phẩm. Chúng tôi thường dành mỗi tuần ít nhất là 1 buổi trong thời gian tập huấn, yêu cầu học sinh đọc lại thật kĩ kiến thức Lí luận văn học và các tác phẩm, tự nghiền ngẫm, thẩm thấu kiến thức. Có như vậy việc ôn tập mới thực sự có kết quả. Còn nếu chỉ nghe theo, nói theo, viết theo thì sẽ chẳng còn gì đọng lại trong trí tuệ, tâm hồn các em.
3.2. Chấm - chữa bài
Trong công tác giảng dạy, giáo viên chúng tôi đặc biệt chú ý tới việc chữa bài cho học sinh giỏi. Năng lực, chỗ mạnh cũng như chỗ yếu của học sinh giỏi đều được thể hiện trên bài làm. Việc chữa bài trực tiếp là vô cùng cần thiết. Học sinh có thể hỏi, trao đổi với giáo viên về những điều trong bài làm. Ngoài ra, việc chữa trực tiếp sẽ tránh được sự chung chung, chủ quan của bài làm. Sau khi chữa, giáo viên chỉ ra điểm mạnh, điểm yếu, chỗ đạt, chỗ chưa đạt và cần phải khuyến khích động viên các em học sinh giỏi có niềm tin vào bài làm tiếp theo. Học sinh giỏi có thể tham khảo một số bài làm tốt của các anh chị học sinh giỏi khoá trước để học hỏi, rút kinh nghiệm.
Chúng tôi thường cố gắng chấm thật kĩ, chỉ thật rõ ưu, nhược của từng em và trả bài đúng hạn. Nhất là trong những kì tập huấn, học sinh viết bài mới, giáo viên trả bài cũ. Điều đó đem đến cho các em một tâm lí phấn chấn, được viết, được chấm, được nhận xét, được trả bài nhanh, từ đó, sẽ hăng hái, tích cực viết hơn, không còn cảm giác ngại. Để làm được điều đó, người giáo viên vô cùng vất vả. Bởi, mỗi bài chấm trung bình mất 1 giờ, chưa kể có những bài mắc quá nhiều lỗi, thời gian chấm là 1,5 ->2 giờ. Khi trả bài, chúng tôi thường chỉ nhận xét chung, nhấn mạnh đến những ưu điểm, sự tiến bộ, mục đích là để khích lệ, động viên học sinh, còn cụ thể từng em đã nhận xét kĩ trong bài.
Để giảm bớt sự vất vả, căng thẳng cho giáo viên khi chấm bài, chúng tôi thường tổ chức cho học sinh chấm chéo bài của nhau, đảm bảo nguyên tắc học sinh A chấm của học sinh B, học sinh B chấm của học sinh C… gọi là vòng 1. Sau đó, giáo viên chấm lại vòng 2. Làm như vậy, độ chính xác càng cao, giáo viên vừa đỡ mất thời gian, vừa giảm bớt được sự mệt mỏi. Hơn nữa, khi đọc và chấm bài của nhau, các em sẽ lần lượt thấy cái ưu, cái nhược của bạn, từ đó, sẽ rút ra những kinh nghiệm cho bản thân. Thực tế, bài chấm vòng 1 cho thấy, các em rất có trách nhiệm, chấm rất kĩ, nhận xét có khi hàng trang giấy và khá chính xác, có những lời phê rất quyết liệt, thẳng thắn, không e dè, kiêng nể, điểm số cho khá chắc tay. Khi giáo viên chấm lại vòng 2, có bài vênh không đáng kể, có bài không vênh. Bản thân học sinh cũng rất hứng thú khi được tập làm cô giáo. Tự chúng tôi thấy, cách làm này là rất có tác dụng, hiệu quả.
Trong quá trình chấm bài của học sinh, chũng tôi phát hiện phần chứng minh của các em thường không gắn với vấn đề nghị luận và cũng không làm sáng tỏ vấn đề. Trong những trường hợp như vậy, giào viên phải làm mẫu, viết mẫu để các em có thể nhận ra và khắc phục lỗi của mình. Hoặc giáo viên có thể đưa những bài văn viết tốt của các anh / chị khóa trên, những bài đạt giải nhất của những năm gần đây để các em tham khảo.
3.3. Bài viết tham khảo
Bài 1:
“Giá trị nghệ thuật là rất quan trọng. Bởi vì không có giá trị nghệ thuật thì không thể có tác phẩm nghệ thuật được. Nó là con số không”.
(Phạm Văn Đồng, "Về văn hoá văn nghệ" - NXB văn hoá 1976, tr 143)
Suy nghĩ của anh/ chị về ý kiến trên.
Bài làm
Trong một tác phẩm văn học, yếu tố nào là cơ sở tạo nên giá trị đích thực? Nội dung tư tưởng hay hình thức nghệ thuật? Đây thực sự là một câu hỏi khó. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng, trong cuốn "Về văn hoá văn nghệ" - NXB văn hoá 1976, tr 143 khẳng định "Giá trị nghệ thuật là rất quan trọng. Bởi vì không có giá trị nghệ thuật thì không thể có tác phẩm nghệ thuật. Nó là con số không". Liệu ta có thể coi đây là câu trả lời đúng đắn nhất cho câu hỏi ấy hay không?
"Tác phẩm nghệ thuật" là công trình nghệ thuật do người nghệ sĩ sáng tạo nên để phản ánh cuộc sống qua cách nhìn, suy nghĩ của bản thân mình. Nó luôn phải là một chỉnh thể thống nhất giữa nội dung thẩm mĩ và hình thức nghệ thuật. Còn "giá trị nghệ thuật" là những phẩm chất, chất lượng nghệ thuật kết tinh trong tác phẩm, khơi gợi những xúc cảm thẩm mĩ nơi người đọc. Nó thường biểu hiện ở cách lựa chọn chi tiết, từ ngữ, tổ chức kết cấu trong câu hay âm thanh trong thơ. Các cụm từ như "rất quan trọng", "không thể có", "là con số không" có tác dụng nhấn mạnh vai trò không thể thiếu của giá trị nghệ thuật: sự tồn tại của chất lượng, phẩm chất nghệ thuật quyết định sự tồn tại của mỗi tác phẩm văn chương.
Vậy thì vì sao Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng lại có thể khẳng định như vậy?
Trước tiên, nghệ thuật là phương thức tồn tại của tác phẩm. Nội dung luôn phải được kí thác ở một dạng thức cụ thể: một bài thơ hay một bài tuỳ bút, một truyện ngắn hay tiểu thuyết dài kỳ... Cũng như một linh hồn mãi mãi sẽ không thể là người nếu như không có hình hài, liệu có tác phẩm nào có thể hình thành mà không có phương thức tồn tại hay không? Chính dạng tồn tại sẽ định hình tiếng nói nghệ thuật của nhà văn trong tác phẩm, khiến nó không tan biến đi trong biển lời nói thông thường.
Thêm vào đó, mọi ý đồ tư tưởng, mọi tâm tư, tình cảm đều phải được nghệ thuật hoá thành hình tượng. Và để xây dựng thành công một hình tượng, nhà văn cần xác lập một hệ thống những chi tiết, hình ảnh, sắp xếp, dẫn dắt, liên kết chúng bởi các phương tiện, biện pháp đặc thù của thể loại và năng lực sáng tạo riêng của bản thân mình. Quá trình mô tả, phân tích những hình tượng ấy sẽ tạo nên giá trị nghệ thuật cho tác phẩm. Chẳng hạn, để kí thác những suy nghĩ của mình về xã hội thối nát thế kỷ XVIII, XIX, Nguyễn Du đã viết nên một tác phẩm truyện thơ 3254 câu, với một hệ thống hình tượng cụ thể như Thuý Kiều, Từ Hải, Tú bà, Sở Khanh, Hồ Tôn Hiến… Và qua quá trình xây dựng những hình tượng ấy, Nguyễn Du đã thể hiện khả năng miêu tả nhân vật bậc thầy của mình. Tác phẩm thơ đòi hỏi hạn chế về câu chữ, nên nhà thơ cũng chỉ khắc hoạ nhân vật bằng một vài nét phác thảo vô cùng sơ lược. Thế nhưng, ấn tượng về một Tú Bà "nhác trông nhờn nhợt màu da", một Từ Hải "chọc trời khuấy nước mặc dầu/Dọc ngang nào biết trên đầu có ai"… sẽ không bao giờ phai nhạt trong lòng độc giả.Nếu Nguyễn Du không xây dựng những hình tượng nghệ thuật ấy, "Truyện Kiều" vốn đã không thể hình thành. Nhưng ngoài ra, những hình tượng nghệ thuật trong "Truyện Kiều" còn có vai trò truyền đạt bức thông điệp mà nhà văn gửi gắm một cách sâu sắc hơn, tinh tế hơn. Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra bộ mặt xấu xa, thối nát của giai cấp thống trị, và một cách rất tự nhiên, ta sẽ đồng cảm, xót xa cho những kiếp người bạc mệnh như Vương Thuý Kiều.
Như vậy, nói một cách khái quát, nghệ thuật giúp nội dung tư tưởng được thể hiện rõ ràng hơn, cụ thể hơn và có khả năng tác động mạnh mẽ hơn tới người đọc. Đó là bởi nhờ nghệ thuật, những vấn đề phức tạp của cuộc sống, những tâm tư vốn rất sâu xa kín đáo của con người được khám phá, lí giải và trình bày trong một dạng thức sống động là thế giới hình tượng. Khi bước vào thế giới ấy, người đọc sẽ được tự mình trải nghiệm một cuộc sống, một tình huống chưa từng gặp hoặc đã gặp mà không có ý thức về nó. Chính sự trải nghiệm ấy giúp người đọc có thể tự mình cảm nhận, để rồi nhận xét, đánh giá, đúc rút những kinh nghiệm cho bản thân. Những rung động chân thành sẽ khơi dậy sự đồng cảm và những năng lực cảm xúc một cách tự nhiên, vô điều kiện.
Hơn thế nữa, bản thân nghệ thuật cũng là một giá trị tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm văn chương. Nghệ thuật không đơn thuần chỉ là thao tác, kĩ thuật mà còn là vấn đề của tài năng, của tư chất nghệ sĩ. Khi đạt đến độ tinh tế, nó sẽ đem lại tính thẩm mĩ cho tác phẩm, khiến tác phẩm đẹp hơn, hay hơn, hoàn thiện hơn. Truyện ngắn "Hai đứa trẻ" là một ví dụ điển hình. Cũng giống như hầu hết các tác phẩm khác của Thạch Lam, ở "Hai đứa trẻ" không có cốt truyện giàu kịch tính, những tình huống gay cấn và hồi hộp nhưng ta vẫn bị hấp dẫn bởi "tiếng trống thu không", tiếng còi tàu đêm nơi phố huyện - bởi nghệ thuật dẫn truyện, tả cảnh và miêu tả tâm trạng nhân vật rất tài tình, và bởi giọng văn nhẹ nhàng với chất thơ bàng bạc đặc trưng của Thạch Lam.
Đó là những lí do vì sao cố thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định "giá trị nghệ thuật là rất quan trọng" trong mỗi tác phẩm văn chương. Nhưng liệu có phải là quá vội vàng khi kết luận: Không có giá trị nghệ thuật, tác phẩm sẽ không tồn tại. "Nó chỉ là con số không"?
Nếu không có giá trị nghệ thuật, trước tiên, khái niệm "tác phẩm nghệ thuật" sẽ bị xoá bỏ. Bởi nghệ thuật là thuộc tính làm nên sự tồn tại của khái niệm này. Nhưng hơn thế nữa, không có giá trị nghệ thuật, tất cả các yếu tố khác cũng sẽ không có cơ sở hình thành, vì như đã nói ở trên, nghệ thuật là phương thức tồn tại duy nhất của tác phẩm. Và cuối cùng, thiếu đi giá trị nghệ thuật, ngay cả khái niệm "tác phẩm văn học" cũng không còn trọn vẹn. Tác phẩm sẽ không còn là một chỉnh thể đảm bảo sự thống nhất hữu cơ, biện chứng giữa hình thức nghệ thuật và nội dung tư tưởng. Thiếu đi giá trị nghệ thuật, tác phẩm sẽ chỉ là con số không.
Có thể nói, đây là một quan niệm đúng đắn vì nó xuất phát từ những hiểu biết sâu sắc về tầm quan trọng của nghệ thuật và đặc trưng bản chất của tác phẩm văn chương: Văn học là nghệ thuật ngôn từ, bởi thế nghệ thuật không thể thiếu trong bất kỳ tác phẩm nào.Tuy nhiên, cũng cần nói thêm rằng, Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ khẳng định tầm quan trọng của nghệ thuật chứ không tuyệt đối hoá vai trò của nó. Không có giá trị nghệ thuật sẽ không thể có tác phẩm không có nghĩa là giá trị nghệ thuật có thể tạo nên tác phẩm hoàn thiện. Cần tránh thái độ tuyệt đối hoá vai trò của nghệ thuật theo khuynh hướng "nghệ thuật vị nghệ thuật". Vì nghệ thuật chân chính phải phục tùng nội dung, chứa đựng và biểu hiện nội dung. Chỉ khi ấy, nghệ thuật mới thật sự có giá trị và đáng được trân trọng. Như vậy, nội dung và nghệ thuật phải có sự thống nhất hài hoà. Nội dung cần được biểu hiện bằng sức hấp dẫn của nghệ thuật, và ngược lại, nghệ thuật chỉ thật sự có giá trị khi nó biểu hiện nội dung có chất lượng cao.
ý kiến của Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng là bài học sâu sắc cho mọi người nghệ sĩ và cũng là một gợi mở cho tất cả chúng ta - những độc giả thưởng thức tác phẩm văn học: khi tiếp nhận văn chương, ta không chỉ cần cảm nhận bức thông điệp mà nhà văn gửi gắm mà còn nên chú ý khám phá những vẻ đẹp nghệ thuật trong tác phẩm. Chỉ có vậy, ta mới tiếp nhận trọn vẹn giá trị của tác phẩm văn chương.
Yếu tố nào tạo nên giá trị đích thực của tác phẩm văn học? Bạn đã trả lời được câu hỏi ấy chưa?! ./.
Bài 2
“Thế giới chẳng là gì, trật tự cũng không!
Nhà thơ thở than và lìa xa thế giới
Thế giới thật tuyệt vời, một nhà thơ khác nói
Và cũng lìa đời khi tuổi đang xuân
Người thứ ba chia tay với một thời dữ dội
Anh đã sống hết mình, cái chết chịu thua anh
Anh vĩ đại và tận cùng trung thực
Vạch cái xấu rồi vun cái tốt phân minh”
(Daghextan của tôi – Raxum Gamatop)
Bằng hiểu biết của mình về văn học. Anh/chị hãy bình luận vấn đề lí luận đặt ra từ bài thơ trên.
Bài làm
Bản chất của văn chương nghệ thuật là sự khám phá thế giới khách quan qua con mắt chủ quan của người nghệ sĩ. Cho nên, điều quan trọng là con mắt của nhà văn có thể khám phá, nhìn ra được điều gì trong cõi đời phức tạp. Vậy, cho tới tận cùng của cái đích nghệ thuật, văn chương muốn ánh mắt ấy thấu hiểu được giá trị nào trong thế giới kia ? Bằng việc đặt ra nhiều góc nhìn, đánh giá của nhiều nhà thơ, tác giả “Daghextan của tôi” (Raxum Gamatop) đã chỉ ra được câu trả lời cho văn chương cổ kim.
Bài thơ của Raxum Gamatop khép lại chỉ với tám câu thơ nhưng lại mở ra được ba quan điểm, tư tưởng nhìn nhận thế giới khác nhau của ba đối tượng nhà thơ trên văn đàn. Trước hết, đó là kiểu nhà thơ tiêu cực, nhìn thế giới một chiều, không hứng thú với bất kì vẻ đẹp nào.
“Thế giới chẳng là gì, trật tự cũng không” Ánh mắt của anh mang theo cái nhìn ích kỉ, tối tăm trong tâm hồn mà nhìn vào cả thế giới. “Thế giới chẳng là gì” đó là một sự phủ nhận đầy phiến diện về cuộc sống khách quan, người nghệ sĩ đã chẳng còn đủ nhiệt huyết, tâm và tài để nhìn ra ở đó vẻ đẹp thẩm mĩ bình dị hay tinh té, cao cả. Nhà thơ thứ hai trái lại với đó, anh nhìn vào thế giới chỉ toàn là màu hồng, lầu son:
“Thế giới thật tuyệt vời, một nhà thơ khác nói”
Người nghệ sĩ đã chẳng thể phân biệt được xấu, đẹp ở trên đời. Anh cho tất cả thế giới đều tuyệt vời, đẹp đẽ mà đắm chìm trong nó. Nhưng, dù khác nhau về cái nhìn, đánh giá thế giới, hai đối tượng nhà thơ trên đều nhận một kết quả cuối cùng “lìa xa thế giới”. Có thể hiểu, sự lìa xa cuộc đời ở đây là cái chết của tâm hồn nghệ sĩ, cái chết thiển cận, không nhận ra điều xấu để lánh xa, dần “lìa xa” mà anh nhận lấy đồng thời có thể là cái chết của bài thơ, của tác phẩm nghệ thuật. Một tác phẩm liệu có thể đi đến đâu khi không thỏa mãn được cho con người khao khát thẩm mĩ, thưởng thức cái đẹp hay không thể soi tỏ cho con người những góc khuất tăm tối, xấu xa của đời sống. Trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, việc lí tưởng hóa hay đánh giá một chiều đều là thứ thuốc độc mà người nghệ sĩ phải lánh xa. Một nhà thơ tiêu cực, chỉ nhìn ra cái xấu để sợ hãi, than thở mãi mãi chẳng thể dẫn người ta tìm đến con người đi tìm trong đời cái đẹp của tự nhiên, tình yêu và ngay cả vẻ đẹp trong chính bản thân họ. Bản chất của văn chương nói chung và thơ ca nói riêng là hành trình đi tìm giá trị thẩm mĩ mà với con mắt tiêu cực kia, anh chẳng thể dẫn người ta tìm đến đâu cả. Độc giả tìm đến thơ với mong muốn nhận được bài học trông-nhìn- thưởng thức, để tìm ra trong thế giới muôn màu kia những niềm vui, hi vọng, lạc quan sống. Cho nên, khi ngay cả người trong vai trò dẫn đường thấy “thế giới chẳng ra gì” anh đã tìm đến cái chết của nghệ thuật. Nếu như trước đây, nhà thơ Trần Đăng Khoa không thể thấy ở đời một vẻ đẹp bình dị, tinh tế:
“Ngoài thềm rơi chiếc lá đa
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng”
Hay Tố Hữu không tìm thấy tong cuộc sống một tình cảm chân thành, mặn nồng giữa người với người:
“Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”
Thì có lẽ, thơ ca đã chết ngay từ khia kịp nảy nở và tỏa hương. Nhưng, nói như vậy cũng không có nghĩa là nhà thơ chỉ chăm chăm kiếm tìm cái đẹp, lí tưởng hóa “thế giới tuyệt vời” mà bỏ quên con đường vạch ra cái xấu, cái ác. Chức năng của văn chương là phải giáo dục con người, hướng con người tới những giá trị chân – thiện – mĩ tốt đẹp, đồng thời chỉ ra cái xấu để con người loại bỏ, tránh xa. Thứ văn chương chỉ làm con người ta ảo tưởng, mợ mộng, sống trong thế giưới màu hồng hóa ra lại trở thành những điều giả dối, che mắt mà thôi. Con mắt của nhà thơ phải là con mắt trung thực với chính mình và cuộc đời, anh phải dùng ngòi bút của mình để cải tạo xã hội “diệt bạo, trừ gian”. Chỉ có như vậy, bài thơ mới trở thành những bài học sống, đưa con người ra khỏi chốn tối tăm, tàn bạo. Như vậy, cả việc coi “cuộc đời chẳng là gì” là lí tưởng hóa cuộc sống đều đem đến những cái chết tận diệt của thơ ca cổ kim. Vậy, thơ ca cần một cái nhìn như nào của người nghệ sĩ ?
Con mắt của nhà thơ phải là một cái nhìn toàn diện, trung thực, nhìn ra ở đời tất cả những biến thái, ngõ ngách tinh rõ nhất của nó:
“Anh đã sống hết mình, cái chết chịu thua anh
Anh vĩ đại và tận cùng trung thực
Vạch cái xấu, vun cái tốt phân minh”
Cuộc đời của con người vốn vô cùng phong phú, phức tạp, nó đan xen cả điều thiện và điều ác. Điều quan trọng không chỉ là anh nhận ra được đâu là tốt, đâu là xấu mà còn phải giúp cho độc giả thấu hiểu, cảm nhận vẻ đẹp, vun mầm nó và tránh xa, gạt bỏ điều xấu xa. Con mắt của nhà thơ luôn phải là con mắt tinh đời, người nghệ sĩ không chỉ nhìn bằng con mắt hời hợt, bề ngoài mà phải nhìn kĩ, nhìn sâu vào bên trong bản chất sự việc, con người. Hơn thế nữa, bằng trải nghiệm, sự dày dặn của mình nhà thơ còn biết khám phá cái tốt bên trong cái xấu, cái xấu ẩn bên trong cái tốt. Để có được cái nhìn đa diện, tinh tế, sâu sắc về cuộc đời, người nghệ sĩ trước hết phải gắn bó, sống hết mình với thế giới xung quanh. Việc cái nhìn của anh sẽ sâu sắc hay hời hợt phụ thuộc trực tiếp vào mối quan hệ của nhà thơ với cuộc đời. Người nghệ sĩ phải “lặn lội trong những chốn lầm tham, cầm bút dưới những gian khó” chứ không bao giờ là sự sáng tạo “ngôi trên lầu hồng” hay kiến tạo bởi trí tưởng tượng bé nhỏ. Trước khi truyền cho con người những tình cảm yêu thương, rung động thẩm mĩ hay lòng căm thù cái ác, anh phải yêu trước, hận trước. Nhà văn không thẻ giả dối với chính mình, người cầm bút phải nhìn nhận, đánh giá một cách trung thực, vĩ đại vì cái ta chung của tất cả mọi người. Có như vậy, tư tưởng, góc nhìn của anh mới chân thực phổ quát và mang giá trị nhân sinh, nhân đạo. Văn chương nói chung và thơ ca nói riêng bao giờ cũng phải có giá trị thẩm mĩ và giá trị nhân thức, giáo dục. Vì thế, việc khai thác, tìm ra cái đẹp và chỉ ra cái xấu phải cùng lúc song hành với nhau tạo nên giá trị tác phẩm. Có nghĩa rằng, trong quá trình làm thơ, anh vừa trung thực, chân thành nhưng cũng phải vừa giữ được cái “cong” của một phẩm thơ hay, kết hợp hiện thực và chất sáng tạo.
Ngay từ văn học trung đại, mặc dù chưa trình bày một cách khoa học theo cơ sở lí luận hiện đại nhưng trong tư tưởng và quan niệm sáng tạo của các nhà thơ tiến bộ đã nhận thấy và thể hiện điều nay. Nổi bật trong đó là các tác phẩm của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Bài thơ “Độc Tiểu thanh kí” vừa vang lên như một khúc ca tôn vinh vẻ đẹp con người, thiên nhiên, vừa là tiếng nói đanh thép, dội vào thế lực đen tối của xã hội phong kiến, đòi quyền sống cho con người. Trước hết, đó là sự ngợi ca vẻ đẹp tài sắc vẹn toàn của người con gái Trung Hoa – Tiểu Thanh:
“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư”
Bài thơ bắt nguồn từ cảm hứng về sự thay đổi, lụi tàn đối lập của cảnh xưa và cảnh này, người xưa với xay. Nhà thơ thể hiện sự đau đớn, thương tiếc một cảnh đẹp Tây Hồ nay đã hóa gò hoang. Động từ “tẫn” đã diễn tả, xoáy sâu một sự hủy hoại tới tận cùng, tận diệt. Nó gây trong lòng người bao tiếc nuối, vấn vương. Càng ngậm ngùi nhớ về quá khứ bao nhiêu, lời thơ lại càng trở nên trân trọng, cảm thông với vẻ đẹp bị lụi tàn, vùi dập bấy nhiêu. Hai từ “hoa uyển” không chỉ diễn tả một cảnh đẹp viên mãn, thơ mộng mà còn gợi ra một vẻ đẹp diễm lệ, yêu kiều của Tiểu Thanh – người con gái sống ở Cô Sơn, cạnh Tây Hồ. Chính hành động đầy chân thành, khao khát “độc điếu”, một mình tìm đến tri âm, chia sẻ với số phận của người phụ nữ sống cạnh đó ba trăm năm về trước đã khẳng định mong muốn được khám phá, cảm nhận vẻ đẹp đã xa của con người. Cho dù rằng, hiện tại nhà thơ đang đối diện với một “thành khư”, một mảnh di cảo mong manh, một thiên nhiên cô độc, hoang tàn nhưng ẩn sâu trong khát khao đầy nhân đạo của Nguyễn Du, ông đang tri âm, tìm lại vẻ đẹp xưa cũ. Đó chẳng phải là con mắt tinh tế nhìn ra được cái đẹp ngay cả trong cái xấu hay sao? Cảnh tàn nhưng ẩn chứa một con người, một cốt cách, một tâm hồn đẹp. Hình ảnh “chi phấn” và “văn chương” là nhưng cách nói ẩn dụ thể hiện sự trân trọng với nhan sắc và tài năng của người con gái tài hoa mà bạc mệnh. Nguyễn Du đã nhìn ra được trong mảnh di cảo còn vương xót kia một Tiểu Thanh xinh đẹp, sắc nước hương trời, một ngòi bút văn chương tài hoa và tinh tế. Cang thấy được vẻ đẹp, khám phá vẻ đẹp tài sắc của nàng bao nhiêu, Nguyễn Du lại càng trân trọng, thương cảm cho nàng bấy nhiêu. Chính ngòi bút của nhà thơ đã dẫn người đọc cùng yêu và cùng thương với “con mắt nhìn xuyên sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời” của mình. Nhưng có phải chăng trong lời ngợi ca tài sắc của Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã lí tưởng hóa thế giới theo cái cách “thế giới thật tuyệt vời, một nhà thơ khác nói” hay không? “Chi phấn” ấy nhưng lại là “chi phấn” phải “chôn còn hận”, “văn chương” tài sắc ấy nhưng là “văn chương” mà “đốt còn vương”. Rõ ràng con mắt của nhà thơ đã nhìn rất sâu vào cuộc đời và con người. Ông không chỉ ra bất kì một thế giới “chẳng là gì” hay thế giới “thật tuyệt vời”, chúng đan xen vào nhau, tạo nên cả một sự sống muôn màu, muôn vẻ, tốt xấu đan cài.
Nguyễn Du đã trực tiếp vạch ra trong số phận con người một nghịch lí “tài hoa bạc mệnh”, “tài mệnh tương đố”. Đó chính là ngòi bút trung thực, chân thành, vạch ra cái xấu phân minh:
“Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kì oan ngã tự cư
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”
Trong cái tối tăm, mịt mù của xã hội phong kiến bất công, người ta cứ mòn mỏi đi tìm lời giải cho số kiếp nghiệt ngã của những con người tài hoa. Hóa ra, tất cả nỗi oan khiên họ nhận được không phải đi từ một rủi ro, bất trắc hay lỗi lầm nào, họ bất hạnh, gian truân bởi một “nết phong nhã”. Vĩ “nết phong nhã” mà mắc oan khiên, đó là cái tàn bạo, bất công đến tận cùng của một xã hội, thời đại xấu xa, mục rũa. Nguyễn Du đã thẳng thắn, trung thực nhìn vào hiện trạng ấy của con người mà cất lên tiếng nói lên án, đòi lại công bằng, nhà thơ tự nguyện, chân thành, cho mình là kẻ đồng cảnh ngộ với kiếp tài hoa, bạc mệnh mà cảm thông, sẻ chia, tri âm. Bằng lòng của một người nghệ sĩ vĩ đại, sống hết mình đã tỏa sáng lời thơ đầy nhân văn, nhân đạo. Không chỉ vạch ra cái xấu, tiếng thơ, tiếng lòng Tố Như còn vươn lên đòi quyền sống, khát khao tri âm của con người giữa cõi đời đen bạc:
“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”
Đó là khát khao chân chính của một nhà thơ “sinh bất phùng thời”, “tài hoa bạc mệnh” như bao con người khác trong xã hội cũ. Đó không chỉ dừng lại là tiếng nói vạch trần, lên án cái xấu mà còn mang hơi hướng đem con người tới những ước mơ cao cả, đẹp đẽ hơn trong mịt mù, tối tăm cuộc đời.
Như vậy, bài thơ “Độc Tiểu Thanh kí” thực sự trở thành minh chứng tiêu biểu cho giá trị đích thực của thơ ca chân chính: nâng đỡ cái tốt, loại bỏ lên án cái xấu trong đời. Cái nhìn của Nguyễn Du là cái nhìn toàn diện, đa chiều, hướng tới cuộc đời muôn hình vạn trạng.
Chắt chiu hàng ngàn hạt bụi quý từ cuộc sống, đôi mắt nhà văn đã thu vào bao biến chuyển tinh vi của thế thái nhân tình. Và anh, những người nghệ sĩ chân chính, tận cùng trung thực sẽ trở thành người nâng giấc cho con người trên con đường hướng thiện và hướng thượng
(Nguyễn Ngọc Diệp – VK14)
Bài 3:
Có ý kiến cho rằng: “Văn chương phát hiện đời sống qua lăng kính thẩm mĩ và sáng tạo văn chương là nỗ lực tìm kiếm từ những phương thức thẩm mĩ để biểu đạt sự phát hiện ấy”
Bằng hiểu biết văn học anh/chị hãy bình luận ý kiến trên
Bài làm
Say mê trong thế giới nghệ thuật, đắm chìm trong những mảnh đời, mảnh tâm hồn đẹp đẽ,… mà không biết tự bao giờ văn chương đã hóa hồn ta thành máu và nước mắt muôn đời. Nghệ thuật cho ta thưởng thức những cái đẹp không chỉ là vẻ đẹp nội tại mà còn luôn ẩn hiện trong sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa nội dung và hình thức. Bởi vậy có ý kiến cho rằng: “Văn chương phát hiện đời sống qua lăng kinh thẩm mĩ và sáng tạo văn chương là nỗ lực tìm kiếm từ những phương thức thẩm mĩ để biểu đạt sự phát hiện ấy”
Nếu như các ngành khoa học coi tính thẩm mĩ như một yếu tố thứ hai, soi xét trên cơ sở có ích với đối tượng thì nghệ thuật đặc biệt là văn học – một loại hình nghệ thuật thuộc kiến trúc thượng tầng, coi thẩm mĩ như một mục tiêu cao cả nhất. “Văn chương phát hiện đời sống qua lăng kính thẩm mĩ” hay nói cách khác nhà văn nhìn cuộc sống qua cái nhìn mang tính thẩm mĩ và tác phẩm văn học là sản phẩm của quá trình nhà văn đi tìm kiếm, phát hiện cái đẹp trong đời sống. Phương diện nội dung của văn học nghệ thuật bởi vậy tất nhiên không thể tách khỏi tính thẩm mĩ nhưng nếu chỉ nhìn đời sống qua “lăng kính thẩm mĩ” thì có lẽ cái đẹp trong văn học nghệ thuật sẽ thiếu đi vài phần ý nghĩa và như một lẽ đương nhiên sẽ không thể dễ dàng lay động trái tim bạn đọc. Bởi vậy “sáng tạo văn chương còn là nỗ lực kiếm tìm những phương thức thẫm mĩ để biểu đạt sự phát hiện ấy” những tình cảm thẩm mĩ muốn bộc lộ, thẻ hiện được hết ý nghĩa củ a mình cần phải tìm đến một hình thức hoàn mĩ để truyền tải “biểu đạt sự phát hiện ấy”. Phương diện thẩm mĩ tồn tại trong cả nội dung và hình thức của một tác phẩm nghệ thuật chứ không phải sự tồn tại xuôi chiều, đơn nhất trong nội dung, hình thức. Như vậy, ý kiến đã đề cập đến giá trị thẩm mĩ của văn học. Đồng thời chỉ ra mối quan hệ giữa nội dung và hình thức trong việc biểu đạt tính thẩm mĩ ấy.
Ý kiến trên thật sâu sắc, xác đáng, là một lời khái quát lại quá trình phản ánh cuộc sống của nhà văn, đồng thời chỉ ra cách mà người nghệ sĩ truyền tải nội dung ấy trong tác phẩm. Chính bởi ý nghĩa khái quát như vậy mà lời nhận định trên có ý nghĩa định hướng cho mỗi nhà văn trong quá trình sáng tác và lao động nghệ thuật.
Trước hết, xuất phát từ đặc trưng văn học, là một hình thái ý thức xã hội thẩm mĩ. Bởi vậy, mọi đối tượng phản ánh của văn học đều được soi chiều dưới góc độ thẩm mĩ. “Văn chương phát hiện đời sống qua lăng kính thẩm mĩ” nhưng điều này không đồng nghĩa với nghệ thuật được phép tô hồng hiện thực cuộc sống. Mà “lăng kính thẩm mĩ” chỉ là điểm nhìn của người nghệ sĩ trước cuộc đời. Nói cách khác sự phản ánh trong nghệ thuật luôn trung thành với những gì vốn có nhưng người nghệ sĩ trong quá trình lao động sáng tạo phải tìm ra những vẻ đẹp khuất lấp, những cái đẹp đang hiện hữu trong cuộc sống này. Bằng một tâm hồn nhạy cảm, nhà văn đã nhận thấy ở cuộc sống biết bao nhiêu vẻ đẹp. Nghệ thuật hướng người ta tới những điều chân thiện mĩ nên sự phản ánh cái đẹp như một điều tất yếu của văn chương. Nhà văn, nhà thơ như con ong chăm chỉ, kiếm tìm trong cuộc sống những bông hoa đẹp nhất, hút từ nhụy hoa thứ mật ngọt tinh chất từ đó, hình thành lên một cái đẹp mang tính lí tưởng. Nghệ thuật thỏa mãn tối đa nhu càu thưởng thức cái đẹp của con người. Do đó, văn học biết khơi dậy thị hiếu thẩm mĩ, những tình cảm lớn, niềm vui lớn. Đến với văn học, ta như được tiếp xúc với cái đẹp từ bản thân đời sống. Thiên nhiên chính là biểu hiện rõ nhất cho sự phản ánh áy trong văn chương. Bản thân thiên nhiên đã là cái đẹp với sức sống nội tại mãnh liệt nhất, cũng là mảnh đất màu mỡ cho nhà văn khai thác. Trong thơ cổ, thiên nhiên mang kích thước vũ trụ và thường được miêu tả như một bức tranh tĩnh lặng. Cảnh vật thiên nhiên được khắc họa bằng đôi nét chấm phá, cốt ghi lấy cái linh hồn của vật. Cũng là gió ấy, trời nước ấy nhưng thiên nhiên hiện lên trong mỗi tác phẩm một khác lạ. Ai chẳng yêu vần thơ này của Nguyễn Trãi:
“Nước biếc non xanh, thuyền gối bãi
Đêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu”
Là bến nước hay là bến thơ? Dường như không có chút bụi trần nào làm vẩn đục khung cảnh ấy. Cảnh vật hiện lên như một bức tranh sơn thủy hữu tình. Bằng lăng kính thẩm mĩ của mình, NT đã đem đến cho ta một cảnh đẹp tuyệt sắc. Với “nước biếc, non xanh” phép phối sắc thật tài tình, một vẻ đẹp thanh nhã hiện lên trước mắt chúng ta. Con thuyền xuất hiện trong khung cảnh ấy với cử chỉ “gối bãi” thật lặng lẽ. Cảnh tĩnh lặng như không một chút dao động nào cả. Cả một bầu không khí thanh sạch, mơ mộng được mở ra. Nhà thơt tả cảnh đêm mà sao ta vẫn thấy trong thơ lung linh ánh sáng – thứ ánh sáng tuyệt diệu tỏa ra từ sắc “nguyệt bạc” Chủ thể trữ tình không đối diện với người đọc bằng cái tôi cá thể mà nói về mình như nói về một khách văn chương. Thi nhân thả hồn vào thiên nhiên, say đắm thiên nhiên, ung dung, lặng lẽ như đứng ngoài dòng chảy thời gian. Ức Trai giao hòa với thiên nhiên với cảnh vật, đó là cách phát hiện của Nguyễn Trãi về cuộc sống. Một cái nhìn mang đầy tính thẩm mĩ.
Nhưng cái đẹp trong nghệ thuật không chỉ tồn tại như một khách thể tự nó, cái đẹp là thẩm mĩ trong nghệ thuật nhiều khi không xa rời cái xấu, cái vẻ ngoài không ưa nhìn. Tài năng của nhà văn được thể hiện một cách trọn vẹn và đầy đủ nhất khi nhìn thấy trong cuộc sống nhưng vẻ đẹp khuất lấp, ẩn ngay trong cái xấu hay ở những chỗ khó nhìn ra nhất. Bằng lăng kính thẩm mĩ, nhà văn không chỉ hướng tới cái đẹp ở tính vĩ mô mà còn ở sự vi mô, trong những điều tưởng như bình dị và đời thường nhất. Bằng tính thẩm mĩ nghệ thuật mài sắc các giác quan của ta, giúp ta nhận ra những vẻ đẹp của cuộc sống, của con người. Ngay từ mở đầu truyện “Hai đứa trẻ”, Thạch Lam đã đem lại cho ta nhưng ẩn tượng đầy tinh tế và nhẹ nhàng khi nói về cảnh sắc thiên nhiên nơi phố huyện. “Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ từng tiếng vang lên gợi buổi chiều. Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”. Có cái gì thật tĩnh lặng, hiu hắt. Thạch Lam đã lựa chọn thời khắc ngày tàn để tô đậm thêm vẻ nghèo nàn, tăm tối nơi phố huyện. Nó khơi lên trong lòng ta những nỗi buồn man mác, khó diễn tả.
Màu đỏ rực của mặt trời như nhuộm cả không gian, trên bầu trời ấy điểm “những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn” nét đẹp thơ mộng nhưng có gì thật ảm đạm. Đêm đã về, ngày đã tàn, mọi thứ nơi phố huyện càng trở nên hiu hắt hơn bao giờ hết. “Chiều, chiều rồi. Một buổi chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng, theo gió nhẹ đưa vào”. Cái buồn của hồn quê như thấm vào cảnh vật khiến cho nó cũng mang một điệu buồn man mác. Vẫn bút pháp lấy động tả tĩnh quen thuộc của văn học trung đại tả tiếng ếch, nhái, tiếng muỗi không những không khiến cảnh vật mang nét tươi vui hơn mà càng tô đậm nét yên tĩnh, buồn tẻ nơi phố huyện. Văn chương phát hiện đời sông qua lăng kính thẩm mĩ bằng cách đó, ngay cái đẹp nghèo nàn nhất, u ám nhất cũng được người nghệ sĩ phát hiện ở những cái đẹp mang tính hài hòa. Bởi vậy, nó đã đi vào lòng bạn đọc như một điệu vỗ tâm hồn con người ta êm ái. dịu nhẹ mà lắng sâu.
Thế nhưng nếu chỉ dừng lại ở việc phản ánh đời sống một cách thẩm mĩ không thôi thì chưa thể nói được toàn diện về tính thẩm mĩ trong văn học nghệ thuật. Sự phản ánh thẩm mĩ luôn được tiến hành trong quá trình kiếm tìm những hình thức hoàn mĩ và thế giới nghệ thuật của nhà văn chỉ khi tìm được ngôn ngữ nghệ thuật và một hình thức đẹp thì mới được biểu hiện ra. Tách rời sự hài hòa, cân đối, tính nhạc điệu,… thì không thể hình thành hình tượng nghệ thuật. Ngay như trong tác phẩm “Hai đứa trẻ” sự phản ánh thẩm mĩ cũng không tách rời một hình thức thẩm mĩ “Sáng tạo văn chương là nỗ lực kiếm tìm nhưng phương thức thẩm mĩ để biểu đạt sự phát hiện ấy”. Thạch Lam đã dụng công khi viết những câu văn giàu tính nhạc như “Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”. Đọc câu văn ta thấy nhẹ nhàng, êm dịu như một bản nhạc. Nhà văn đã lựa chọn cách tổ chức câu văn, lựa chọn ngôn từ sao cho phù hợp nhất với tính thẩm mĩ trong nội dung để biểu hiện và từ đó tính thẩm mĩ trong nghệ thuật được hình thành. Khi bạn đọc tiếp xúc với tác phẩm văn học thì yếu tố đầu tiên mà bạn đọc tiếp xúc chưa phải nội dung mà là hình thức. Bởi vậy, hình thức có đẹp thì nội dung mới được truyền tải một cách đầy đủ và trọn vẹn. Hơn thế nữa, văn chương biểu hiện tính thẩm mĩ qua hình tượng nghệ thuật mà hình tượng nghệ thuật vốn lấy ngôn từ làm chất liệu. Để thể hiện được nét cụ thể, cảm tính của hình tượng, người nghệ sĩ không thể không sáng tạo ra một hình thức phù hợp để truyền tải. Nếu coi nội dung như một dạng chất lỏng thì hình thức chính là thứ định hình dạng khối của nó. Hình thức càng đẹp càng dễ tiếp cận người đọc và càng dễ biểu hiện nội dung một cách tinh tế. Ở phương diện này, thơ Hai-cư chính là một minh chứng rõ nét nhất. Lựa chọn lối viết giản dị là sự lựa chọn thông minh để biểu hiện những cái đẹp giản dị, đời thường của cuộc sống. Lời thơ của Ba-sô cứ vương vấn ta mãi:
“Dưới cây lao xao
Chén canh, đĩa cá
Đều vương anh đào”
Bài thơ mở ra một bức tranh thiên nhiên với vẻ đẹp thanh nhã nhưng lại ám ảnh hồn ta đến vô cùng. Sở dĩ hình tượng thiên nhiên trong bài thơ có sức ám gợi chúng ta đến thế là bởi tài năng của người nghệ sĩ đã sáng tạo ra một hình thức phù hợp mà Ba-sô muốn truyền tải. Những câu thơ ngắn, những từ gợi cho ta nhiều liên tưởng. Vừa có tiếng lao xao, vừa gọi âm thanh trong cái lao xao ấy là ẩn chứa cái lao xao trong hồn người, có cả những thổn thức, băn khoăn. Thi sĩ đã mô tả một bức tranh đơn sơ, mộc mạc và thanh bần, một bữa cơm đảm bạc nhưng chính những cánh hoa anh đào vương vào đã tạo nên một bữa tiệc hoa. Bài thơ này của Ba-sô đã lựa chọn loại hình cảm thức Karumi để biểu hiện. Một cảm thức thanh thoát, nhẹ nhàng với phong thái ung dung, tự tại của nhân vật trữ tình. Dắt ta đi qua vườn chữ nghĩa nhỏ hẹp, bài thơ đã đưa ta vào nhưng giây phút thần tiên, thăng hoa của cuộc đời. Ba-sô đã nhắc hộ mọi người phải có những phút giây để tâm hồn lắng động, siêu thoát thì mới cảm thức được cái đẹp của thiên nhiên.
Như Leonop Leonit đã từng viết: “Mỗi tác phẩm là một phát minh về hình thức, một khám phá về nội dung”. Tuy cùng yêu cầu tính thẩm mĩ nhưng không thể tách hình thức ra khỏi nội dung, cũng không thể tách nội dung ra khỏi hình thức. Bởi lẽ trong nội dung đã chưa đựng một hình thức mà chỉ hình thức ấy mới đảm bảo tính thẩm mĩ của nội dung. Và ngược lại, môt hình thức cũng chứa đựng nội dung nhất định. Một thể thơ như thể lục bát chỉ có thể phát huy hết tác dụng của nó khi biểu đạt những nội dung như lời ru, điệu than. Thơ lục bát phù hợp nhất khi con người ta diễn đạt những nội dung tình cảm thiết tha, đằm sâu. Bởi vậy, nó rất khó diễn đạt những nội dung nghiêng về chất hùng biện, suy tưởng. Mô hình thơ lục bát tự nó đã chứa đựng một thế giới quan không thể thay thế. Hình tượng văn học là chất liệu phản ánh nội dung, nhưng hình tượng ấy không chỉ mang đến cho người đọc khoái cảm trước vẻ đẹp đời sống mà còn khơi dậy những khoái cảm ở vẻ đẹp chất liệu, các phương thức, phương tiện nghệ thuật. Mỗi nhà văn chân chính bao giờ cũng mang đến cho văn học một tiếng nói mới, trong cái nhìn mới trước vẻ đẹp đời sống. Cho nên, văn học giúp ta làm giàu kho kinh nghiệm thẩm mĩ, nó mài sắc giác quan của ta giúp ta nhận ra những cái đẹp tồn tại trong thế giới. Cứ như vậy, cái đẹp trong nội dung và cái đẹp trong hình thức khi kết hợp nhuần nhuyễn, hài hòa sẽ tạo nên giá trị cho tác phẩm văn học và tính thẩm mĩ trong tác phẩm văn học mới được bộc lộ, thể hiện một cách đầy đủ nhất.
Nhưng cũng phải nói thêm, phương diện thẩm mĩ mà nhà văn nhìn qua lăng kính chủ quan không thể chỉ là đời sống hay thiên nhiên đơn thuần. Mà đó còn là sự phát hiện những vẻ đẹp ẩn dấu tiềm tàng bên trong tâm hồn con người. Ấy mới là cái đẹp dồi dào và phong phú nhất. Vì xét đến cùng, điểm xuất phát hay đích đến của văn học đều vì con người, hướng tới con người. Trong mọi tác phẩm văn học, con người luôn là trung tâm kết tinh những mối quan hệ, những giá trị. Bởi vậy là dù viết về thiên nhiên thì tác phẩm vẫn không bao giờ vắng bóng chủ thể trữ tình. Thấp thoáng trong đêm trăng của Nguyễn Trãi vẫn là hình ảnh “khách lên lầu”, cảnh chiều tàn của phố huyện được nhìn qua đôi mắt Liên và sau bữa tiệc hoa kia là dáng hình con người – chủ thể trữ tình với phong thái ung dung, tự tại đang thưởng thức bữa tiệc hoa. Thiên nhiên không hề vắng bóng trong nghệ thuật của bất kì thời đại nào. Nhưng thiên nhiên tái hiện trong nghệ thuật không phải những khách thẻ tự nó mà đặt trong mối quan hệ với con người. Thiên nhiên khúc xạ tâm hồn, tình cảm con người. Khi miêu tả thiên nhiên, người nghệ sĩ không tái hiện vẻ đẹp tạo hóa mà còn bộc lộ, hiện diện mình qua thiên nhiên, đời sống.
Đến đây, có thể thể khẳng định một cách chắc chắn rằng ý kiến trên là một lời nhận định đúng đắn, sâu sắc. Bằng tính khái quát của nó đã định hướng cho người nghệ sĩ trong lao động nghệ thuật phải luôn tìm và phát hiện những vẻ đẹp và truyền tải nó bằng một hình thức đậm tính thẩm mĩ. Phải sáng tác với cả tâm và tài. Bạn đọc phải căng lọc mình ra trên trang giấy, thưởng thức, thấu hiểu thông điệp của nhà văn.
Mặt trời lặn rồi lại mọc, mặt trăng khuyết rồi lại tròn. Nhưng ánh sáng tỏa ra từ tác phẩm nghệ thuật vẫn mãi bất tử với thời gian bởi tính thẩm mĩ của nó. Phải chăng?
(Vũ Thùy Dương – VK14)
4. Kết quả thực nghiệm
Trong giờ học, học sinh chăm chú nghe giảng. Học sinh hăng hái trình bày quan điểm.
Điều quan trọng là học sinh nắm vững kỹ năng vận dụng vào từng dạng bài rất hiệu quả. Học sinh chủ động vận dụng kiến thức để làm bài, không phụ thuộc vào văn mẫu. Hướng dẫn kĩ năng như vậy, học sinh rất linh hoạt, sáng tạo trong tạo lập văn bản.
Sau mỗi giờ học, giáo viên phát phiếu điều tra để đánh giá kết quả học tập
Hiểu bài sâu, có thể vận dụng kiến thức đã học
Hiểu sơ lược, chưa vận dụng được
Không hiểu bài
Rất hứng thú trong giờ học, tích cực suy nghĩ, phát biểu
Có hứng thú
Không có hứng thú
92%
8%
0%
75%
25%
0%
Kết quả công tác bồi dưỡng học sinh giỏi cấp tỉnh và Quốc gia sau một khóa học như sau :
1. Cấp Quốc gia
Tổng số giải : 08 giải
- Giải Nhất : 01 giải
- Giải Nhì : 03 giải
- Giải Ba :02 giải
- Giải khuyến khích : 02 giải
2. Cấp tỉnh
Tổng số giải : 14 giải
- Giải Nhất : 02 giải
- Giải Nhì : 07 giải
- Giải Ba : 04 giải
- Khuyến khích : 01 giải
4. PHẦN KẾT
Dạy Lí luận văn học đã khó. Hướng dẫn học sinh kỹ năng làm bài Lí luận văn học hay càng khó. Nó đòi hỏi người giáo viên không chỉ có kiến thức, kinh nghiệm, mà cần có phương pháp gợi mở, dẫn dắt để lôi cuốn, thu hút học sinh tìm ra ý nghĩa thực tế của vấn đề. Làm được điều này cả học sinh và giáo viên đều được nâng cao trí tuệ và bồi đắp tâm hồn, điều chỉnh lối sống, cách nghĩ để sống đúng hơn, tốt hơn, Người hơn.
Trên đây là một số kĩ năng cũng như hướng dẫn của chúng tôi đưa ra với mục đích đầu tiên là giúp các em học sinh hiểu rõ nắm chắc hơn nhưng kiến thức, kĩ năng cơ bản, thoát khỏi tình trạng làm bài một cách cảm tính, trực giác. Trong phạm vi đề tài chúng tôi đã cố gắng đưa ra nhữn kĩ năng cơ bản nhất, dễ hình dung nhất, đi kèm với đó có cả ví dụ minh họa và một số lưu ý. Từ đó, chúng tôi mong muốn các em học sinh, đặc biệt là học sinh giỏi được bồi dưỡng và nâng cao các kĩ năng từ đó áp dụng một cách linh hoạt vào các đề bài LLVH cụ thể.
Hơn nữa, bên cạnh sự nỗ lực, cố gắng kinh nghiệm trên của tôi chắc chắn còn sự thiếu sót về mặt kiến thức, kỹ năng cũng như kinh nghiệm. Bởi vậy, tôi rất mong muốn nhận được sự sẻ chia và đóng góp ý kiến từ đồng nghiệp để hoàn thiện hơn về mảng đề tài trên, để công việc giảng dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi ngày một đạt kết quả tốt hơn.!.
Lão Tử có câu rằng: “Cuộc hành trình ngàn dặm nào cũng phải bắt đầu bằng những bước đi nhỏ bé đầu tiên”. Liệu rằng chúng ta có thể thành công, khi bước đầu tiên đã không trụ vững? Để làm nên thành công cho bài văn Lí luận Văn học vấn đề cốt yếu chính nằm ở những kĩ năng cơ bản nêu trên.
5. Kiến nghị
- Bộ GD&ĐT : Không
- Sở GD&ĐT : Không
- Trường THPT Chuyên : Không
6. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Từ điển từ và ngữ Hán Việt.
2. Từ điển Tiếng Việt.
3. Rèn kĩ năng làm văn nghị luận, Bảo Quyến, NXB Giáo Dục, Hà Nội, 2007.
4. Trần Đình Sử : Thi pháp văn học trung đại.NXB. Giáo dục 1999
5. Nguyễn Đăng Mạnh, « Nói ngắn về truyện rất ngắn », Thế giới mới số 69/1993
6. Nhiều tác giả ( 2009), Lí luận văn học tập 1 : Văn học – nhà văn và bạn đọc, NXB Đại học Sư phạm
7. Nhiều tác giả ( 2009), Lí luận văn học tập : Tác phẩm và thể loại văn học,
NXB Đại học Sư phạm
8. Nhiều tác giả ( 2009), Lí luận văn học tập : Tiến trình văn học, NXB Đại học Sư phạm
9.Trần Đình Sử,( 2008) Lý luận và phê bình văn học, NXB Giáo dục
10. Nguyễn Đăng Manh ( 2020), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, NXB Giáo dục.
KỸ NĂNG BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI VỚI KIỂU BÀI LÍ LUẬN VĂN HỌC
MÔN NGỮ VĂN
TÊN TÁC GIẢ: Nguyễn Thị Hạnh
Đơn vị công tác: Tổ Ngữ văn - Trường THPT Chuyên Lào Cai
MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn sáng kiến kinh nghiệm……………………………………………1
2. Mục đích sáng kiến …………………………………………………………..2
TỔNG QUAN SÁNG KIẾN
1. Thông tin khái quát về những vấn đề nghiên cứu…………………………….2
2. Phạm vi đối tượng của sáng kiến kinh nghiệm……………………………….2
3. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………………...3
4. Cấu trúc của sáng kiến kinh nghiệm………………………………………….3
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. Khái niệm……………………………………………………………………..3
2. Nội dung, tính chất của lí luận văn học……………………………………….3
2.1. Lí luận văn học là một bộ phận của nghiên cứu văn học…………………...3
2.2. Nội dung của lí luận văn học………………………………………………..4
2.3. Tính chất của lí luận văn học………………………………………………..5
3. Lí luận văn học ở trường THPT………………………………………………6
Chương 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Trang bị những kiến thức về một số vấn đề lí luận văn học…………………..7
1.1. Dạy lí luận VH theo chuyên đề……………………………………………7
1.2. Ôn tập hệ thống hóa kiến thức lí luận VH………………………………......8
2. Kĩ năng làm kiểu bài lí luận văn học…………………………………………8
2.1. Xác định yêu cầu cần có…………………………………………………….8
2.2. Phương pháp làm bài………………………………………………………10
2.2.1. Phân tích đề……………………………………………………………...10
2.2.2. Giải quyết vấn đề…………………………………………………….11
2.3. Giới thiệu một số đề tham khảo………………………………………….17
Chương 3: VIẾT, CHẤM CHỮA BÀI VÀ GIỚI THIỆU BÀI VIẾT THAM KHẢO
3.1. Luyện viết bài……………………………………………………………..25
3.2. Chấm, chữa bài viết………………………………………………………..27
3.3. Bài viết tham khảo…………………………………………………………28
KẾT LUẬN……………………………………………………………………47
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………….49
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. 1. Lí do chọn sáng kiến kinh nghiệm
Bồi dưỡng học sinh giỏi văn là một công việc khó, bồi dưỡng học sinh giỏi với kiểu bài Lí luận Văn học lại càng khó khăn và gian nan hơn gấp bội phần. Như Nguyễn Du đã từng nói: “ đã mang lấy nghiệp vào thân”. Chúng tôi và các đồng chí đều có chung một nghề gian nan, một nghiệp đầy thử thách. Dạy môn Ngữ văn ở trường chuyên, cũng có nghĩa là thêm một trọng trách nữa là bồi dưỡng học sinh giỏi và kiểu bài Lí luận văn học không thể thiếu trong bồi dưỡng đội tuyển. Và như vậy, chúng ta không thể từ chối, không thể không trăn trở đi tìm con đường và những phương pháp, kỹ năng để dạy và bồi dưỡng với mong muốn đạt kết quả cao nhất.
Lý luận văn học là một bộ môn chính trong khoa nghiên cứu văn học. Nắm chắc kiến thức Lí luận văn học chính là chìa khóa để chúng ta đi khám phá vẻ đẹp của văn chương nghệ thuật. Với học sinh năng khiếu thì không thể không biết đến Lí luận Văn học. Vì đây là môn cơ sở giúp các em phát triển năng khiếu học văn của mình.
Lý luận văn học đối với học sinh phổ thông là những kiến thức mới mẻ và rất khó, song vận dụng những kiến thức ấy để làm một bài văn còn khó khăn, nan giải hơn nhiều. Nhưng công việc của người giáo viên dạy học sinh giỏi theo chúng tôi là phải biết cách hướng dẫn học sinh có kỹ năng làm bài thuộc dạng này.
1.2. Mục đích sáng kiến
“Mục tiêu của các lớp chuyên Văn là trên cơ sở học vấn phổ thông, bồi dưỡng sâu thêm những năng lực về Ngữ văn, tạo cho học sinh có được những điều kiện thuận lợi để học lên và làm việc một cách sáng tạo, có hiệu quả trong các lĩnh vực Khoa học xã hội và nhân văn” (Báo cáo trong Hội nghị tập huấn giáo viên dạy giỏi môn Văn THPT-HN 09/2002).
Từ việc xác định rõ mục tiêu của các lớp chuyên Văn, chúng tôi đã xây dựng cho mình một hệ thống, quy mô đào tạo học sinh giỏi, nhất là kiểu bài Lí luận văn học nhằm mục đích nâng cao thành tích trong các kì thi học sinh giỏi Văn.
Riêng với học sinh giỏi đội tuyển Quốc gia, giáo viên chúng tôi lại chuẩn bị một chương trình tập huấn đặc biệt chặt chẽ. Chúng tôi chia lượng kiến thức thành nhiều phân môn nhỏ: phần lí luận văn học; phần văn học sử; phần văn bản, tác phẩm cụ thể; phần rèn luyện ngôn ngữ và kĩ năng làm văn… Nhưng trong đó, chúng tôi đặc biệt chú ý rèn luyện kỹ năng viết văn nghị luận với kiểu bài Lí luận văn học. Vì đây là kiểu bài thường xuất hiện trong các kỳ thi học sinh giỏi.
2. TỔNG QUAN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Những vấn đề cần nghiên cứu
Kiến thức lí thuyết về Lí luận VH
Kỹ năng làm kiểu bài Lí luận VH
Viết văn và sửa lỗi
2.2. Phạm vi và đối tượng của sáng kiến kinh nghiệm
Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề này là học sinh chuyên văn THPT.
Học sinh năng khiếu các trường THPT trên toàn tỉnh.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu được sử dụng là thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm GD
Phương pháp thực nghiệm cũng được áp dụng để xây dựng chuyên đề. Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu áp dụng thử nghiệm và kiểm tra kết quả ở lớp 10,11,12 chuyên văn của nhà trường để đi đến kết luận và để ra những giải pháp được đề cập trong chuyên đề.
2.4. Kết cấu của sáng kiến: Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, chuyên đề được chia làm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận
Chương 2: Cơ sở thực tiễn – Kĩ năng bồi dưỡng học sinh giỏi với kiểu bài Lí luận Văn học
Chương 3: Viết bài, chấm chữa bài và một số bài văn tham khảo
3. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Khái niệm
Lí luận văn học là bộ môn có nhiệm vụ nghiên cứu những quy luật chung nhất của văn chương. Nó có nhiệm vụ thông qua các nghiên cứu hàng loạt tác phẩm Đông – Tây- Kim – Cổ, tìm ra các quy luật chung nhất, cái bản chất chung của văn chương – cái mà bất kì tác phẩm nào được gọi là văn chương đều có sự tôn tại của nó.
1.2. Nội dung, tính chất của lí luận văn học
1.2.1. Lí luận văn học là một bộ phận của nghiên cứu văn học
Lí luận khoa học về văn học lấy các hiện tượng văn học như tác phẩm, thể loại, nhà văn, quá trình sáng tác, sự tiếp nhận, quá trình pát triển của văn học,…làm đối tượng nghiên cứu. Mục đích của lí luận văn học là rút ra các khái niệm, các quy luật có tính phổ biến về văn học nhằm trả lời câu hỏi văn học là gì, tác phẩm có cấu tạo như thế nào, thế nào là tác phẩm hay,… từ đó giúp Người đọc thưởng thức, nghiên cứu văn học là một cách tự giác. Lí luận văn học nghiên cứu văn học như một hoạt động sáng tạo tinh thần thẩm mỹ của con người, bao gồm các mặt hoạt động của các yếu tố, quan hệ tạo thành hoạt động đó. Nó nghiên cứu các hiện tượng văn học cụ thể để rút ra các khái niệm phổ biến về bản chất, tính chất, quy luật của văn học. Chính vì vậy, nội dung của lí luận văn học là khái niệm, phạm trù văn học.
1.2.2. Nội dung của lí luận văn học
Lí luận văn học là lí luận khoa học về văn học, lấy văn học làm đối tượng nghiên cứu. Lí luận văn học có nhiệm vụ khái quát về bản chất, đặc trưng, cấu tạo, quy luật tồn tại và phát triển của văn học, giúp con người hiêu được mọi hiện tượng văn học từ tác phẩm, tác giả, thể loại, trào lưu, phong cách,… Lí luận văn học có nhiệm vụ cung cấp một hệ thống các khái niệm, phạm trù khoa học chặt chẽ với tư cách là những công cụ để người đọc và các nhà phê bình, các nhà văn học sử có thể vận dụng và nghiên cứu văn học một cách hữu hiệu.
Đối tượng của lí luận văn học không phải là một vài tác phẩm, tác giả cụ thể, mà là toàn bộ văn học như một lĩnh vực nghệ thuật, một hình thái ý thức xã hội. Đó là một đối tượng rộng, vừa thống nhất, vừa đa dạng, lại luôn đổi thay trong lịch sử, do đó lí luận văn học không dễ trả lời câu hỏi “ Văn học là gì?” nếu không xem xét một cách toàn diện.
Lí luận văn học tất nhiên không thể không phân tích một số tác phẩm, tác giả cụ thể, nhưng nó nghiên cứu các hiện tượng đó như là những ví dụ. Nói cách khác, nghiên cứu tác phẩm, tác giả cụ thể, lí luận văn học không nghiên cứu như nhà phê bình văn học và lịch sử văn học nhằm đánh giá ý nghĩa, vị trí từng tác phẩm, tác giả đó, mà là nhằm xem xét một trào lưu văn học, cuộc vận động của văn học. Lí luận văn học vận dụng phương pháp luận triết học, từ tầm cao lí luận mà trình bày và phân tích tính chất, đặc điểm, quy luật của văn học, xây dựng nên các khái niệm, phạm trù. Phạm vi của lí luận văn học ngày nay bao gồm các bộ phận sau: Một là bản chất, đặc trưng của văn học, hai là cấu tạo của tác phẩm và thể loại, ba là quá trình sáng tác, bốn là tiến trình phát triển văn học, năm là sự tiếp nhận của văn học. Năm bộ phận này bao quát hết các mặt quy luật của văn học. Một bộ lí luận văn học đầy đủ phải bao gồm ngần ấy bộ phận. Mỗi bộ phận có những quy luật, phạm trù riêng. Nhưng các bộ phận đều liên hệ mật thiết với nhau trong quá trình lịch sử. Theo nhà lí luận Mỹ là M.H.Abrams thì có bốn yếu tố tạo thành đời sống văn học. Đó là tác phẩm, nhà văn, thế giới, người đọc được sắp xếp theo mô hình dưới đây:
Thế giới
Tác phẩm
Nhà văn
Người đọc
Từ bốn yếu tố cơ bản đó có thể sắp xếp thành mô hình vòng tròn phản ánh các mối liên hệ qua lại của chúng:
Thế giới
Tác phẩm
Nhà văn
Người đọc
1.2.3. Tính chất của lí luận văn học
Lý luận văn học là một bộ môn khoa học, là thành quả đúc kết, khái quát kinh nghiệm của văn học nhân loại. Văn học càng phát triển phong phú thì khái niệm về lí luận văn học càng sâu sắc. Lí luận văn học là sản phẩm của lịch sử, nó không ngừng phong phú thêm, và đổi thay cho sâu sắc hơn. Là sự khái quát, đúc kết kinh nghiệm về văn học, lí luận văn học chịu sự chi phối của trình độ phát triển của văn học và trình độ nhận thức của con người. Chẳng hạn Aristote khi bàn đến bản chất của văn học chủ yếu chỉ nói đến bản chất “ bắt chước” của nó, còn bàn đến thể loại thì hầu như chưa nói gì đến thể loại trữ tình. Ở phương Đông, lí luận Nho giáo nói đến văn học chủ yếu đề cập đến chức năng giáo hóa và không đánh giá cao các tác phẩm hư cấu… do đó lí luận văn học hôm nay là sự tổng kết thành quả của một quá trình nhận thức lâu dài về văn học của nhân loại. Nhưng lí luận văn học không phải là số cộng giản đơn các kiến thức về văn học. Từ kinh nghiệm nâng lên lí luận phải trải qua một quá trình kiểm nghiệm, sàng lọc, khái quát, hệ thống hóa. Quá trình xây dựng lí luận văn học phải chịu sự chỉ đạo của một hệ thống thế giới khác quan và các phương pháp khoa học. Bởi vì văn học là một hoạt động tinh thần của con người thông qua hình thức thẩm mĩ, hình thức đánh giá nhằm chiếm lĩnh thế giới, cho nên lí luận văn học không giản đơn là hệ thống kiến thức về văn học mà còn là hệ thống giá trị về văn học. Lí luận văn học không chỉ giải thích văn học là gì mà còn phải cho biết văn học thế nào là hay, là tiến bộ. Lí luận văn học là bộ môn khoa học nhân văn, mang đậm bản chất nhân văn, nó nói lên mối quan hệ khăng khít giữa văn học và con người, thể hiện bản tính người của văn học. Triết học Marx- Lenin là cơ sở khoa học vững chắc để xây dựng và phát triển lí luận văn học hiện đại. Tất nhiên lí luận văn học mác- xít không hề gạt bỏ các thành quả lí luận văn học phong phú thuộc các trào lưu tư tưởng khác, mà hấp thụ chúng, phát triển chúng, làm cho lí luận văn học ngày càng sâu sắc và toàn diện. Lí luận văn học mác- xít là một hệ thống mở.
1.3. Lí luận văn học ở trường THPT
- Lí luận văn học là một bộ phận của phân môn Văn học, nhưng lại có tầm quan trọng rất lớn đối với cả bộ môn và có quan hệ mật thiết với phân môn Văn học. Những kiến thức Lí luận văn học sẽ giúp giáo viên trang bị cho học sinh những công cụ và phương tiện cơ bản để từng bước hình thành năng lực văn.
- Qua Lí luận văn học, học sinh có thể cảm thụ thẩm mỹ một cách có ý thức từ các phương diện của tác phẩm văn học như: ngôn từ, hình ảnh, nhịp điệu,… Đó cũng là con đường khắc phục có hiệu quả hội chứng “ xã hội học dung tục” trong dạy học văn. Lí luận văn học cũng giúp học sinh nâng cao năng lực tư duy. Đó là khả năng phát hiện vấn đề, đặt vấn đề trước một đối tượng, một hiện tượng nào đó của đời sống hiện thực hay đời sống văn học, khoa học. Đặc biệt với học sinh giỏi Văn, kiến thức lí luận văn học là chìa khóa giúp học sinh chủ động hơn trong việc tiếp nhận văn học, thể hiện năng lực hiểu và lí giải các vấn đề thuộc về bản chất, quy luật của văn học.
Chương 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN
2.1. Trang bị những kiến thức về một số vấn đề lí luận văn học
2.1.1. Dạy lí luận văn học theo chuyên đề
- Chuyên đề 1: Văn học – nhà văn và quá trình sáng tác
- Chuyên đề 2: Đọc hiểu văn bản văn học
- Chuyên đề 3: Thể loại văn học – thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch
- Chuyên đề 4: Tiếp nhận văn học
- Chuyên đề 5: Các mối quan hệ văn học
- Chuyên đề 6: Một số vấn đề về quá trình văn học ,…
Theo chúng tôi, đây là những chuyên đề cực kì quan trọng, vừa cung cấp kiến thức lí luận văn học, vừa hệ thống hoá, khắc sâu kiến thức về tác giả, tác phẩm, vừa rèn kĩ năng… cho học sinh. Bởi vậy, giáo viên không được chủ quan bỏ bất kì một chuyên đề nào. Hơn nữa, cần phải có sự bố trí, sắp xếp một cách hợp lí vị trí của các chuyên đề này trong chương trình. Theo chúng tôi, không nên dạy toàn bộ các chuyên đề của từng khối lớp vào đầu hoặc cuối năm học, mà nên dạy vào cuối mỗi phần, mỗi giai đoạn, thời kì văn học, mỗi tác gia … mà chuyên đề đó có liên quan. Có như vậy thì việc dạy các chuyên đề mới thực sự có tác dụng. Nếu dạy vào đầu năm học, học sinh chưa được đọc – hiểu các tác giả, tác phẩm cụ thể, chưa có cái nhìn toàn diện về văn học của từng thời kì, giai đoạn, trào lưu, thể loại… thì chẳng khác nào đánh đố học sinh, bắt học sinh phải công nhận. Còn nếu dạy vào cuối năm, sau khi đã học xong toàn bộ chương trình, thì chắc chắn tác dụng, hiệu quả cũng không cao. Vì, giữa các chuyên đề (có tính tổng hợp, khái quát) và phần kiến thức cụ thể về tác giả, tác phẩm … có liên quan là cả một khoảng cách khá xa.
Song, theo chúng tôi, ở từng chuyên đề, dù rất quan trọng, giáo viên cũng không nhất thiết phải tung ra một lượng kiến thức quá rộng, quá sâu, quá hàn lâm, mà nên cung cấp và chốt lại những đơn vị kiến thức thật cơ bản, để tránh cho học sinh cảm giác choáng ngợp, tâm lí nặng nề, hoang mang…
Ngay trong Hướng dẫn nội dung dạy – học các môn chuyên trường THPT chuyên do Bộ ban hành từ năm học 2001-2002 cũng đã nêu rõ : Phần lí luận văn học mới chỉ yêu cầu học sinh nắm được những kiến thức sơ đẳng. Ngoài ra, khi dạy những bài văn học sử hay giảng văn, giáo viên nên có ý thức cung cấp cho học sinh một số khái niệm, thuật ngữ lí luận văn học cơ bản, đặc biệt là khắc sâu thêm những kiến thức lí luận đã được học, biến lí luận trở thành một bộ phận hữu cơ của môn Văn học.
2.1.2. Ôn tập hệ thống hóa kiến thức Lí luận VH
Chúng tôi là yêu cầu học sinh đọc thật kĩ sách giáo khoa. Khi tập huấn thi tỉnh, nhất là tập huấn thi Quốc gia, học sinh phải đọc đi, đọc lại, giáo viên giảng giải và chốt lại những đơn vị kiến thức cơ bản nhất, then chốt nhất ở từng bài.
(GV hệ thống theo sơ đồ tư duy để học sinh dễ theo dõi)
2.2. Kĩ năng làm kiểu bài lí luận văn học
2.2.1. Hướng dẫn học sinh kỹ năng viết bài thuộc dạng lý luận văn học
2.2.1.1. Xác định yêu cầu cần có
1. Học sinh phải có vốn nhất định về tác phẩm, tác giả , về lí luận văn học… Những kiến thức lí luận cần trang bị cho học sinh là: đặc trưng, chức năng, thể loại, nhà văn và quá trình sáng tạo, phong cách nghệ thuật, tiếp nhận văn học…
2. Học sinh phải có khả năng suy nghĩ trừu tượng, khái quát để hiểu được luận điểm khoa học được đề cập đến trong bài, bởi các vấn đề lí luận thường được nhà văn, nhà nghiên cứu nói một cách hình ảnh, thậm chí là rất trừu tượng và không thật dễ hiểu với học sinh.
Ví dụ:
- Câu nói của Biêlixki “Như một hạt giống vô hình, tư tưởng gieo vào tâm hồn nghệ sĩ và từ mảnh đất màu mỡ ấy, nó triển khai và phát triển thành một hình thức xác định, thành các hình tượng tràn đầy vẻ đẹp và sức sống, cuối cùng nó là một thế giới hoàn toàn đặc thù, nhất quán” (Sự hình thành tác phẩm văn học).
- Câu nói của Ngô Thì Nhậm “Thơ không phải là toà lâu đài mà là cái bóng của toàn lâu đài dưới nước” (Cái đẹp độc đáo của thơ, cách phản ánh hiện thực của thơ)
- Chế Lan Viên:
“Có nên chăng
Ta nói mãi cái hồn nhiên, cái truyền thống, cái nghìn năm
Để nỗi bó tay chả làm gì được nữa”
Lần khác ông lại viết:
“Cuộc đời đẻ ra nhiều hình thức
D ù là ngọc thì cũng nhiều viên ngọc
Cứ đâu phải cứ xanh xanh vĩnh viễn một màu trời”
(Tiếp thu tinh hoa của văn học truyền thống và sự sáng tạo không ngừng, văn học luôn đòi hỏi sự đa dạng)
3. Có khả năng trình bày lại và vận dụng các kiến thức lí luận văn học để giải quyết các vấn đề đặt ra.
4. Có kĩ năng viết, trình bày các luận điểm rõ ràng và vận dụng các kiến thức về tác giả, tác phẩm để làm rõ luận điểm chính
2.2.1.2.Phương pháp làm bài
Để giúp học sinh đạt được yêu cầu đó người dạy học sinh giỏi phải tốn rất nhiều công sức, tập cho các em từ khâu phân tích đề, tìm hướng giải quyết vấn đề.
(1) Phân tích đề
- Đọc kĩ đề, gạch dưới những từ chứa đựng nội dung đề, xem hình ảnh mà nhà văn dùng chứa đựng ý niệm gì rồi đẩy nó về phạm trù lí luận văn học mà đề đặt ra.
- Tiếp đó phải biết đẩy từ ngữ, hình ảnh đó lên tầm khái quát. Ví dụ Về thơ, Xuân Diệu cho rằng “Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác”, Tố Hữu lại quan niệm “Thơ hay là không thấy câu thơ chỉ thấy tình người”. Suy nghĩ của em?
+ Câu của Xuân Diệu: Những từ ngữ và hình ảnh cần tập trung: hồn, xác, câu thơ, tình người; hình ảnh hay cả hồn lẫn xác, không thấy câu thơ chỉ thấy tình người
Hồn: cái bên trong, còn phong kín (cảm xúc, ý tưởng nhà thơ gửi gắm- nội dung của thơ), hồn được thể hiện qua xác.
Xác: là cái diện mạo bên ngoài của thơ (ngôn ngữ, nhịp điệu, hình ảnh…- hình thức của thơ).
Bản chất câu nói của Xuân Diệu: Thơ hay là thơ phải đạt giá trị cao cả về nội dung và hình thức.
+ Câu nói của Tố Hữu: chú ý hai từ Thơ đứng đầu câu là danh từ chỉ câu thơ, bài thơ, chữ thơ thứ hai nằm giữa câu là tính từ nói về vẻ đẹp của nghệ thuật thơ (hình thức); Tình người là đề tài, chủ đề, cảm xúc thơ (nội dung). Theo quan niệm của Tố Hữu một bài thơ, câu thơ được coi là hay khi người đọc không thấy dụng công nghệ thuật của tác giả chỉ còn lại tình người, cảm xúc tác động đến trái tim người đọc. Tố Hữu đề cao nội dung nhưng không tách khỏi nghệ thuật
+ Nâng cao: Quan niệm của hai ông không chỉ đúng với thơ mà với mọi tác phẩm nghệ thuật nói chung. Một tác phẩm là hay phải là “một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung”
Như vậy, phạm trù đưa ra để lí giải cho quan niệm này là: Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức trong tác phẩm văn học
Ví dụ 2: Trong tác phẩm Việt Hán văn khảo, Phan Kế Bính viết “Ngồi trong xó nhà mà lịch lãm suốt các nơi danh lam thắng cảnh của thiên hạ, xem trêm mảnh giấy mà tinh tường được hết các việc hay dơ của thế gian; sinh ra sau mấy nghìn năm mà tựa hồ như đối diện và nghe được tiếng bàn bạc của người sinh về trước mấy nghìn năm, cũng là nhờ có văn chương cả”
+ Các từ cần lưu ý: xó nhà, lịch lãm, danh thắng, thiên hạ, xem mảnh giấy, tinh tường, đối diện và được nghe…
+ Bản chất của câu nói: vai trò, tác dụng to lớn của văn chương đối với con người
Phạm trù lí luận cần có: chức năng của văn học (nhận thức), đặc trưng văn học (ngôn ngữ phi vật thể)
(2) Xây dựng giải quyết vấn đề
Theo tôi, với bất kì đề ra thuộc kiểu bài lí luận văn học, người làm đều phải sử dụng các thao tác: giải thích, chứng minh, bình luận. Giải thích để hiểu được thực chất nội dung vấn đề ở đây là gì? Chứng minh là làm rõ hơn cho vấn đề cả về mặt lí luạn văn học và thực tế văn học. Bình luận là nhìn vấn đề đó dưới nhiều góc độ khác nhau để bàn luận sự đúng, sai, để tìm hiểu ý nghĩa của quan điểm lí luận văn học đó với đời sống văn học, với người cẩm bút và họ phải làm gì để trở thành một nhà văn có chỗ đứng trong lòng độc giả.
a. Giải thích
- Giải thích khái niệm: từ ngữ, hình ảnh của nhận định (nghĩa đen, nghĩa chuyển đặc biệt là nghĩa hàm ẩn được thể hiện trong cái vỏ bọc từ ngữ, hình ảnh, các nói trừu tượng của nhà văn.
- Giải thích ý nghĩa: xem bản chất của câu nói ấy là gì? (Xem phần hướng dẫn phân tích đề)
- Mở rộng tới các câu nói tương tự của các tác giả khác…
b. Đề xuất nhận định, đánh giá, mở rộng
- Tất nhiên các vẫn đề lí luận đưa cho học sinh làm bài thường là đúng, học sinh ít khi phải nghĩ ra một cái gì thật mới mẻ mà thường là khẳng định vấn đề đúng và đúng đến đâu, và dựa vào sự hiểu biết về lí luận văn học mà giải thích rõ rồi dùng thực tế văn học mà mình đã học, đã biết để chứng minh cho sự đúng đắn của nhận định.
- Ví dụ ở đề văn trên (Ví dụ 1)
+ Cách hiểu của hai nhà thơ tưởng như mâu thuẫn nhưng thực ra lại hoàn toàn thống nhất bởi hai ông đều có nét tương đồng trong quan niệm thơ hay: Thơ là một chỉnh thể nghệ thuật được kết hợp bởi hai yếu tố: nội dung và hình thức nghệ thuật. Vì vậy, thơ hay phải đạt đến sự hài hoà đến mức như là máu thịt, như là thể xác và linh hồn.
+ Đây là một quan niệm đúng đắn. Quan niệm này có cơ sở cả về mặt lí luận và thực tế văn học:
Cơ sở triết học: cặp phạm trù nội dung và hình thức của mọi hiện tượng trong đời sống
Cơ sở lí luận văn học: nội dung và hình thức trong tác phẩm văn học. Tác phẩm văn học là một hiện tượng xã hội nên những tác phẩm có giá trị, nội dung và hình thức phải luôn thống nhất chặt chẽ. Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức tạo nên sức mạnh tư tưởng, nghệ thuật của chỉnh thể tác phẩm văn học.
Thực tế văn học cho thấy: nếu chỉ coi trọng nội dung thì thơ chỉ có nội dung tư tưởng cao, chỉ đứng được một thời (Những bài thơ của phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh: Bài ca cách mạng,…). Ngược lại, nếu chỉ quan tâm tạo dựng cho một cái xác đẹp đẽ với những sáo ngữ ồn ào, mà không chú ý đến phần hồn thì câu thơ chỉ làm cho người đọc sướng tai, vui mắt trong một khoảnh khắc nhất định, không lưu lại trong lòng một cái gì, đọc câu thơ như ngắm một bông hoa có sắc mà không có hương. Nhiều bài thơ hay để đời là những bài thơ hay cả hồn lẫn xác không thấy câu thơ, chỉ thấy tình người: Hoàng hạc lâu, Tôi yêu em, Đây thôn Vĩ Dạ…
c. Ý nghĩa tác dụng và mở rộng vấn đề
- Đóng góp vào kho tàng lí luận phong phú của văn chương.
- Bài học cho người cầm bút và người tiếp nhận
Đề bài luyện tập
Lê Quý Đôn cho rằng “Thơ phát khởi từ trong lòng người ta”, còn Ngô Thì Nhậm lại nhấn mạnh “Hãy xúc động hồn thơ cho ngọn bút có thần”. Từ ý kiến trên hãy nêu vai trò của tình cảm trong thơ.
Gợi ý
Hướng giải quyết vấn đề:
1. Giải thích
( ? ý nghĩa của hai câu nói là gì ? )
- Lê Quý Đôn (1726-1874) và Ngô Thì Nhậm (? – 1803) đều là những nhân sĩ Bắc Hà học rộng tài cao có nhiều đóng góp sắc sảo về thơ.
- Lê Quý Đôn cho rằng: Thơ phát khởi từ trong lòng người ta. “Lòng” là thế giới nội tâm, là tâm hồn, tình cảm, cảm xúc của người làm thơ, khởi phát là từ xuất phát, là khởi đầu. Theo Lê Quý Đôn thì thơ được ra đời, nảy mầm từ tâm hồn, tình cảm của con người. Tình cảm, tâm hồn là cái gốc của thơ.
- Ngô Thì Nhậm: Hãy xúc động hồn thơ cho ngòi bút có thần. Xúc động hồn thơ là cảm xúc, tình cảm của người làm thơ đạt đến độ rung động cao, ngọn bút có thần là ngọn bút tài hoa, tinh tế. Ngô Thì Nhậm muốn nói: sự rung động mãnh liệt của người nghệ sĩ là tác nhân quan trọng cho bút lực họ sung mãn, thể hiện được cái thần, cái hồn của đối tượng trữ tình, khiến quỷ thần phải sợ.
- Cả hai câu nói có tính chất bổ sung cho nhau nhằm khẳng định vai trò tình cảm trong sáng tác thơ: tình cảm là nơi bắt đầu của thơ và rung động mãn liệt là khởi điểm của sự sáng tạo nghệ thuật, là phút xuất thần của ngọn bút thi nhân.
2. Phát biểu suy nghĩ về vai trò tình cảm trong thơ
- Tình cảm, cảm xúc là đặc trưng cơ bản của thơ. Thơ không phải văn xuôi, thơ thuộc phạm trù trữ tình, thơ lấy điểm tựa ở sự bộc lộ thế giới nội cảm của nhà thơ trước cuộc đời. “Ta nói trời xanh hôm nay nên thơ nhưng chính ra lòng chúng ta mang nỗi niềm vui buồn mà muốn làm thơ hoặc đọc thơ về trời xanh. Mưa phùn buổi chiều gợi những câu thơ nào nhớ nhung, nhưng chính nỗi nhớ nhung ấy gặp trời mưa mà muốn thì thầm những câu thơ chưa thành hình rõ” (Nguyễn Đình Thi). Bạch Cư Dị cũng đã cho rằng: đối với thơ, tình là gốc, lời là cành, thanh là hoa, nghĩa là quả”. Không có tình, thơ như cây không gốc, thơ không thể là thơ vì lời, thanh nghĩa của thơ không thể nảy mầm. Tình là nơi nuôi dưỡng thơ mãi mãi xanh tươi như cây đời.
- Tình cảm trong thơ không thể là tình cảm giả tạo gượng gạo, hời hợt, mờ nhạt. Tình cảm nhạt nhoà, giả dối chỉ tạo nên những con chữ vô hồn, sự gào rú hỗn độn của âm thanh và sự rỗng tuếch của nghĩa lí; Tình cảm trong thơ phải chân thành tự nhiên: “Thơ là tiếng nói hồn nhiên nhất của tình cảm con người” (Tố Hữu), phải mãnh liệt và sâu sắc. Nhà thơ phải yêu, ghét, vui buồn đến tận độ, phải mang nghìn trái tim trong một trái tim. “Thơ muốn làm người ta khóc trước tiên mình phải khóc, muốn làm người ta cười trước tiên mình phải cười” (Chế Lan Viên). Có lẽ vậy mà Platôn gọi thơ là Thần hứng, Đecgavin lại cho thơ là ngọn lửa thần.
- Nhà thơ làm thơ là để giãi bày lòng mình với mọi người, để tìm sự đồng cảm “Thơ là chuyện đồng điệu. Nó là tiếng nói của người nào đó đối với người nào đó có sự cảm thông chung dựa trên cơ sở đồng ý, đồng tình, đồng chí” (Tố Hữu). Thơ dựa trên cơ sở tri âm; Thơ đi từ trái tim đến với trái tim. Vì vậy tình cảm trong thơ không thể là tình cảm chung của cá nhân nhà thơ là tình cảm có tính chất xã hội. Từ nhịp đập của trái tim mình, nhà thơ phải vẽ lên nhịp đập của trái tim quần chúng.
- Có cảm xúc, tình cảm chưa đủ để có thơ, nghĩ ra thơ là tâm hồn làm ra thơ là tay. Do vậy người nghệ sĩ phải có tay nghề thơ, có khả năng biến cảm xúc ý tưởng thành lời, nghĩa là phải có tài làm thơ. Tài dù khéo đến đâu mà không có tình nuôi dưỡng thì nhà thơ chỉ tạo được những xác con chữ nằm bất động trên trang giấy. Thi hào Gơt nổi tiếng thế giới đã từng khuyên các nhà văn trẻ “Hãy đập vào tin anh thiên tài là ở đó”. Chỉ khi nào con tim thi nhân “rẩy tựa dây đần” thì ngòi bút họ mới thăng hoa, xuất thần đến không ngờ, thơ sẽ như lửa gặp gió sẽ bốc cao. Người đọc lúc ấy “không thấy câu thơ chỉ thấy tình người” (Tố Hữu) và câu thơ sẽ neo trụ mãi trong họ.
Thực tế văn học cho ta thấy rõ điều đó. Thi thánh Đỗ Phủ đời nhà đường chưng cất từ nỗi đau rỉ máu của mình – của một ông quan do chiến tranh phong kiến bị đẩy tới chân trời tây nam của huyện Quỳ Châu xa xôi, nếm cuộc sống bần cùng của muôn dân - để tạo nên những vần thơ khắc khoải nỗi nhớ quê ám ảnh người đọc bao thế kỷ:
“Nước mắt tuôn theo dòng lệ cũ
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà”
Bạch Cư Dị với “Lệ ai chan chứa hơn người” trước thân phận bọt bèo của một tài nữ đánh đần trên bến Tầm Dương mà có một Tỳ bà hành lưu trước nhân gian bạn cùng trăng sáng; Nguyễn Du tạo nên tuyệt tác truyện Kiều- và hình tượng Vương Thuý Kiều bất hủ bởi tấm lòng Đau đớn thay phận đàn bà đến tê buốt của ông. Hoàng Cầm viết Bên kia sông Đuống, một tác phẩm để đời của ông chỉ trong có một đêm bởi cảm xúc thơ xuất thần từ “tâm tư chồng chất nhớ thương với cảnh với người quê hương bị giặc tàn phá giết hại”.
3. Ý nghĩa tác dụng và mở rộng vấn đề
- Những ý kiến về vai trò tình cảm trong thơ của Lê Quý Đôn và Ngô Thì Nhậm đã đóng góp vào kho tàng lí luận phong phú của thơ ca và là định hướng, lời khuyên rất quý giá với người cầm bút.
- Người cầm bút muốn có những đứa con tinh thần khoẻ mạnh có sức sống dẻo dai trong lòng người đọc và vượt qua được sự băng hoại của thời gian thì cần phải nuôi dưỡng cảm xúc, tâm hồn, tình cảm mình ngày một phong phú và tinh tế, phải tạo cho mình một phong cách riêng độc đáo. Muốn vậy phải sống hết mình với cuộc đời, phải tu tâm và dưỡng tài “Phải chịu đau đớn thì vẫn đốt cháy mình và đốt cháy những người khác” (Lep xtôn).
- Người tiếp nhận văn học cũng phải có một tâm hồn rộng mở, giàu tình cảm, cảm xúc,...
Nói tóm lại: Trong các tiết làm văn, học sinh bước đầu đã có những hiểu biết nhất định về kiểu bài nghị luận để xác định được nghị luận nghĩa là phải bàn bạc, đánh giá, nhận xét, đưa ra ý kiến riêng của mình trên cơ sở giải thich, cắt nghĩa, lí giải, bỡnh luận những vấn đề chung.
Để giải quyết vấn đề, cần lưu ý học sinh cách xem xét nó từ nhiều góc độ. Cách đơn giản nhất là tập đặt ra và trả lời những câu hỏi. Sau đây là một số dạng câu hỏi chính:
- Nó là gì?
- Nó như thế nào?
- Vì sao nó lại như thế?
- Như thế thì có ý nghĩa gì với cuộc sống, với con người?
Từ việc đặt ra và trả lời các câu hỏi, có thể hình dung một bài văn nghị luận văn học về kiểu bài Lí luận văn học cần được triển khai theo ba bước cơ bản sau:
1. Giải thích, cắt nghĩa
2. Bình luận, lý giải, chứng minh
3. Đánh giá, mở rộng
2.2.1.3. Giới thiệu một số đề luyện tập
Đề 1: "Nghệ thuật phải khơi gợi được niềm vui sống, lòng yêu đời. Nhưng cũng rất đúng nếu nói rằng: nghệ thuật bắt con người phải ngẫm nghĩ và xúc động, khơi gợi lên ở con người lòng trắc ẩn, sự phản kháng chống lại cái ác, phải gợi lên cho con người cái cớ để buồn, để thương, để khát khao khôi phục, bảo vệ những cái tốt đẹp trong cuộc sống đang bị chà đạp, lăng nhục" (T. Aimatop).
Anh (chị) hãy bình luận quan niệm trên.
Gợi ý:
* Bản chất vấn đề: bàn về chức năng, cụ thể là về giá trị, ý nghĩa xã hội của văn học. Có nét gặp gỡ với quan điểm "Văn học làm con người sống sâu sắc hơn, tinh tế hơn trong một thế giới ước lệ" và "Mỗi tác phẩm là một bặc thang nhỏ nâng tôi lên từ con thú thành một con người".
1. "Nghệ thuật phải khơi gợi niềm vui sống, lòng yêu đời":
- Là gì: nhiệm vụ, sứ mạng của văn học là giúp cho con người hiểu được ý nghĩa, giá trị của cuộc sống. Chỉ khi con người hiểu ra ý nghĩa, giá trị của cuộc sống mới thấy cuộc sống là đáng sống. Chỉ khi con người nhận ra những điều tốt đẹp trong cuộc đời con người mới có thể yêu đời.
- Vì sao: vì văn học là một hoạt động tinh thần của con người, nó xuất phát từ những nhu cầu tinh thần của con người trong cuộc sống, cũng có nghĩa là nó hướng tới giải quyết những nhu cầu ấy. Bản chất con người là luôn có khát vọng hướng tới những cái hoàn thiện, tới cuộc sống đích thực của con người (căn tính thiện vốn có trong con người). Văn chương chân chính đương nhiên phải hướng vào khát vọng đó.
- Bằng cách nào:
+ Mô tả bức chân dung cuộc sống: vẻ đẹp (Vội vàng), tình người (Vợ nhặt), tình yêu (Sóng), nhân cách (Lão Hạc).
---> "Chao ơi, cuộc đời không hẳn là đáng buồn" (Lão Hạc) - nghĩa là nó đáng sống.
+ Lý tưởng hóa những vẻ đẹp, những giá trị của đời sống.
+Ý nghĩa: tạo nên giá trị nhân đạo, nhân văn, có tác dụng to lớn trong việc bồi đắp tâm hồn con người.
2. "Nghệ thuật bắt con người phải ngẫm nghĩ và xúc động... đang bị chà đạp, lăng nhục":
- Là gì: nhiệm vụ của văn học không chỉ là giúp con người biết đến những điều tốt đẹp, bởi nếu chỉ có thế văn học sẽ trở nên giản đơn trong sự đơn giản hóa con người và cuộc sống. Văn học cần giúp con người hiểu biết sâu sắc về cuộc sống: tốt - xấu, đúng - sai, thật - giả, thiện - ác... để có thể nhìn thấy và nhìn thấu, để không chỉ biết phân biệt mà còn biết lựa chọn, không chỉ đi theo mà còn biết hành động.
- Vì sao: vì sứ mạng rất quan trọng của văn học là giúp con người hiểu biết. Biết mới chỉ là nấc đơn giản nhất của kiến thức, hiểu mới là cái đích cần vươn tới của con người để có thể sống với đúng nghĩa của từ này. Sứ mạng rất quan trọng...
- Bằng cách nào:
+ Tạo ra những cuộc đối thoại của lương tri. Xây dựng những tấm gương để con người tự soi mình, tự đối chiếu và phán xét người khác cũng như chính bản thân mình.
+ Cụ thể: phóng to cái tốt để nó trở nên lộng lẫy, cường điệu cái xấu để nó trở nên đáng ghê tởm, không chỉ phát hiện và lý giải những hiện tượng đời sống mà còn đặt ra những câu hỏi để gợi mở những băn khoăn và kích thích ý thức tìm kiếm câu trả lời cho những câu hỏi ấy...
+ Ý nghĩa: giúp con người hiểu biết đầy đủ hơn để sống tốt hơn, nhân ái hơn, đẹp hơn lên.
3. Bình luận:
- Tác giả của nhận định đã chỉ ra thiên chức thiêng liêng và con đường để văn chương chân chính thực hiện thiên chức ấy:
+ Thiên chức: nhân đạo hóa con người.
+ Con đường: tác động vào nhận thức, song quan trọng hơn là tác động vào tình cảm bởi tình cảm là mục đích và cũng là con đường riêng của văn chương.
- Từ nhận định này, người đọc có cơ sở để đánh giá và thưởng thức văn chương chân chính, nhà văn thấy được cái đích cần hướng tới để tạo nên những giá trị văn chương.
Đề 2: Nhà văn L. Tônxtôi đã viết: "Chỉ có những tác phẩm nghệ thuật nào truyền đạt được cho mọi người những tình cảm mới mà họ chưa từng được thể nghiệm thì mới là tác phẩm nghệ thuật đích thực"
Anh/chị hiểu thế nào về ý kiến trên? Hãy chứng minh rằng "Vội vàng" của XD là một tác phẩm nghệ thuật đích thực.
Gợi ý:
1. Nội dung ý kiến:
- Tình cảm: là sự rung động trong lòng trước một đối tượng nào đó.
Văn học thuộc lĩnh vực tinh thần tình cảm - tác động bằng tình cảm và tác động đến tình cảm. Văn học còn là lĩnh vực của sự sáng tạo. Do đó, việc tác động, khơi dậy những tình cảm mới ở người đọc để bồi đắp và làm phong phú thêm cho đời sống tinh thần tâm hồn của con người là điều cần thiết.
- Chưa từng được thể nghiệm: là điều hoàn toàn mới mẻ - sản phẩm của sự khám phá, sáng tạo ở nghệ sĩ.
Văn chương rất cần đến cái mới, cái đẹp của hình thức song điều cốt yếu cuối cùng làm nên sức rung động mãnh liệt của văn chương chính là cái lõi tình cảm của nó. Cái mới của tình cảm ở đây không nhất thiết là những tình cảm mới mà là những khía cạnh mới, chiều sâu mới của tình cảm hoặc những tình cảm mới hơn, khác đi đối với những đối tượng quen thuộc.
- Tác phẩm nghệ thuật đích thực: tác phẩm nghệ thuật hoàn thành được sứ mạnh của văn chương chân chính, có giá trị thực sự đối với cu ộc sống của con người.
Một tác phẩm nghệ thuật đích thực phải truyền đạt cho người đọc những tư tưởng mới, tình cảm mới, cách nhìn mới về cuộc đời và con người; cảm nhận mới về nhân sinh, về lẽ yêu - ghét; bồi dưỡng tình cảm, nâng cao sự hiểu biết và cũng nâng cao phẩm chất người của con người; phải truyền đạt một cách có nghệ thuật để gợi hứng thú mới mẻ cho người đọc.
2. Phân tích bài thơ "Vội vàng":
- Bài thơ đã được khẳng định và thử thách qua thời gian, đáp ứng đầy đủ những tiêu chuẩn theo quan niệm của Tônxtôi.
- XD đã nêu ra một quan niệm về cuộc sống trần thế - hấp dẫn vô cùng, vô tận trong khi đời người ngắn ngủi, con người không thể thờ ơ, lãng phí thời gian. Sống là niềm vui vô tận nên phải tận hưởng nó. Thể hiện điều này, cảm xúc của nhà thơ đã đi đến giới hạn tận cùng của khao khát, ham muốn.
- Bút pháp lãng mạn với giọng thơ sôi nổi, lời thơ táo bạo, tinh tế, một nghệ thuật thơ với nhiều cách tân mạnh mẽ tạo ra những câu thơ rất trẻ, rất sống, rất đẹp. Nhiều từ ngữ có tính hình tượng cao, có khả năng biểu đạt cảm giác mạnh mẽ, nhiều điệp từ được sử dụng tài tình để diễn tả mọi cung bậc của cảm xúc.
---> Đọc "Vội vàng" thấy cái tươi trẻ của một hồn thơ, đồng thời cũng thấy yêu hơn sự sống, yêu hơn tuổi trẻ của con người. "Vội vàng" khơi dậy cái khát vọng sống khiến nó rộn rực, trào dâng trong mỗi người để tâm hồn con người được thanh xuân và tươi trẻ.
Đề bài: Phong cách đối với nhà văn cũng như sắc màu với người họa sĩ, không phải là vấn đề kĩ thuật mà là cách nhìn. (Marcel Proust)
Suy nghĩ của Anh/ Chị về ý kiến trên?
1. Giải thích:
- Phong cách: Là nét riêng, nét độc đáo có sự thống nhất và vận động trong quá trình sáng tác của nhà văn. Biểu hiện tài nghệ của người nghệ sĩ ngôn từ trong việc đem đén cho người đọc 1 cái nhìn mới mẻ chưa từng có về cuộc sống, con người, thông qua hình tượng nghệ thuật độc đáo và những phương thức, phương tiện thể hiện đặc thù in đậm dấu ấn cá nhân của chủ thể sáng tạo. Phong cách khi đã định hình thường có tính bền vững.
- Phong cách đối với nhà văn cũng giống như sắc màu đối với người họa sĩ: Marcel Proust đã so sánh nét riêng nét đọc đáo của nhà văn với người họa sĩ – những người nghệ sĩ trên con đường sáng tạo nghệ thuật.
- Không phải là vấn đề kỹ thuật mà là cách nhìn: phong cách tác giả không đơn thuần là một vấn đề kỹ thuật hay chỉ là lớp vỏ ngoài trang trí cho tác phẩm văn chương mà nó là cách nhìn rất riêng của mỗi người về thế giới, phân biệt với cách nhìn của những người khác.
=> Như vậy, ý kiến của Marcel Proust đã khẳng định vai trò của cách nhìn trong việc hình thành, duy trì và phát triển nét riêng nét độc đáo trong quá trình sáng tác của người nghệ sĩ dù hoạt động ở bất kì lĩnh vực nghệ thuật nào, trong đó có văn học.
2. Bình luận
* Khẳng định: Ý kiến hoàn toàn chính xác
* Lý giải
- Bản chất của lao động nghệ thuật là sáng tạo. Nghệ thuật rất tối kỵ sự trừng lặp, “lúc 1 người không có cái gì là riêng của mình thì phải thấy ở người đó chẳng có gì hết”. Bất cứ lĩnh vực lao động nào cũng ccần tính sáng tạo nhưng sự sáng tạo trong lao động nghệ thuật mang bản sắc riêng và trở thành 1 thuộc tính. Bởi lẽ sản phẩm của lao động là tác phẩm nghệ thuật, nó đáp ứng nhu cầu thưởng thức và nhu cầu thẩm mĩ cho con người, nó là đối tượng thẩm mĩ tác động trực tiếp vào đời sống tư tưởng của con người. Vì vậy tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó là bản sao của người khác, hay không đem lại điều gì mới mẻ cho sự cảm thụ thẩm mĩ của con người.
=> Lao động nghệ thuật của người nghệ sĩ nói chung, của nhà văn nói riêng là lao động đặc thù chịu sự quy định khắt khe của những quy luật sáng tạo nghệ thuật chân chính.
- Sự thật cuộc sống trong tác phẩm nghệ thuật không thể tồn tại bên ngoài cách nhìn thé giới của nhà văn. Cách nhìn này vốn có ở mỗi nhà văn chân chính. Nhà văn phải có khả năng khám phá, nắm bắt những quá trình bên trong của cuộc sống, miểu tả được những tính cách điển hình, mô tả tồn tại phương diện, nội hạt của con người, tâm lí của con người. Cuối cùng đem đến cho người đọc những điều mới mẻ trong tư tưởng, tình cảm, cảm xúc qua cách sử dụng ngôn từ độc đáo.
- Cách nhìn trong phong cách của nhà văn cũng cần thay đổi vận động sao cho phù hợp, hài hòa với phong cách thời đại, phong cách dân tộc…Song cũng không vì thế mà nhà văn thay đổi mất dần nét phong cách riêng biệt của chính mình, mà nó cũng cần có tính bền vựng sau khi được định hình rõ nét.
- Ngoài việc lách ngòi bút của mĩnh vào những thứ nhỏ nhặt trong cuộc sống để đem đến những triết lý sâu xa, thì nhà văn cũng cần có cách nhìn bao quát, rộng lớn, mang tầm nhân loại để xây dựng sức sống lâu bền cho đứa con tinh thần của mình.
- Nhu cầu của bạn đọc luôn luôn đòi hỏi những cái nhìn mới -> áp lực đòi hỏi nhà văn phải có những cách nhìn, cahcs khám phá mới.
3. Chứng minh
* Chí Phèo: NC phát hiện sự tồn tại của thân xác trong CP hay ngôn ngữ cơ thể
- Trước Nam Cao, thân xác thường được xem là những gì thấp kém, không có nhiều giá trị -> thân xác trong văn học dường như bị lãng quên như Nguyễn Văn Trung từng nói: "Thân xác của con người là sự tồn tại bị bỏ quên vắng mặt"
- Nam Cao lại cách nhìn mới cho thấy thân xác con người có tiếng nói riêng của nó. Nó không phải nô lệ của tâm hồn mà còn tác động vào tâm hồn, làm thay đổi tâm hồn con người.
+ Sự thay đổi lớn nhất của Chí qua sự gặp gỡ Thị Nở đêm trăng
. Gã đàn ông chưa bao giờ bị ốm, bây giờ bị ốm -> sự thay đổi của thân xác
. Gã đàn ông chưa bao giờ lo âu về thân xác -> cô đơn trong tuổi già
. Cơ thể già đi theo năm tháng khiến Chí càng trở nên cô độc
=> Chí đã “già” từ thân xác -> tâm hồn
. Sự thay đổi giác quan: nghe thấy.... -> tác động giúp Chí nhớ lại quá khứ ngày xưa -> làm thay đổi tâm hồn con người Chí -> khao khát hoàn lương
=> Sự thay đổi thân xác -> sự thay đổi tâm hồn -> khao khát lương thiện
+ Câu hỏi: "Làm cách nào....lương thiện" thường được quan tâm chú ý hơn câu hỏi: "Làm thế nào để het những vết sẹo này?" -> cho thấy thân xác thường bị bỏ quên.
+Toát mồ hôi khi ăn bát cháo hành cũng là biểu hiện của thể xác cho thấy tâm hồn Chí đang rỉ máu
=> Thân xác con người là gì rất quý giá. Khi con người đã mang gương mặt của con vật thì không thể trở lại được nữa -> tâm hồn Chí khao khát lương thiện nhưng mặt Chí đã thành con vật rồi.
- Từ đây, Nam Cao đã:
+ Lên án tố cáo sự thay đổi nhân hình con người mãi mãi k hòa tan
+ Ông không cắt rời tâm hồn và thân thể mà nó là những dấu gạch nối
=> thân thể trong sáng tác của Nam Cao phát hiện ra tiếng nói riêng của nó, giá trị riêng của nó.
- Lý giải nguyên nhân vì sao Nam Cao có cái nhìn độc đáo ấy:
+ Nguyên nhân khách quan: Nền văn học ít quan tâm đến thân xác
+ Nguyên nhân chủ quan: Cuộc đời, con người Nam Cao
* Vội vàng: Xuân Diệu phát hiện trần gian mang vẻ đẹp thiên đường và mang vẻ đẹp thân xác con người
- Đôi mắt của XD khi nhìn vào cảnh trần gian -> thiên đường
- Trần gian luôn mang vẻ đẹp con người
- Lí giải nguyên nhân vì sao XD có những cái nhìn đặc biệt ấy:
+ Vì chính cuộc đời XD: ám ảnh cái chết do đồng tính luyến ái -> chính vì thế XD mới yêu quý sự sống của mình hơn. XD viết về cái chết ngay ở độ tuổi hoa niên
+ Ảnh hưởng của triết học phương Tây (quan niệm thời gian)
4. Mở rộng
- Cách nhìn mới mẻ đối với mỗi nhà văn cũng rất quan trọng. Nhưng cách nhìn ấy cũng cần được gắn liền với một cách thể hiện đốc đáo, mới lạ và ấn tương. Hay nói cách khác, phong cách nghệ thuật cũng cần quan tâm đến “vấn đề kỹ thuật”
- Yêu cầu với nhà văn và người đọc
Chương 3: LUYỆN VIẾT, CHẤM CHỮA BÀI VÀ GIỚI THIỆU BÀI VIẾT THAM KHẢO
3.1. Luyện viết
Theo chúng tôi đây là phần việc quan trọng nhất, và cũng công phu, nặng nhọc bậc nhất. Trên cái nền kiến thức rộng và sâu hơn hẳn mặt bằng chung của học sinh đại trà và chuyên chọn, các em sẽ vận dụng vào các bài viết cụ thể như thế nào để đáp ứng yêu cầu của học sinh giỏi? Công đoạn luyện viết thể hiện rõ trí tuệ của cả thầy và trò. Với thầy là việc rèn luyện kỹ năng và phương pháp viết văn cho học sinh, từ khâu ra đề đến khâu chấm chữa bài. Với trò là việc vận dụng những kiến thức và kỹ năng đã được học để thể hiện tất cả những gì là tinh hoa, trí tuệ của mình trên cơ sở bài viết ở độ thăng hoa nhất.
Chúng tôi dành cho công đoạn này một thời lượng đáng kể khoảng hơn nửa thời gian tập huấn, bao gồm:
- Trong quá trình học kiến thức, học sinh đã được thực hành viết bài. Sau mỗi mảng kiến thức, giáo viên dạy chịu trách nhiệm ra đề kiểm tra và chấm chữa bài cho học sinh
- Nửa cuối của thời gian tập huấn, phần lớn dành cho việc luyện viết. Phần việc này chủ yếu là do giáo viên lãnh đội phải làm, rất tỉ mỉ và công phu.
- Ra đề kiểm tra theo đúng định hướng của Bộ giáo dục và Đào tạo. Coi thi nghiêm ngặt sít sao, theo đúng thời lượng cho phép.
Trong quá trình học sinh làm bài, hết 1 tiếng giáo viên lại phải nhắc nhở học sinh, để các em buộc phải có ý thức với quĩ thời gian cho phép ở từng câu. 15 phút cuối phải nhắc để học sinh kết thúc bài viết trọn vẹn, và soát lại bài.
Chúng tôi đặc biệt chú trọng rèn cho học sinh kĩ năng viết. Bởi vì: mục đích cuối cùng của việc dạy văn, học văn là học sinh phải biết cách làm bài văn nghị luận văn học bằng hình thức nói và viết. Nhưng trong tình hình thi cử đối với môn văn những năm qua và hiện nay vẫn là tự luận, thi viết, vì vậy, học sinh phải làm được một bài nghị luận văn học bằng hình thức viết. Đối với học sinh nói chung và học sinh chuyên Văn nói riêng, muốn tiến bộ nhanh, chắc chắn không có cách nào khác, nhất thiết phải luyện tập thật nhiều, với nhiều hình thức khác nhau, nhất là hình thức viết. Bởi, từ nhận thức được vấn đề đến phát biểu ra được bằng lời, rồi diễn đạt thành một bài văn hoàn chỉnh là cả một quá trình, có thể nói là khổ luyện. Thực tế cho thấy, không phải em nào nói tốt đã viết tốt và ngược lại. Vì thế cho nên, giáo viên vừa phải giải thích, động viên, vừa phải ốp học sinh viết bài (tâm lí học sinh thường rất ngại). Về số lượng, bài viết phải đảm bảo đủ theo yêu cầu của chương trình. Ngoài ra, vào mỗi kì tập huấn học sinh giỏi Tỉnh, chúng tôi thường yêu cầu các em viết thêm, viết liên tục ngày một bài, khoảng 12 bài. Và như vậy thì việc luyện tập sẽ không có hiệu quả, tác dụng.
Riêng đối với học sinh giỏi Quốc gia, chúng tôi yêu cầu cao hơn : Số lượng bài khoảng 20 và khi viết cần rèn thói quen :
- Không được sử dụng bất cứ tài liệu nào, khi đến lớp viết bài chỉ được phép mang dụng cụ học tập.
- Chỉ được phép làm bài đúng thời gian
- Làm bài trên giấy thi, giấy nháp qui định, đề bài in, phát cho từng học sinh.
- Trong giờ kiểm tra, giáo viên và học sinh tuyệt đối im lặng, giữ trật tự…
Trong quá trình rèn kĩ năng, tiếp tục ôn tập, củng cố kiến thức, đặc biệt là kiến thức Lí luận VH. Đây là điểm yếu nhất của học sinh, do các em chưa thật nắm vững kiến thức lí luận. Ngoài ra các em cũng cần phải nắm vững kiến thức tác phẩm văn học, các em chưa thật sự sống với tác phẩm, vì vậy mà chưa nắm bắt được hồn cốt của tác phẩm. Chúng tôi thường dành mỗi tuần ít nhất là 1 buổi trong thời gian tập huấn, yêu cầu học sinh đọc lại thật kĩ kiến thức Lí luận văn học và các tác phẩm, tự nghiền ngẫm, thẩm thấu kiến thức. Có như vậy việc ôn tập mới thực sự có kết quả. Còn nếu chỉ nghe theo, nói theo, viết theo thì sẽ chẳng còn gì đọng lại trong trí tuệ, tâm hồn các em.
3.2. Chấm - chữa bài
Trong công tác giảng dạy, giáo viên chúng tôi đặc biệt chú ý tới việc chữa bài cho học sinh giỏi. Năng lực, chỗ mạnh cũng như chỗ yếu của học sinh giỏi đều được thể hiện trên bài làm. Việc chữa bài trực tiếp là vô cùng cần thiết. Học sinh có thể hỏi, trao đổi với giáo viên về những điều trong bài làm. Ngoài ra, việc chữa trực tiếp sẽ tránh được sự chung chung, chủ quan của bài làm. Sau khi chữa, giáo viên chỉ ra điểm mạnh, điểm yếu, chỗ đạt, chỗ chưa đạt và cần phải khuyến khích động viên các em học sinh giỏi có niềm tin vào bài làm tiếp theo. Học sinh giỏi có thể tham khảo một số bài làm tốt của các anh chị học sinh giỏi khoá trước để học hỏi, rút kinh nghiệm.
Chúng tôi thường cố gắng chấm thật kĩ, chỉ thật rõ ưu, nhược của từng em và trả bài đúng hạn. Nhất là trong những kì tập huấn, học sinh viết bài mới, giáo viên trả bài cũ. Điều đó đem đến cho các em một tâm lí phấn chấn, được viết, được chấm, được nhận xét, được trả bài nhanh, từ đó, sẽ hăng hái, tích cực viết hơn, không còn cảm giác ngại. Để làm được điều đó, người giáo viên vô cùng vất vả. Bởi, mỗi bài chấm trung bình mất 1 giờ, chưa kể có những bài mắc quá nhiều lỗi, thời gian chấm là 1,5 ->2 giờ. Khi trả bài, chúng tôi thường chỉ nhận xét chung, nhấn mạnh đến những ưu điểm, sự tiến bộ, mục đích là để khích lệ, động viên học sinh, còn cụ thể từng em đã nhận xét kĩ trong bài.
Để giảm bớt sự vất vả, căng thẳng cho giáo viên khi chấm bài, chúng tôi thường tổ chức cho học sinh chấm chéo bài của nhau, đảm bảo nguyên tắc học sinh A chấm của học sinh B, học sinh B chấm của học sinh C… gọi là vòng 1. Sau đó, giáo viên chấm lại vòng 2. Làm như vậy, độ chính xác càng cao, giáo viên vừa đỡ mất thời gian, vừa giảm bớt được sự mệt mỏi. Hơn nữa, khi đọc và chấm bài của nhau, các em sẽ lần lượt thấy cái ưu, cái nhược của bạn, từ đó, sẽ rút ra những kinh nghiệm cho bản thân. Thực tế, bài chấm vòng 1 cho thấy, các em rất có trách nhiệm, chấm rất kĩ, nhận xét có khi hàng trang giấy và khá chính xác, có những lời phê rất quyết liệt, thẳng thắn, không e dè, kiêng nể, điểm số cho khá chắc tay. Khi giáo viên chấm lại vòng 2, có bài vênh không đáng kể, có bài không vênh. Bản thân học sinh cũng rất hứng thú khi được tập làm cô giáo. Tự chúng tôi thấy, cách làm này là rất có tác dụng, hiệu quả.
Trong quá trình chấm bài của học sinh, chũng tôi phát hiện phần chứng minh của các em thường không gắn với vấn đề nghị luận và cũng không làm sáng tỏ vấn đề. Trong những trường hợp như vậy, giào viên phải làm mẫu, viết mẫu để các em có thể nhận ra và khắc phục lỗi của mình. Hoặc giáo viên có thể đưa những bài văn viết tốt của các anh / chị khóa trên, những bài đạt giải nhất của những năm gần đây để các em tham khảo.
3.3. Bài viết tham khảo
Bài 1:
“Giá trị nghệ thuật là rất quan trọng. Bởi vì không có giá trị nghệ thuật thì không thể có tác phẩm nghệ thuật được. Nó là con số không”.
(Phạm Văn Đồng, "Về văn hoá văn nghệ" - NXB văn hoá 1976, tr 143)
Suy nghĩ của anh/ chị về ý kiến trên.
Bài làm
Trong một tác phẩm văn học, yếu tố nào là cơ sở tạo nên giá trị đích thực? Nội dung tư tưởng hay hình thức nghệ thuật? Đây thực sự là một câu hỏi khó. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng, trong cuốn "Về văn hoá văn nghệ" - NXB văn hoá 1976, tr 143 khẳng định "Giá trị nghệ thuật là rất quan trọng. Bởi vì không có giá trị nghệ thuật thì không thể có tác phẩm nghệ thuật. Nó là con số không". Liệu ta có thể coi đây là câu trả lời đúng đắn nhất cho câu hỏi ấy hay không?
"Tác phẩm nghệ thuật" là công trình nghệ thuật do người nghệ sĩ sáng tạo nên để phản ánh cuộc sống qua cách nhìn, suy nghĩ của bản thân mình. Nó luôn phải là một chỉnh thể thống nhất giữa nội dung thẩm mĩ và hình thức nghệ thuật. Còn "giá trị nghệ thuật" là những phẩm chất, chất lượng nghệ thuật kết tinh trong tác phẩm, khơi gợi những xúc cảm thẩm mĩ nơi người đọc. Nó thường biểu hiện ở cách lựa chọn chi tiết, từ ngữ, tổ chức kết cấu trong câu hay âm thanh trong thơ. Các cụm từ như "rất quan trọng", "không thể có", "là con số không" có tác dụng nhấn mạnh vai trò không thể thiếu của giá trị nghệ thuật: sự tồn tại của chất lượng, phẩm chất nghệ thuật quyết định sự tồn tại của mỗi tác phẩm văn chương.
Vậy thì vì sao Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng lại có thể khẳng định như vậy?
Trước tiên, nghệ thuật là phương thức tồn tại của tác phẩm. Nội dung luôn phải được kí thác ở một dạng thức cụ thể: một bài thơ hay một bài tuỳ bút, một truyện ngắn hay tiểu thuyết dài kỳ... Cũng như một linh hồn mãi mãi sẽ không thể là người nếu như không có hình hài, liệu có tác phẩm nào có thể hình thành mà không có phương thức tồn tại hay không? Chính dạng tồn tại sẽ định hình tiếng nói nghệ thuật của nhà văn trong tác phẩm, khiến nó không tan biến đi trong biển lời nói thông thường.
Thêm vào đó, mọi ý đồ tư tưởng, mọi tâm tư, tình cảm đều phải được nghệ thuật hoá thành hình tượng. Và để xây dựng thành công một hình tượng, nhà văn cần xác lập một hệ thống những chi tiết, hình ảnh, sắp xếp, dẫn dắt, liên kết chúng bởi các phương tiện, biện pháp đặc thù của thể loại và năng lực sáng tạo riêng của bản thân mình. Quá trình mô tả, phân tích những hình tượng ấy sẽ tạo nên giá trị nghệ thuật cho tác phẩm. Chẳng hạn, để kí thác những suy nghĩ của mình về xã hội thối nát thế kỷ XVIII, XIX, Nguyễn Du đã viết nên một tác phẩm truyện thơ 3254 câu, với một hệ thống hình tượng cụ thể như Thuý Kiều, Từ Hải, Tú bà, Sở Khanh, Hồ Tôn Hiến… Và qua quá trình xây dựng những hình tượng ấy, Nguyễn Du đã thể hiện khả năng miêu tả nhân vật bậc thầy của mình. Tác phẩm thơ đòi hỏi hạn chế về câu chữ, nên nhà thơ cũng chỉ khắc hoạ nhân vật bằng một vài nét phác thảo vô cùng sơ lược. Thế nhưng, ấn tượng về một Tú Bà "nhác trông nhờn nhợt màu da", một Từ Hải "chọc trời khuấy nước mặc dầu/Dọc ngang nào biết trên đầu có ai"… sẽ không bao giờ phai nhạt trong lòng độc giả.Nếu Nguyễn Du không xây dựng những hình tượng nghệ thuật ấy, "Truyện Kiều" vốn đã không thể hình thành. Nhưng ngoài ra, những hình tượng nghệ thuật trong "Truyện Kiều" còn có vai trò truyền đạt bức thông điệp mà nhà văn gửi gắm một cách sâu sắc hơn, tinh tế hơn. Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra bộ mặt xấu xa, thối nát của giai cấp thống trị, và một cách rất tự nhiên, ta sẽ đồng cảm, xót xa cho những kiếp người bạc mệnh như Vương Thuý Kiều.
Như vậy, nói một cách khái quát, nghệ thuật giúp nội dung tư tưởng được thể hiện rõ ràng hơn, cụ thể hơn và có khả năng tác động mạnh mẽ hơn tới người đọc. Đó là bởi nhờ nghệ thuật, những vấn đề phức tạp của cuộc sống, những tâm tư vốn rất sâu xa kín đáo của con người được khám phá, lí giải và trình bày trong một dạng thức sống động là thế giới hình tượng. Khi bước vào thế giới ấy, người đọc sẽ được tự mình trải nghiệm một cuộc sống, một tình huống chưa từng gặp hoặc đã gặp mà không có ý thức về nó. Chính sự trải nghiệm ấy giúp người đọc có thể tự mình cảm nhận, để rồi nhận xét, đánh giá, đúc rút những kinh nghiệm cho bản thân. Những rung động chân thành sẽ khơi dậy sự đồng cảm và những năng lực cảm xúc một cách tự nhiên, vô điều kiện.
Hơn thế nữa, bản thân nghệ thuật cũng là một giá trị tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm văn chương. Nghệ thuật không đơn thuần chỉ là thao tác, kĩ thuật mà còn là vấn đề của tài năng, của tư chất nghệ sĩ. Khi đạt đến độ tinh tế, nó sẽ đem lại tính thẩm mĩ cho tác phẩm, khiến tác phẩm đẹp hơn, hay hơn, hoàn thiện hơn. Truyện ngắn "Hai đứa trẻ" là một ví dụ điển hình. Cũng giống như hầu hết các tác phẩm khác của Thạch Lam, ở "Hai đứa trẻ" không có cốt truyện giàu kịch tính, những tình huống gay cấn và hồi hộp nhưng ta vẫn bị hấp dẫn bởi "tiếng trống thu không", tiếng còi tàu đêm nơi phố huyện - bởi nghệ thuật dẫn truyện, tả cảnh và miêu tả tâm trạng nhân vật rất tài tình, và bởi giọng văn nhẹ nhàng với chất thơ bàng bạc đặc trưng của Thạch Lam.
Đó là những lí do vì sao cố thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định "giá trị nghệ thuật là rất quan trọng" trong mỗi tác phẩm văn chương. Nhưng liệu có phải là quá vội vàng khi kết luận: Không có giá trị nghệ thuật, tác phẩm sẽ không tồn tại. "Nó chỉ là con số không"?
Nếu không có giá trị nghệ thuật, trước tiên, khái niệm "tác phẩm nghệ thuật" sẽ bị xoá bỏ. Bởi nghệ thuật là thuộc tính làm nên sự tồn tại của khái niệm này. Nhưng hơn thế nữa, không có giá trị nghệ thuật, tất cả các yếu tố khác cũng sẽ không có cơ sở hình thành, vì như đã nói ở trên, nghệ thuật là phương thức tồn tại duy nhất của tác phẩm. Và cuối cùng, thiếu đi giá trị nghệ thuật, ngay cả khái niệm "tác phẩm văn học" cũng không còn trọn vẹn. Tác phẩm sẽ không còn là một chỉnh thể đảm bảo sự thống nhất hữu cơ, biện chứng giữa hình thức nghệ thuật và nội dung tư tưởng. Thiếu đi giá trị nghệ thuật, tác phẩm sẽ chỉ là con số không.
Có thể nói, đây là một quan niệm đúng đắn vì nó xuất phát từ những hiểu biết sâu sắc về tầm quan trọng của nghệ thuật và đặc trưng bản chất của tác phẩm văn chương: Văn học là nghệ thuật ngôn từ, bởi thế nghệ thuật không thể thiếu trong bất kỳ tác phẩm nào.Tuy nhiên, cũng cần nói thêm rằng, Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ khẳng định tầm quan trọng của nghệ thuật chứ không tuyệt đối hoá vai trò của nó. Không có giá trị nghệ thuật sẽ không thể có tác phẩm không có nghĩa là giá trị nghệ thuật có thể tạo nên tác phẩm hoàn thiện. Cần tránh thái độ tuyệt đối hoá vai trò của nghệ thuật theo khuynh hướng "nghệ thuật vị nghệ thuật". Vì nghệ thuật chân chính phải phục tùng nội dung, chứa đựng và biểu hiện nội dung. Chỉ khi ấy, nghệ thuật mới thật sự có giá trị và đáng được trân trọng. Như vậy, nội dung và nghệ thuật phải có sự thống nhất hài hoà. Nội dung cần được biểu hiện bằng sức hấp dẫn của nghệ thuật, và ngược lại, nghệ thuật chỉ thật sự có giá trị khi nó biểu hiện nội dung có chất lượng cao.
ý kiến của Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng là bài học sâu sắc cho mọi người nghệ sĩ và cũng là một gợi mở cho tất cả chúng ta - những độc giả thưởng thức tác phẩm văn học: khi tiếp nhận văn chương, ta không chỉ cần cảm nhận bức thông điệp mà nhà văn gửi gắm mà còn nên chú ý khám phá những vẻ đẹp nghệ thuật trong tác phẩm. Chỉ có vậy, ta mới tiếp nhận trọn vẹn giá trị của tác phẩm văn chương.
Yếu tố nào tạo nên giá trị đích thực của tác phẩm văn học? Bạn đã trả lời được câu hỏi ấy chưa?! ./.
Bài 2
“Thế giới chẳng là gì, trật tự cũng không!
Nhà thơ thở than và lìa xa thế giới
Thế giới thật tuyệt vời, một nhà thơ khác nói
Và cũng lìa đời khi tuổi đang xuân
Người thứ ba chia tay với một thời dữ dội
Anh đã sống hết mình, cái chết chịu thua anh
Anh vĩ đại và tận cùng trung thực
Vạch cái xấu rồi vun cái tốt phân minh”
(Daghextan của tôi – Raxum Gamatop)
Bằng hiểu biết của mình về văn học. Anh/chị hãy bình luận vấn đề lí luận đặt ra từ bài thơ trên.
Bài làm
Bản chất của văn chương nghệ thuật là sự khám phá thế giới khách quan qua con mắt chủ quan của người nghệ sĩ. Cho nên, điều quan trọng là con mắt của nhà văn có thể khám phá, nhìn ra được điều gì trong cõi đời phức tạp. Vậy, cho tới tận cùng của cái đích nghệ thuật, văn chương muốn ánh mắt ấy thấu hiểu được giá trị nào trong thế giới kia ? Bằng việc đặt ra nhiều góc nhìn, đánh giá của nhiều nhà thơ, tác giả “Daghextan của tôi” (Raxum Gamatop) đã chỉ ra được câu trả lời cho văn chương cổ kim.
Bài thơ của Raxum Gamatop khép lại chỉ với tám câu thơ nhưng lại mở ra được ba quan điểm, tư tưởng nhìn nhận thế giới khác nhau của ba đối tượng nhà thơ trên văn đàn. Trước hết, đó là kiểu nhà thơ tiêu cực, nhìn thế giới một chiều, không hứng thú với bất kì vẻ đẹp nào.
“Thế giới chẳng là gì, trật tự cũng không” Ánh mắt của anh mang theo cái nhìn ích kỉ, tối tăm trong tâm hồn mà nhìn vào cả thế giới. “Thế giới chẳng là gì” đó là một sự phủ nhận đầy phiến diện về cuộc sống khách quan, người nghệ sĩ đã chẳng còn đủ nhiệt huyết, tâm và tài để nhìn ra ở đó vẻ đẹp thẩm mĩ bình dị hay tinh té, cao cả. Nhà thơ thứ hai trái lại với đó, anh nhìn vào thế giới chỉ toàn là màu hồng, lầu son:
“Thế giới thật tuyệt vời, một nhà thơ khác nói”
Người nghệ sĩ đã chẳng thể phân biệt được xấu, đẹp ở trên đời. Anh cho tất cả thế giới đều tuyệt vời, đẹp đẽ mà đắm chìm trong nó. Nhưng, dù khác nhau về cái nhìn, đánh giá thế giới, hai đối tượng nhà thơ trên đều nhận một kết quả cuối cùng “lìa xa thế giới”. Có thể hiểu, sự lìa xa cuộc đời ở đây là cái chết của tâm hồn nghệ sĩ, cái chết thiển cận, không nhận ra điều xấu để lánh xa, dần “lìa xa” mà anh nhận lấy đồng thời có thể là cái chết của bài thơ, của tác phẩm nghệ thuật. Một tác phẩm liệu có thể đi đến đâu khi không thỏa mãn được cho con người khao khát thẩm mĩ, thưởng thức cái đẹp hay không thể soi tỏ cho con người những góc khuất tăm tối, xấu xa của đời sống. Trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, việc lí tưởng hóa hay đánh giá một chiều đều là thứ thuốc độc mà người nghệ sĩ phải lánh xa. Một nhà thơ tiêu cực, chỉ nhìn ra cái xấu để sợ hãi, than thở mãi mãi chẳng thể dẫn người ta tìm đến con người đi tìm trong đời cái đẹp của tự nhiên, tình yêu và ngay cả vẻ đẹp trong chính bản thân họ. Bản chất của văn chương nói chung và thơ ca nói riêng là hành trình đi tìm giá trị thẩm mĩ mà với con mắt tiêu cực kia, anh chẳng thể dẫn người ta tìm đến đâu cả. Độc giả tìm đến thơ với mong muốn nhận được bài học trông-nhìn- thưởng thức, để tìm ra trong thế giới muôn màu kia những niềm vui, hi vọng, lạc quan sống. Cho nên, khi ngay cả người trong vai trò dẫn đường thấy “thế giới chẳng ra gì” anh đã tìm đến cái chết của nghệ thuật. Nếu như trước đây, nhà thơ Trần Đăng Khoa không thể thấy ở đời một vẻ đẹp bình dị, tinh tế:
“Ngoài thềm rơi chiếc lá đa
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng”
Hay Tố Hữu không tìm thấy tong cuộc sống một tình cảm chân thành, mặn nồng giữa người với người:
“Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”
Thì có lẽ, thơ ca đã chết ngay từ khia kịp nảy nở và tỏa hương. Nhưng, nói như vậy cũng không có nghĩa là nhà thơ chỉ chăm chăm kiếm tìm cái đẹp, lí tưởng hóa “thế giới tuyệt vời” mà bỏ quên con đường vạch ra cái xấu, cái ác. Chức năng của văn chương là phải giáo dục con người, hướng con người tới những giá trị chân – thiện – mĩ tốt đẹp, đồng thời chỉ ra cái xấu để con người loại bỏ, tránh xa. Thứ văn chương chỉ làm con người ta ảo tưởng, mợ mộng, sống trong thế giưới màu hồng hóa ra lại trở thành những điều giả dối, che mắt mà thôi. Con mắt của nhà thơ phải là con mắt trung thực với chính mình và cuộc đời, anh phải dùng ngòi bút của mình để cải tạo xã hội “diệt bạo, trừ gian”. Chỉ có như vậy, bài thơ mới trở thành những bài học sống, đưa con người ra khỏi chốn tối tăm, tàn bạo. Như vậy, cả việc coi “cuộc đời chẳng là gì” là lí tưởng hóa cuộc sống đều đem đến những cái chết tận diệt của thơ ca cổ kim. Vậy, thơ ca cần một cái nhìn như nào của người nghệ sĩ ?
Con mắt của nhà thơ phải là một cái nhìn toàn diện, trung thực, nhìn ra ở đời tất cả những biến thái, ngõ ngách tinh rõ nhất của nó:
“Anh đã sống hết mình, cái chết chịu thua anh
Anh vĩ đại và tận cùng trung thực
Vạch cái xấu, vun cái tốt phân minh”
Cuộc đời của con người vốn vô cùng phong phú, phức tạp, nó đan xen cả điều thiện và điều ác. Điều quan trọng không chỉ là anh nhận ra được đâu là tốt, đâu là xấu mà còn phải giúp cho độc giả thấu hiểu, cảm nhận vẻ đẹp, vun mầm nó và tránh xa, gạt bỏ điều xấu xa. Con mắt của nhà thơ luôn phải là con mắt tinh đời, người nghệ sĩ không chỉ nhìn bằng con mắt hời hợt, bề ngoài mà phải nhìn kĩ, nhìn sâu vào bên trong bản chất sự việc, con người. Hơn thế nữa, bằng trải nghiệm, sự dày dặn của mình nhà thơ còn biết khám phá cái tốt bên trong cái xấu, cái xấu ẩn bên trong cái tốt. Để có được cái nhìn đa diện, tinh tế, sâu sắc về cuộc đời, người nghệ sĩ trước hết phải gắn bó, sống hết mình với thế giới xung quanh. Việc cái nhìn của anh sẽ sâu sắc hay hời hợt phụ thuộc trực tiếp vào mối quan hệ của nhà thơ với cuộc đời. Người nghệ sĩ phải “lặn lội trong những chốn lầm tham, cầm bút dưới những gian khó” chứ không bao giờ là sự sáng tạo “ngôi trên lầu hồng” hay kiến tạo bởi trí tưởng tượng bé nhỏ. Trước khi truyền cho con người những tình cảm yêu thương, rung động thẩm mĩ hay lòng căm thù cái ác, anh phải yêu trước, hận trước. Nhà văn không thẻ giả dối với chính mình, người cầm bút phải nhìn nhận, đánh giá một cách trung thực, vĩ đại vì cái ta chung của tất cả mọi người. Có như vậy, tư tưởng, góc nhìn của anh mới chân thực phổ quát và mang giá trị nhân sinh, nhân đạo. Văn chương nói chung và thơ ca nói riêng bao giờ cũng phải có giá trị thẩm mĩ và giá trị nhân thức, giáo dục. Vì thế, việc khai thác, tìm ra cái đẹp và chỉ ra cái xấu phải cùng lúc song hành với nhau tạo nên giá trị tác phẩm. Có nghĩa rằng, trong quá trình làm thơ, anh vừa trung thực, chân thành nhưng cũng phải vừa giữ được cái “cong” của một phẩm thơ hay, kết hợp hiện thực và chất sáng tạo.
Ngay từ văn học trung đại, mặc dù chưa trình bày một cách khoa học theo cơ sở lí luận hiện đại nhưng trong tư tưởng và quan niệm sáng tạo của các nhà thơ tiến bộ đã nhận thấy và thể hiện điều nay. Nổi bật trong đó là các tác phẩm của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Bài thơ “Độc Tiểu thanh kí” vừa vang lên như một khúc ca tôn vinh vẻ đẹp con người, thiên nhiên, vừa là tiếng nói đanh thép, dội vào thế lực đen tối của xã hội phong kiến, đòi quyền sống cho con người. Trước hết, đó là sự ngợi ca vẻ đẹp tài sắc vẹn toàn của người con gái Trung Hoa – Tiểu Thanh:
“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư”
Bài thơ bắt nguồn từ cảm hứng về sự thay đổi, lụi tàn đối lập của cảnh xưa và cảnh này, người xưa với xay. Nhà thơ thể hiện sự đau đớn, thương tiếc một cảnh đẹp Tây Hồ nay đã hóa gò hoang. Động từ “tẫn” đã diễn tả, xoáy sâu một sự hủy hoại tới tận cùng, tận diệt. Nó gây trong lòng người bao tiếc nuối, vấn vương. Càng ngậm ngùi nhớ về quá khứ bao nhiêu, lời thơ lại càng trở nên trân trọng, cảm thông với vẻ đẹp bị lụi tàn, vùi dập bấy nhiêu. Hai từ “hoa uyển” không chỉ diễn tả một cảnh đẹp viên mãn, thơ mộng mà còn gợi ra một vẻ đẹp diễm lệ, yêu kiều của Tiểu Thanh – người con gái sống ở Cô Sơn, cạnh Tây Hồ. Chính hành động đầy chân thành, khao khát “độc điếu”, một mình tìm đến tri âm, chia sẻ với số phận của người phụ nữ sống cạnh đó ba trăm năm về trước đã khẳng định mong muốn được khám phá, cảm nhận vẻ đẹp đã xa của con người. Cho dù rằng, hiện tại nhà thơ đang đối diện với một “thành khư”, một mảnh di cảo mong manh, một thiên nhiên cô độc, hoang tàn nhưng ẩn sâu trong khát khao đầy nhân đạo của Nguyễn Du, ông đang tri âm, tìm lại vẻ đẹp xưa cũ. Đó chẳng phải là con mắt tinh tế nhìn ra được cái đẹp ngay cả trong cái xấu hay sao? Cảnh tàn nhưng ẩn chứa một con người, một cốt cách, một tâm hồn đẹp. Hình ảnh “chi phấn” và “văn chương” là nhưng cách nói ẩn dụ thể hiện sự trân trọng với nhan sắc và tài năng của người con gái tài hoa mà bạc mệnh. Nguyễn Du đã nhìn ra được trong mảnh di cảo còn vương xót kia một Tiểu Thanh xinh đẹp, sắc nước hương trời, một ngòi bút văn chương tài hoa và tinh tế. Cang thấy được vẻ đẹp, khám phá vẻ đẹp tài sắc của nàng bao nhiêu, Nguyễn Du lại càng trân trọng, thương cảm cho nàng bấy nhiêu. Chính ngòi bút của nhà thơ đã dẫn người đọc cùng yêu và cùng thương với “con mắt nhìn xuyên sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời” của mình. Nhưng có phải chăng trong lời ngợi ca tài sắc của Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã lí tưởng hóa thế giới theo cái cách “thế giới thật tuyệt vời, một nhà thơ khác nói” hay không? “Chi phấn” ấy nhưng lại là “chi phấn” phải “chôn còn hận”, “văn chương” tài sắc ấy nhưng là “văn chương” mà “đốt còn vương”. Rõ ràng con mắt của nhà thơ đã nhìn rất sâu vào cuộc đời và con người. Ông không chỉ ra bất kì một thế giới “chẳng là gì” hay thế giới “thật tuyệt vời”, chúng đan xen vào nhau, tạo nên cả một sự sống muôn màu, muôn vẻ, tốt xấu đan cài.
Nguyễn Du đã trực tiếp vạch ra trong số phận con người một nghịch lí “tài hoa bạc mệnh”, “tài mệnh tương đố”. Đó chính là ngòi bút trung thực, chân thành, vạch ra cái xấu phân minh:
“Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kì oan ngã tự cư
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”
Trong cái tối tăm, mịt mù của xã hội phong kiến bất công, người ta cứ mòn mỏi đi tìm lời giải cho số kiếp nghiệt ngã của những con người tài hoa. Hóa ra, tất cả nỗi oan khiên họ nhận được không phải đi từ một rủi ro, bất trắc hay lỗi lầm nào, họ bất hạnh, gian truân bởi một “nết phong nhã”. Vĩ “nết phong nhã” mà mắc oan khiên, đó là cái tàn bạo, bất công đến tận cùng của một xã hội, thời đại xấu xa, mục rũa. Nguyễn Du đã thẳng thắn, trung thực nhìn vào hiện trạng ấy của con người mà cất lên tiếng nói lên án, đòi lại công bằng, nhà thơ tự nguyện, chân thành, cho mình là kẻ đồng cảnh ngộ với kiếp tài hoa, bạc mệnh mà cảm thông, sẻ chia, tri âm. Bằng lòng của một người nghệ sĩ vĩ đại, sống hết mình đã tỏa sáng lời thơ đầy nhân văn, nhân đạo. Không chỉ vạch ra cái xấu, tiếng thơ, tiếng lòng Tố Như còn vươn lên đòi quyền sống, khát khao tri âm của con người giữa cõi đời đen bạc:
“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”
Đó là khát khao chân chính của một nhà thơ “sinh bất phùng thời”, “tài hoa bạc mệnh” như bao con người khác trong xã hội cũ. Đó không chỉ dừng lại là tiếng nói vạch trần, lên án cái xấu mà còn mang hơi hướng đem con người tới những ước mơ cao cả, đẹp đẽ hơn trong mịt mù, tối tăm cuộc đời.
Như vậy, bài thơ “Độc Tiểu Thanh kí” thực sự trở thành minh chứng tiêu biểu cho giá trị đích thực của thơ ca chân chính: nâng đỡ cái tốt, loại bỏ lên án cái xấu trong đời. Cái nhìn của Nguyễn Du là cái nhìn toàn diện, đa chiều, hướng tới cuộc đời muôn hình vạn trạng.
Chắt chiu hàng ngàn hạt bụi quý từ cuộc sống, đôi mắt nhà văn đã thu vào bao biến chuyển tinh vi của thế thái nhân tình. Và anh, những người nghệ sĩ chân chính, tận cùng trung thực sẽ trở thành người nâng giấc cho con người trên con đường hướng thiện và hướng thượng
(Nguyễn Ngọc Diệp – VK14)
Bài 3:
Có ý kiến cho rằng: “Văn chương phát hiện đời sống qua lăng kính thẩm mĩ và sáng tạo văn chương là nỗ lực tìm kiếm từ những phương thức thẩm mĩ để biểu đạt sự phát hiện ấy”
Bằng hiểu biết văn học anh/chị hãy bình luận ý kiến trên
Bài làm
Say mê trong thế giới nghệ thuật, đắm chìm trong những mảnh đời, mảnh tâm hồn đẹp đẽ,… mà không biết tự bao giờ văn chương đã hóa hồn ta thành máu và nước mắt muôn đời. Nghệ thuật cho ta thưởng thức những cái đẹp không chỉ là vẻ đẹp nội tại mà còn luôn ẩn hiện trong sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa nội dung và hình thức. Bởi vậy có ý kiến cho rằng: “Văn chương phát hiện đời sống qua lăng kinh thẩm mĩ và sáng tạo văn chương là nỗ lực tìm kiếm từ những phương thức thẩm mĩ để biểu đạt sự phát hiện ấy”
Nếu như các ngành khoa học coi tính thẩm mĩ như một yếu tố thứ hai, soi xét trên cơ sở có ích với đối tượng thì nghệ thuật đặc biệt là văn học – một loại hình nghệ thuật thuộc kiến trúc thượng tầng, coi thẩm mĩ như một mục tiêu cao cả nhất. “Văn chương phát hiện đời sống qua lăng kính thẩm mĩ” hay nói cách khác nhà văn nhìn cuộc sống qua cái nhìn mang tính thẩm mĩ và tác phẩm văn học là sản phẩm của quá trình nhà văn đi tìm kiếm, phát hiện cái đẹp trong đời sống. Phương diện nội dung của văn học nghệ thuật bởi vậy tất nhiên không thể tách khỏi tính thẩm mĩ nhưng nếu chỉ nhìn đời sống qua “lăng kính thẩm mĩ” thì có lẽ cái đẹp trong văn học nghệ thuật sẽ thiếu đi vài phần ý nghĩa và như một lẽ đương nhiên sẽ không thể dễ dàng lay động trái tim bạn đọc. Bởi vậy “sáng tạo văn chương còn là nỗ lực kiếm tìm những phương thức thẫm mĩ để biểu đạt sự phát hiện ấy” những tình cảm thẩm mĩ muốn bộc lộ, thẻ hiện được hết ý nghĩa củ a mình cần phải tìm đến một hình thức hoàn mĩ để truyền tải “biểu đạt sự phát hiện ấy”. Phương diện thẩm mĩ tồn tại trong cả nội dung và hình thức của một tác phẩm nghệ thuật chứ không phải sự tồn tại xuôi chiều, đơn nhất trong nội dung, hình thức. Như vậy, ý kiến đã đề cập đến giá trị thẩm mĩ của văn học. Đồng thời chỉ ra mối quan hệ giữa nội dung và hình thức trong việc biểu đạt tính thẩm mĩ ấy.
Ý kiến trên thật sâu sắc, xác đáng, là một lời khái quát lại quá trình phản ánh cuộc sống của nhà văn, đồng thời chỉ ra cách mà người nghệ sĩ truyền tải nội dung ấy trong tác phẩm. Chính bởi ý nghĩa khái quát như vậy mà lời nhận định trên có ý nghĩa định hướng cho mỗi nhà văn trong quá trình sáng tác và lao động nghệ thuật.
Trước hết, xuất phát từ đặc trưng văn học, là một hình thái ý thức xã hội thẩm mĩ. Bởi vậy, mọi đối tượng phản ánh của văn học đều được soi chiều dưới góc độ thẩm mĩ. “Văn chương phát hiện đời sống qua lăng kính thẩm mĩ” nhưng điều này không đồng nghĩa với nghệ thuật được phép tô hồng hiện thực cuộc sống. Mà “lăng kính thẩm mĩ” chỉ là điểm nhìn của người nghệ sĩ trước cuộc đời. Nói cách khác sự phản ánh trong nghệ thuật luôn trung thành với những gì vốn có nhưng người nghệ sĩ trong quá trình lao động sáng tạo phải tìm ra những vẻ đẹp khuất lấp, những cái đẹp đang hiện hữu trong cuộc sống này. Bằng một tâm hồn nhạy cảm, nhà văn đã nhận thấy ở cuộc sống biết bao nhiêu vẻ đẹp. Nghệ thuật hướng người ta tới những điều chân thiện mĩ nên sự phản ánh cái đẹp như một điều tất yếu của văn chương. Nhà văn, nhà thơ như con ong chăm chỉ, kiếm tìm trong cuộc sống những bông hoa đẹp nhất, hút từ nhụy hoa thứ mật ngọt tinh chất từ đó, hình thành lên một cái đẹp mang tính lí tưởng. Nghệ thuật thỏa mãn tối đa nhu càu thưởng thức cái đẹp của con người. Do đó, văn học biết khơi dậy thị hiếu thẩm mĩ, những tình cảm lớn, niềm vui lớn. Đến với văn học, ta như được tiếp xúc với cái đẹp từ bản thân đời sống. Thiên nhiên chính là biểu hiện rõ nhất cho sự phản ánh áy trong văn chương. Bản thân thiên nhiên đã là cái đẹp với sức sống nội tại mãnh liệt nhất, cũng là mảnh đất màu mỡ cho nhà văn khai thác. Trong thơ cổ, thiên nhiên mang kích thước vũ trụ và thường được miêu tả như một bức tranh tĩnh lặng. Cảnh vật thiên nhiên được khắc họa bằng đôi nét chấm phá, cốt ghi lấy cái linh hồn của vật. Cũng là gió ấy, trời nước ấy nhưng thiên nhiên hiện lên trong mỗi tác phẩm một khác lạ. Ai chẳng yêu vần thơ này của Nguyễn Trãi:
“Nước biếc non xanh, thuyền gối bãi
Đêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu”
Là bến nước hay là bến thơ? Dường như không có chút bụi trần nào làm vẩn đục khung cảnh ấy. Cảnh vật hiện lên như một bức tranh sơn thủy hữu tình. Bằng lăng kính thẩm mĩ của mình, NT đã đem đến cho ta một cảnh đẹp tuyệt sắc. Với “nước biếc, non xanh” phép phối sắc thật tài tình, một vẻ đẹp thanh nhã hiện lên trước mắt chúng ta. Con thuyền xuất hiện trong khung cảnh ấy với cử chỉ “gối bãi” thật lặng lẽ. Cảnh tĩnh lặng như không một chút dao động nào cả. Cả một bầu không khí thanh sạch, mơ mộng được mở ra. Nhà thơt tả cảnh đêm mà sao ta vẫn thấy trong thơ lung linh ánh sáng – thứ ánh sáng tuyệt diệu tỏa ra từ sắc “nguyệt bạc” Chủ thể trữ tình không đối diện với người đọc bằng cái tôi cá thể mà nói về mình như nói về một khách văn chương. Thi nhân thả hồn vào thiên nhiên, say đắm thiên nhiên, ung dung, lặng lẽ như đứng ngoài dòng chảy thời gian. Ức Trai giao hòa với thiên nhiên với cảnh vật, đó là cách phát hiện của Nguyễn Trãi về cuộc sống. Một cái nhìn mang đầy tính thẩm mĩ.
Nhưng cái đẹp trong nghệ thuật không chỉ tồn tại như một khách thể tự nó, cái đẹp là thẩm mĩ trong nghệ thuật nhiều khi không xa rời cái xấu, cái vẻ ngoài không ưa nhìn. Tài năng của nhà văn được thể hiện một cách trọn vẹn và đầy đủ nhất khi nhìn thấy trong cuộc sống nhưng vẻ đẹp khuất lấp, ẩn ngay trong cái xấu hay ở những chỗ khó nhìn ra nhất. Bằng lăng kính thẩm mĩ, nhà văn không chỉ hướng tới cái đẹp ở tính vĩ mô mà còn ở sự vi mô, trong những điều tưởng như bình dị và đời thường nhất. Bằng tính thẩm mĩ nghệ thuật mài sắc các giác quan của ta, giúp ta nhận ra những vẻ đẹp của cuộc sống, của con người. Ngay từ mở đầu truyện “Hai đứa trẻ”, Thạch Lam đã đem lại cho ta nhưng ẩn tượng đầy tinh tế và nhẹ nhàng khi nói về cảnh sắc thiên nhiên nơi phố huyện. “Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ từng tiếng vang lên gợi buổi chiều. Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”. Có cái gì thật tĩnh lặng, hiu hắt. Thạch Lam đã lựa chọn thời khắc ngày tàn để tô đậm thêm vẻ nghèo nàn, tăm tối nơi phố huyện. Nó khơi lên trong lòng ta những nỗi buồn man mác, khó diễn tả.
Màu đỏ rực của mặt trời như nhuộm cả không gian, trên bầu trời ấy điểm “những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn” nét đẹp thơ mộng nhưng có gì thật ảm đạm. Đêm đã về, ngày đã tàn, mọi thứ nơi phố huyện càng trở nên hiu hắt hơn bao giờ hết. “Chiều, chiều rồi. Một buổi chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng, theo gió nhẹ đưa vào”. Cái buồn của hồn quê như thấm vào cảnh vật khiến cho nó cũng mang một điệu buồn man mác. Vẫn bút pháp lấy động tả tĩnh quen thuộc của văn học trung đại tả tiếng ếch, nhái, tiếng muỗi không những không khiến cảnh vật mang nét tươi vui hơn mà càng tô đậm nét yên tĩnh, buồn tẻ nơi phố huyện. Văn chương phát hiện đời sông qua lăng kính thẩm mĩ bằng cách đó, ngay cái đẹp nghèo nàn nhất, u ám nhất cũng được người nghệ sĩ phát hiện ở những cái đẹp mang tính hài hòa. Bởi vậy, nó đã đi vào lòng bạn đọc như một điệu vỗ tâm hồn con người ta êm ái. dịu nhẹ mà lắng sâu.
Thế nhưng nếu chỉ dừng lại ở việc phản ánh đời sống một cách thẩm mĩ không thôi thì chưa thể nói được toàn diện về tính thẩm mĩ trong văn học nghệ thuật. Sự phản ánh thẩm mĩ luôn được tiến hành trong quá trình kiếm tìm những hình thức hoàn mĩ và thế giới nghệ thuật của nhà văn chỉ khi tìm được ngôn ngữ nghệ thuật và một hình thức đẹp thì mới được biểu hiện ra. Tách rời sự hài hòa, cân đối, tính nhạc điệu,… thì không thể hình thành hình tượng nghệ thuật. Ngay như trong tác phẩm “Hai đứa trẻ” sự phản ánh thẩm mĩ cũng không tách rời một hình thức thẩm mĩ “Sáng tạo văn chương là nỗ lực kiếm tìm nhưng phương thức thẩm mĩ để biểu đạt sự phát hiện ấy”. Thạch Lam đã dụng công khi viết những câu văn giàu tính nhạc như “Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”. Đọc câu văn ta thấy nhẹ nhàng, êm dịu như một bản nhạc. Nhà văn đã lựa chọn cách tổ chức câu văn, lựa chọn ngôn từ sao cho phù hợp nhất với tính thẩm mĩ trong nội dung để biểu hiện và từ đó tính thẩm mĩ trong nghệ thuật được hình thành. Khi bạn đọc tiếp xúc với tác phẩm văn học thì yếu tố đầu tiên mà bạn đọc tiếp xúc chưa phải nội dung mà là hình thức. Bởi vậy, hình thức có đẹp thì nội dung mới được truyền tải một cách đầy đủ và trọn vẹn. Hơn thế nữa, văn chương biểu hiện tính thẩm mĩ qua hình tượng nghệ thuật mà hình tượng nghệ thuật vốn lấy ngôn từ làm chất liệu. Để thể hiện được nét cụ thể, cảm tính của hình tượng, người nghệ sĩ không thể không sáng tạo ra một hình thức phù hợp để truyền tải. Nếu coi nội dung như một dạng chất lỏng thì hình thức chính là thứ định hình dạng khối của nó. Hình thức càng đẹp càng dễ tiếp cận người đọc và càng dễ biểu hiện nội dung một cách tinh tế. Ở phương diện này, thơ Hai-cư chính là một minh chứng rõ nét nhất. Lựa chọn lối viết giản dị là sự lựa chọn thông minh để biểu hiện những cái đẹp giản dị, đời thường của cuộc sống. Lời thơ của Ba-sô cứ vương vấn ta mãi:
“Dưới cây lao xao
Chén canh, đĩa cá
Đều vương anh đào”
Bài thơ mở ra một bức tranh thiên nhiên với vẻ đẹp thanh nhã nhưng lại ám ảnh hồn ta đến vô cùng. Sở dĩ hình tượng thiên nhiên trong bài thơ có sức ám gợi chúng ta đến thế là bởi tài năng của người nghệ sĩ đã sáng tạo ra một hình thức phù hợp mà Ba-sô muốn truyền tải. Những câu thơ ngắn, những từ gợi cho ta nhiều liên tưởng. Vừa có tiếng lao xao, vừa gọi âm thanh trong cái lao xao ấy là ẩn chứa cái lao xao trong hồn người, có cả những thổn thức, băn khoăn. Thi sĩ đã mô tả một bức tranh đơn sơ, mộc mạc và thanh bần, một bữa cơm đảm bạc nhưng chính những cánh hoa anh đào vương vào đã tạo nên một bữa tiệc hoa. Bài thơ này của Ba-sô đã lựa chọn loại hình cảm thức Karumi để biểu hiện. Một cảm thức thanh thoát, nhẹ nhàng với phong thái ung dung, tự tại của nhân vật trữ tình. Dắt ta đi qua vườn chữ nghĩa nhỏ hẹp, bài thơ đã đưa ta vào nhưng giây phút thần tiên, thăng hoa của cuộc đời. Ba-sô đã nhắc hộ mọi người phải có những phút giây để tâm hồn lắng động, siêu thoát thì mới cảm thức được cái đẹp của thiên nhiên.
Như Leonop Leonit đã từng viết: “Mỗi tác phẩm là một phát minh về hình thức, một khám phá về nội dung”. Tuy cùng yêu cầu tính thẩm mĩ nhưng không thể tách hình thức ra khỏi nội dung, cũng không thể tách nội dung ra khỏi hình thức. Bởi lẽ trong nội dung đã chưa đựng một hình thức mà chỉ hình thức ấy mới đảm bảo tính thẩm mĩ của nội dung. Và ngược lại, môt hình thức cũng chứa đựng nội dung nhất định. Một thể thơ như thể lục bát chỉ có thể phát huy hết tác dụng của nó khi biểu đạt những nội dung như lời ru, điệu than. Thơ lục bát phù hợp nhất khi con người ta diễn đạt những nội dung tình cảm thiết tha, đằm sâu. Bởi vậy, nó rất khó diễn đạt những nội dung nghiêng về chất hùng biện, suy tưởng. Mô hình thơ lục bát tự nó đã chứa đựng một thế giới quan không thể thay thế. Hình tượng văn học là chất liệu phản ánh nội dung, nhưng hình tượng ấy không chỉ mang đến cho người đọc khoái cảm trước vẻ đẹp đời sống mà còn khơi dậy những khoái cảm ở vẻ đẹp chất liệu, các phương thức, phương tiện nghệ thuật. Mỗi nhà văn chân chính bao giờ cũng mang đến cho văn học một tiếng nói mới, trong cái nhìn mới trước vẻ đẹp đời sống. Cho nên, văn học giúp ta làm giàu kho kinh nghiệm thẩm mĩ, nó mài sắc giác quan của ta giúp ta nhận ra những cái đẹp tồn tại trong thế giới. Cứ như vậy, cái đẹp trong nội dung và cái đẹp trong hình thức khi kết hợp nhuần nhuyễn, hài hòa sẽ tạo nên giá trị cho tác phẩm văn học và tính thẩm mĩ trong tác phẩm văn học mới được bộc lộ, thể hiện một cách đầy đủ nhất.
Nhưng cũng phải nói thêm, phương diện thẩm mĩ mà nhà văn nhìn qua lăng kính chủ quan không thể chỉ là đời sống hay thiên nhiên đơn thuần. Mà đó còn là sự phát hiện những vẻ đẹp ẩn dấu tiềm tàng bên trong tâm hồn con người. Ấy mới là cái đẹp dồi dào và phong phú nhất. Vì xét đến cùng, điểm xuất phát hay đích đến của văn học đều vì con người, hướng tới con người. Trong mọi tác phẩm văn học, con người luôn là trung tâm kết tinh những mối quan hệ, những giá trị. Bởi vậy là dù viết về thiên nhiên thì tác phẩm vẫn không bao giờ vắng bóng chủ thể trữ tình. Thấp thoáng trong đêm trăng của Nguyễn Trãi vẫn là hình ảnh “khách lên lầu”, cảnh chiều tàn của phố huyện được nhìn qua đôi mắt Liên và sau bữa tiệc hoa kia là dáng hình con người – chủ thể trữ tình với phong thái ung dung, tự tại đang thưởng thức bữa tiệc hoa. Thiên nhiên không hề vắng bóng trong nghệ thuật của bất kì thời đại nào. Nhưng thiên nhiên tái hiện trong nghệ thuật không phải những khách thẻ tự nó mà đặt trong mối quan hệ với con người. Thiên nhiên khúc xạ tâm hồn, tình cảm con người. Khi miêu tả thiên nhiên, người nghệ sĩ không tái hiện vẻ đẹp tạo hóa mà còn bộc lộ, hiện diện mình qua thiên nhiên, đời sống.
Đến đây, có thể thể khẳng định một cách chắc chắn rằng ý kiến trên là một lời nhận định đúng đắn, sâu sắc. Bằng tính khái quát của nó đã định hướng cho người nghệ sĩ trong lao động nghệ thuật phải luôn tìm và phát hiện những vẻ đẹp và truyền tải nó bằng một hình thức đậm tính thẩm mĩ. Phải sáng tác với cả tâm và tài. Bạn đọc phải căng lọc mình ra trên trang giấy, thưởng thức, thấu hiểu thông điệp của nhà văn.
Mặt trời lặn rồi lại mọc, mặt trăng khuyết rồi lại tròn. Nhưng ánh sáng tỏa ra từ tác phẩm nghệ thuật vẫn mãi bất tử với thời gian bởi tính thẩm mĩ của nó. Phải chăng?
(Vũ Thùy Dương – VK14)
4. Kết quả thực nghiệm
Trong giờ học, học sinh chăm chú nghe giảng. Học sinh hăng hái trình bày quan điểm.
Điều quan trọng là học sinh nắm vững kỹ năng vận dụng vào từng dạng bài rất hiệu quả. Học sinh chủ động vận dụng kiến thức để làm bài, không phụ thuộc vào văn mẫu. Hướng dẫn kĩ năng như vậy, học sinh rất linh hoạt, sáng tạo trong tạo lập văn bản.
Sau mỗi giờ học, giáo viên phát phiếu điều tra để đánh giá kết quả học tập
Hiểu bài sâu, có thể vận dụng kiến thức đã học
|
Hiểu sơ lược, chưa vận dụng được
|
Không hiểu bài
|
Rất hứng thú trong giờ học, tích cực suy nghĩ, phát biểu
|
Có hứng thú
|
Không có hứng thú
|
92%
|
8%
|
0%
|
75%
|
25%
|
0%
|
Kết quả công tác bồi dưỡng học sinh giỏi cấp tỉnh và Quốc gia sau một khóa học như sau :
1. Cấp Quốc gia
Tổng số giải : 08 giải
- Giải Nhất : 01 giải
- Giải Nhì : 03 giải
- Giải Ba :02 giải
- Giải khuyến khích : 02 giải
2. Cấp tỉnh
Tổng số giải : 14 giải
- Giải Nhất : 02 giải
- Giải Nhì : 07 giải
- Giải Ba : 04 giải
- Khuyến khích : 01 giải
4. PHẦN KẾT
Dạy Lí luận văn học đã khó. Hướng dẫn học sinh kỹ năng làm bài Lí luận văn học hay càng khó. Nó đòi hỏi người giáo viên không chỉ có kiến thức, kinh nghiệm, mà cần có phương pháp gợi mở, dẫn dắt để lôi cuốn, thu hút học sinh tìm ra ý nghĩa thực tế của vấn đề. Làm được điều này cả học sinh và giáo viên đều được nâng cao trí tuệ và bồi đắp tâm hồn, điều chỉnh lối sống, cách nghĩ để sống đúng hơn, tốt hơn, Người hơn.
Trên đây là một số kĩ năng cũng như hướng dẫn của chúng tôi đưa ra với mục đích đầu tiên là giúp các em học sinh hiểu rõ nắm chắc hơn nhưng kiến thức, kĩ năng cơ bản, thoát khỏi tình trạng làm bài một cách cảm tính, trực giác. Trong phạm vi đề tài chúng tôi đã cố gắng đưa ra nhữn kĩ năng cơ bản nhất, dễ hình dung nhất, đi kèm với đó có cả ví dụ minh họa và một số lưu ý. Từ đó, chúng tôi mong muốn các em học sinh, đặc biệt là học sinh giỏi được bồi dưỡng và nâng cao các kĩ năng từ đó áp dụng một cách linh hoạt vào các đề bài LLVH cụ thể.
Hơn nữa, bên cạnh sự nỗ lực, cố gắng kinh nghiệm trên của tôi chắc chắn còn sự thiếu sót về mặt kiến thức, kỹ năng cũng như kinh nghiệm. Bởi vậy, tôi rất mong muốn nhận được sự sẻ chia và đóng góp ý kiến từ đồng nghiệp để hoàn thiện hơn về mảng đề tài trên, để công việc giảng dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi ngày một đạt kết quả tốt hơn.!.
Lão Tử có câu rằng: “Cuộc hành trình ngàn dặm nào cũng phải bắt đầu bằng những bước đi nhỏ bé đầu tiên”. Liệu rằng chúng ta có thể thành công, khi bước đầu tiên đã không trụ vững? Để làm nên thành công cho bài văn Lí luận Văn học vấn đề cốt yếu chính nằm ở những kĩ năng cơ bản nêu trên.
5. Kiến nghị
- Bộ GD&ĐT : Không
- Sở GD&ĐT : Không
- Trường THPT Chuyên : Không
6. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Từ điển từ và ngữ Hán Việt.
2. Từ điển Tiếng Việt.
3. Rèn kĩ năng làm văn nghị luận, Bảo Quyến, NXB Giáo Dục, Hà Nội, 2007.
4. Trần Đình Sử : Thi pháp văn học trung đại.NXB. Giáo dục 1999
5. Nguyễn Đăng Mạnh, « Nói ngắn về truyện rất ngắn », Thế giới mới số 69/1993
6. Nhiều tác giả ( 2009), Lí luận văn học tập 1 : Văn học – nhà văn và bạn đọc, NXB Đại học Sư phạm
7. Nhiều tác giả ( 2009), Lí luận văn học tập : Tác phẩm và thể loại văn học,
NXB Đại học Sư phạm
8. Nhiều tác giả ( 2009), Lí luận văn học tập : Tiến trình văn học, NXB Đại học Sư phạm
9.Trần Đình Sử,( 2008) Lý luận và phê bình văn học, NXB Giáo dục
10. Nguyễn Đăng Manh ( 2020), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, NXB Giáo dục.