image banner
Chuyên đề Nguyễn Dữ

NGUYỄN DỮ VÀ TRUYỀN KÌ MẠN LỤC

A. Tác giả Nguyễn Dữ

- Nguyễn Dữ (Nguyễn Tự) quê ở Thanh Miện, Hải Dương; chưa rõ năm sinh năm mất, theo suy đoán nhiều khả năng Nguyễn Dữ sinh vào cuối thế kỉ XV, sống vào nửa đầu thế kỉ XVI

- Nguyễn Dữ thuộc dòng dõi khoa bảng, có tài năng, đọc rộng, biết nhiều, có hoài bão giúp đời. Ông là người ưu thời mẫn thế, có tinh thần dân tộc và tư tưởng thân dân sâu sắc.

- Nguyễn Dữ ra làm quan 1 năm rồi cáo quan về ở ẩn do bất mãn với chế độ xã hội đương thời; tuy nhiên “thân nhàn mà tâm không nhàn”, ông vẫn đau đáu hoài bão giúp đời của mình qua các sáng tác mà tiêu biểu là Truyền kì mạn lục.

B. Tác phẩm “Truyền kì mạn lục”

I. Nguồn gốc, vị trí và tính chất của Truyền kì mạn lục

1. Nguồn gốc:

- Thể loại: truyền kì là một loại truyện ngắn, có nguồn gốc từ Trung Hoa, dùng yếu tố kì ảo làm phương thức nghệ thuật để phản ánh cuộc sống. Các mô típ kì ảo thường gặp trong truyện truyền kì là nằm mộng đi xuống âm phủ, người lấy ma, người lấy tiên, hàng phục yêu quái, luân hồi báo ứng, tu luyện thành tiên…

- Được sáng tác trong một thời gian dài, hoàn chỉnh khi Nguyễn Dữ về ở ẩn, ra đời được truyền tụng rộng rãi, được 1 nhà Nho thời đó là Nguyễn Thế Nghi dịch ra chữ Nôm

- Gồm 20 truyện được chia thành 4 quyển, bao gồm các sự việc diễn ra dưới thời Lý, Trần, Hồ, thuộc Minh, Lê sơ

- Tác phẩm được viết bằng văn xuôi xen lẫn thơ, văn biền ngẫu, từ; cuối truyện có lời bình

- Cốt truyện:

+ Lấy chủ yếu từ văn học dân gian: truyện cổ tích thần kì, truyền thuyết… được cải biên, ghi chép lại.

+ Vay mượn tình tiết từ văn hóa, văn học nước ngoài

+ Đa số các truyện đều do Nguyễn Dữ sáng tác, thể hiện tài năng của Nguyễn Dữ

- Nguyễn Dữ viết Truyền kì mạn lục với mục đích khuyến thiện, trừ ác, phê phán xã hội đương thời.

2. Vị trí

- TKML là đỉnh cao của văn xuôi tự sự dân tộc, mở ra một giai đoạn mới của sự phát triển cả về nghệ thuật và nội dung phản ánh.

+ Văn xuôi lịch sử bao gồm: sử kí, truyện lịch sử, dã sử, sử liệu… có chức năng tôn giáo và chức năng hành chính, các tác giả viết các tác phẩm này với tư cách của một người viết sử. Thể loại truyền kì hướng đến sự phát triển tự thân, tách khỏi những ảnh hưởng thụ động từ sử học, vượt qua giai đoạn ghi chép tôn giáo, lịch sử… để trở thành một sáng tác văn học

+ Trong TKML, cuối mỗi truyện đều có lời bình- thể hiện mục đích sáng tác của tác phẩm.

+ NDữ đã phá vỡ hình thức thể loại truyền kì theo hướng tự do hơn: truyện xen kẽ thơ với mức độ vừa phải

- TKML là sự tiếp nối thành công của truyền kì Đường- Tống và truyện kì ảo của VN. Trước TKML đã có sự ra đời của truyện kì ảo VN: Việt điện u linh (Lí Tế Xuyên), Lĩnh Nam chích quái (Trần Thế Pháp), Thiền uyển tập anh; nhưng trong các tác phẩm này cái kì giữ vai trò chủ đạo, chi phối, nhân vật chủ yếu là thần thán, quái, tinh. Đến TKML nghiêng nhiều về cái thực, người thực.

3. Tính chất:

* TKML mượn yếu tố hoang đường kì ảo để phản ánh những vấn đề hiện thực.

- TKML là sự ghi chép một cách rộng rãi những truyện lạ lưu truyền ở đời, vì vậy trong tác phẩm này có nhiều yếu tố kì ảo.

- Kì ảo là bút pháp NT chứ không phải là thế giới quan sáng tác của NDữ. NDữ mượn yếu tố kì ảo để phản ánh hiện thực, thiên đình hay âm phủ đều là hình ảnh của thế giới trần gian (Truyện Phạm Tử Hư lên chơi thiên tào, Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa…)

* TKML mượn chuyện đời xưa để nói chuyện đương thời, để phản ánh những vấn đề của hiện thực xã hội thời NDữ

- Thời gian được nhắc đến trong các truyện: thời Lí, Trần, Hồ, thuộc Minh, Lê sơ là những câu chuyện xảy ra trong quá khứ

- Vấn đề đặt ra ở các câu chuyện đều là những vấn đề cấp thiết và gay gắt trong thời đại NDữ: đời sống sa đọa của tầng lớp thống trị, nỗi cơ cực của nhân dân lao động, biểu hiện suy thoái của Nho, Phật, Đạo, của đạo đức xã hội, bi kịch, khát vọng của người phụ nữ…

* TKML là một sáng tác văn học

- Các truyện trong TKML được viết bằng tản văn xen biền văn và thơ ca, từ khúc

- Cuối mỗi truyện có lời bình của tác giả, rút ra lời răn dạy đạo lí theo quan điểm Nho gia.

- Nhà văn vừa có sự ảnh hưởng của VHDG, VH truyền kì VN trước đó, VH nước ngoài đồng thời cũng sáng tạo rất nhiều từ kết cấu tác phẩm đến xây dựng nhân vật, từ việc tổ chức lại tình tiết câu chuyện đến việc sử dụng ngôn ngữ trong lời kể.

II. Giá trị nội dung của Truyền kì mạn lục

1. TKML mượn yếu tố hoang đường kì ảo, mượn truyện xưa để phản ánh hiện thực xã hội đương thời

- Đọc TKML nếu bóc tách cái vỏ kì ảo sẽ thấy cái cốt lõi hiện thực, phủi đi lớp sương khói thời gian quá vãng sẽ thấy bộ mặt xã hội đương thời.

- NDữ đã phê phán những tệ lậu của chế độ phong kiến xã hội đương thời với đầy đủ những thực trạng rối ren của nó:

+ Đó là cảnh binh lửa rối ren gây nên bao đau khổ cho nhân dân, gia đình li tán, nhân tài, vật lực bị tàn phá “phục dịch nhọc nhằn, anh nghỉ em đi, chồng về thì vợ đổi, ai nấy đều vai sưng, tay rách rất là khổ sở” (Chuyện Lí tướng quân)

+ Đó là nạn tham quan, vua nhiều dục vọng, quan hung tợn, tham lam, hiếu sắc, nhâm hiểm và thâm độc (Chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na, Chuyện Lí tướng quân, Chuyện nàng Túy Tiêu).

+ Đó là thực trạng đạo đức xã hội suy đồi xuống cấp: đạo Nho suy thoái, nhiều tầng lớp nho sĩ hư hỏng, chạy theo sự hưởng lạc đồi bại, không còn thiết tha với đạo lí, học vấn thánh hiền (Chuyện kì ngộ ở Trại Tây). Đạo Phật cũng bộc lộ những mặt tiêu cực, thiền viện trở thành chốn hoan lạc, bọn vô lương mượn chùa chiền làm nơi ẩn nấp, hành nghề trộm cắp (Chuyện nghiệp oan của Đào thị, Chuyện cái chùa hoang ở Đông Triều). Tác giả cũng chỉ rõ đạo đức XH suy đồi, xuống cấp như vậy một phần do tác động tiêu cực của lối sống thị dân, một phần cũng do đồng tiền chi phối, phá hủy nhân cách, phá hủy mối quan hệ đạo lý giữa người với người (Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu, Chuyện yêu quái ở Xương Giang).

2. Số phận con người, đặc biệt là số phận người phụ nữ đã đề cao tư tưởng nhân đạo của NDữ:

* NDữ phản ánh số phận con người trong tác phẩm xuất phát từ lập trường nhân bản, chứa đựng nội dung nhân đạo sâu sắc. Ông trở thành một trong những tác giả mở đầu cho CN nhân đạo trong VHTĐVN.

* TKML phản ánh số phận con người chủ yếu qua số phận người phụ nữ. Chủ đề người phụ nữ trở thành chủ đề lớn, trung tâm của tác phẩm. Trong 20 truyện của tác phẩm có tới 11 truyện viết về người phụ nữ trong đó có 8 truyện người phụ nữ là nhân vật chính.

* NDữ đã nói lên một cách sâu sắc những bi kịch cùng vẻ đẹp và những khát vọng chân chính của người phụ nữ, đồng thời hướng tới những giải pháp xã hội nhưng vẫn bế tắc trên đường đi tìm hạnh phúc cho con người.

- Những nhân vật phụ nữ trong sáng tác của NDữ đều là những người có nhan sắc, có tài năng, có nhân phẩm cao đẹp. Nhiều nhân vật phụ nữ trong TKML là tấm gương thủy chung, tiết liệt, đảm đang, hiếu thảo như Vũ Thị Thiết (Chuyện người con gái Nam Xương), Nhị Khanh (Chuyện người nghĩa phụ Khoái Châu). Tuy nhiên trong khi ca ngợi tấm lòng thủy chung, tiết liệt của người phụ nữ, NDữ từ trong vô thức đã thấy được chữ “trinh”, chữ “tiết” theo quan điểm đạo Nho một cách cực đoan có khi trở thành áp lực gây dau khổ cho người phụ nữ.

- Tất cả những người phụ nữ này trong TKML đều rơi vào bi kịch, bế tắc, cuối cùng là cái chết. Họ đều là tấm gương oan khổ về bi kịch gia đình, bi kịch của lòng chung thủy (Vũ Nương, Nhị Khanh); bi kịch tình yêu tan vỡ (Túy Tiêu- Chuyện nàng Túy Tiêu; Lệ Nương- Chuyện Lệ Nương); bi kịch bị chà đạp nhân phẩm (Nhị Khanh- Người nghĩa phụ Khoái Châu, Đào Hàn Than- Chuyện nghiệp oan của Đào thị, Thị Nghi- Chuyện yêu quái ở Xương Giang). Họ dù là con người bẳng xương bằng thịt hay ma quái hiện hình thì đều mang những kết cục bi thảm, nhiều khi đến khốc liệt. Có người được giải oan (Vũ Nương, Nhị Khanh) nhưng cũng có kẻ vẫn còn ngậm oan (Thị Nghi, Đào Hàn Than) nhưng bi kịch là con đường vạch sẵn cho số phận người phụ nữ.

* NDữ cũng đồng thời nhận ra những khát vọng chân chính của con người mang giá trị nhân văn sâu sắc như khát vọng tình yêu lứa đôi, khát vọng hạnh phúc gia đình, khát vọng giải phóng tình cảm bản năng.

- Khát vọng hạnh phúc gia đình được thể hiện rõ ràng hơn cả trong Chuyện người con gái Nam Xương, Chuyện người nghĩa phụ Khoái Châu. Hạnh phúc gia đình chính là chỗ dựa vững chắc cho người phụ nữ nhưng cũng là nguồn cơn cho những bi kịch của họ. Chính khát vọng hạnh phúc gia đình đã đưa Vũ Nương, Nhị Khanh được trở về gặp gỡ chồng trong hạnh phúc đoàn tụ, dù là hết sức ngắn ngủi. Chiều sâu nhân văn trong kết thúc mang hình thức có hậu nhưng thực chất là bi kịch của các câu chuyện là ở chỗ con người thời đại NDữ dường như đã ý thức được một điều: thà sống trong đau khổ thật còn hạnh phúc hơn là sống trong hạnh phúc siêu hình.

- Khát vọng giải phóng tình cảm bản năng trở thành vấn đề thời đại của NDữ. Trong TKML không thiếu những trang văn say sưa miêu tả những khoái lạc trần thế của con người. Khát vọng giải phóng tình cảm bản năng được thể hiện khá trực diện trong TKML. Từ Thức treo ấn từ quan đắm say trong mối tình mơ mộng giữa người và tiên; sư bác Vô Kỉ và Đào Hàn Than biến chốn thanh tịnh nơi cửa Phật thành nơi để hành lạc yêu thương; nho sinh Hà Nhân thì chểnh mảng bút nghiên, sa vào tình yêu với hai nàng họ Liễu, họ Đào vốn là cây thành yêu biến thành; Nhị Khanh say đắm cùng Trình Trung Ngộ (Chuyện cây gạo). Lối sống hành lạc là đáng lên án nhưng khát vọng giải phóng tình cảm bản năng đặt ra trong TKML thì lại là điều cần ghi nhận.

* Từ những bi kịch và khát vọng của người phụ nữ, NDữ muốn đi tìm những giải pháp cho con người nói chung, người phụ nữ nói riêng.

- Ông tìm đến những giải pháp tôn giáo: thiên mệnh của Nho giáo, duyên nghiệp, quả báo của Phật giáo, phương thuật cầu đảo, tu tiên của Đạo giáo.

- Ông tìm lời giải đáp cho hạnh phúc con người nơi trần thế ở thiên tào, cõi tiên, địa phủ hay có khi hạnh phúc ở chính cõi trần (Từ Thức lấy vợ tiên).

→đây chỉ là những giải pháp siêu hình bởi khi nhìn lại thế giới trần gian, nhà văn chỉ thấy đau khổ của con người, và lại rơi vào bế tắc.

3. Hình tượng nho sĩ và nhà nho ẩn dật trong TKML

- Trong 20 truyện TKML có 10 truyện có hình ảnh nho sĩ ẩn dật, thể hiện thái độ bất mãn với chế độ XH, quay lưng với thời cuộc. Tuy nhiên, những bậc nho sĩ này tuy ẩn dật mà không lánh đời, vẫn hướng lòng mình vào cuộc đời.

- NDữ ca ngợi những nho sĩ trí thức có lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, khẳng định vẻ đẹp nhân phẩm của bậc hiền tài như Chuyện chức phán sự đền Tản Viên, Phạm Tử Hư lên chơi thiên tào, Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa. Đây đều là những con người có khí phách, có tài năng hơn người, ra tay trừ hại giúp dân, hướng về đời sống của nhân dân lao động.

III. Giá trị nghệ thuật của TKML

1. Sự kết hợp giữa yếu tố kì ảo và yếu tố hiện thực trong bút pháp nghệ thuật

- Trong TKML, cái kì được sử dụng một cách có ý thức để xây dựng những hình tượng NT, trở thành một bút pháp NT đặc sắc của tác phẩm. Bên cạnh đó, những ảnh hưởng thụ động từ huyền thoại- cái kì dần bị lu mờ, cái thực trở nên quan trọng, là yếu tố chủ đạo chi phối yếu tố kì.

- Cái kì và cái thực có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó cái thực chi phối cái kì. Con người của đời sống đời thường khẳng định tài trí, uy quyền của mình trước thế lực siêu nhiên (Chuyện cái chùa hoang ở Đông Triều); dù là viết về thế giới âm cung với những cảnh vật khác thường, những hồn ma bóng quỷ, những con người chết đi sống lại nhưng vẫn rất xác thực bởi những chi tiết chắc chắn, cụ thể về một con người, một vùng đất.

- Cái kì trong TKML mang đậm tư tưởng Đạo giáo, NDữ phản ánh cuộc sống ẩn dật của mình, quay lưng lại với xã hội: Từ Thức lấy vợ tiên, Chuyện kì ngộ ở trại Tây…

- Cái kì cũng giúp cho nhà văn phản ánh cuộc sống một cách sâu sắc hơn, nói được những điểu mà nhà văn không thể nói được một cách trực tiếp ở cuộc sống thực. NDữ đã dùng bút pháp kì ảo để chuyển những mâu thuẫn xã hội từ thế giới thực sang thế giới ảo (Chuyện đối tụng dưới Long Cung, Chuyện nàng Túy Tiêu); đồng thời trong thế giới kì nội tâm của nhân vật được thể hiện rõ nét hơn (Từ Thức lấy vợ tiên…)

- Yếu tố kì tạo ra những không gian sáng tạo cho nhà văn. Bút pháp kì ảo làm cho câu chuyện thêm hấp dẫn, tăng chất lãng mạn, trữ tình; bút pháp hiện thực tăng tính xác thực của truyện làm cho câu chuyện có ý nghĩa xã hội sâu sắc.

2. Nghệ thuật xây dựng tình tiết, kết cấu

- Phần lớn các truyện trong TKML đều có tình tiết phong phú, kết cấu khá phức tạp, trừ một số câu chuyện mang tính luận thuyết nên có tình tiết và kết cấu đơn giản (Câu chuyện ở đền Hạng Vương, Chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na).

- Một số câu chuyện trong TKML ảnh hưởng từ VHDG, tiếp thu, vay mượn cốt truyện từ VHDG nhưng kết cấu được mở rộng, nội dung ý nghĩa cũng sâu xa hơn.

VD: Chuyện người con gái Nam Xương vay mượn từ cốt truyện cổ tích Vợ chàng Trương. Ở cổ tích Vợ chàng Trương, kết thúc với chi tiết Vũ Thị Thiết gieo mình xuống sông tự vẫn. Trong Chuyện người con gái Nam Xương, tác giả thêm phần hậu thân của Vũ Thị Thiết: thương nàng bị oan khuất, Linh Phi cứu giúp, Trương Sinh lập đàn giải oan, Vũ Nương hiển linh rồi sau đó lại âm dương cách biệt.

          - Mỗi truyện đều xuất hiện kết hợp nhiều thể tài: văn xuôi, thơ ca, từ phú.

- Kết thúc mỗi truyện đều có lời bình. Đây là một bộ phận hữu cơ trong kết cấu của truyền kì.

+ Lời bình cuối truyện (trực tiếp của tác giả hoặc người cùng quan điểm với tác giả) là tiếng nói bảo vệ quan điểm đạo đức Nho gia bởi NDữ vẫn là một nhà Nho với những quan điểm chính thống. Lời bình tách những ND phi văn học ra khỏi tác phẩm.

+ Tuy nhiên, NDữ cũng là một nhà nhân đạo chủ nghĩa, ông phản ánh điều đó thông qua các hình tượng nhân vật là sự khẳng định khát vọng hạnh phúc và quyền sống của con người.

→TKML phản ánh những mâu thuẫn phức tạp trong tư tưởng NDữ. Nổi bật lên là mâu thuẫn giữa tư tưởng bảo thủ của nhà Nho NDữ với tư tưởng nhân đạo của nhà văn NDữ. Lời bình cuối truyện xuất hiện như một cách để điều hòa mâu thuẫn đó.

3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật

- Nhân vật trong TKML chia thành 2 tuyến rõ rệt: thiện và ác.

- TKML đã xây dựng nhân vật có tính cách riêng, cụ thể thông qua lời dẫn chuyện và biểu hiện cụ thể qua hành động, việc làm, ngôn ngữ của nhân vật (Ngô Tử Văn, Nhị Khanh, Vũ Thị Thiết…)

- TKML bước đầu xuất hiện bóng dáng “con người cảm nghĩ”. Khi diễn tả tâm trạng nhân vật, tác giả thường dùng thơ để “ngụ tình”. Qua những vần thơ, các nhân vật gửi gắm, bộc lộ những cảm xúc, suy tư thầm kín trong lòng. Đây là hình thức đơn giản của nghệ thuật miêu tả nội tâm. Tuy nhiên cũng có lúc nhà văn trực tiếp miêu tả con người cảm nghĩ (Từ Thức lấy vợ tiên). Miêu tả con người cảm nghĩ bên cạnh con người hành động là một bước phát triển của nghệ thuật xây dựng nhân vật- TKML là bước khởi đầu của sự phát triển đó.

C. Luyện tập

Đề 1: Giáo sư Đinh Gia Khánh trong giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam đã viết: “Truyền kì mạn lục tuy có vẻ ngoài là những tryện kỳ lạ xảy ra hàng nghìn năm về trước nhưng thực chất lại phản ánh được những phần sâu sắc của hiện thực đương thời”. Bằng hiểu biết về Truyền kì mạn lục, em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.

Gợi ý làm bài

1. Mở bài:

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm

- Nêu vấn đề cần NL

2. Thân bài:

a. Khái quát về TKML:

- TKML là tác phẩm viết bằng chữ Hán, gồm 20 truyện của tác giả NDữ

- TKML là sự ghi chép một cách rộng rãi (mạn lục) những truyện lạ lưu truyền ở đời (truyền kì). Vì vậy trong tác phẩm này có nhiều yếu tố kì ảo. Tuy nhiên kì ảo là bút pháp nghệ thuật hơn là thế giới quan của NDữ. Nhà văn mượn yếu tố kì ảo để phản ánh hiện thực.

b. Giải thích, phân tích, chứng minh nhận định:

- Nhận định của GS Đinh Gia Khánh đã nêu bật được một phương diện nội dung của TKML. TKML “có vẻ ngoài là những truyện kỳ lạ xảy ra hàng nghìn năm về trước” bởi trong số 20 truyện của tác phẩm, thời gian xảy ra đều được tác giả xác định cụ thể là thời Lý, thời Trần, Hồ, thuộc Minh và thời Lê sơ. Đó đều là những mốc thời gian trong quá khứ hết sức cụ thể, được tác giả gọi bằng năm hoặc bằng những tên nhân vật nổi tiếng của thời kì đó.

- Tuy nhiên nếu đọc TKML, bóc tách cái vỏ kì ảo sẽ thấy cái cốt lõi hiện thực, phủ đi lớp sương khói thời gian quá vãng sẽ thấy bộ mặt xã hội đương thời. Tác phẩm đã “phản ánh được những phần sâu sắc của xã hội đương thời”, phê phán những tệ lậu của chế độ phong kiến:

+ Đó là cảnh binh lửa rối ren gây nên bao đau khổ cho nhân dân. Gia đình li tán, nhân tài, vật lực bị tàn phá “phục dịch nhọc nhằn, anh nghỉ em đi, chồng về thì vợ đổi, ai nấy đều vai sưng, tay rách rất là khổ sở” (Chuyện Lý tướng quân). Binh lửa chiến tranh với những cuộc chiến tranh phi nghĩa đã tàn phá biết bao gia đình, gây nên bao đau khổ (Chuyện người con gái Nam Xương)

+ Đó là nạn tham quan, vua “thường dối trá, tính nhiều tham dục, vung vãi châu ngọc, dùng vàng như cỏ rác, tiêu tiền như đất bùn, hình phạt có của đút là xong, quan chức có tiền mua là được…” (Chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na). Quan lại thì hung tợn, tham lam hiếu sắc như Lý Hữu Chi (Chuyện Lý tướng quân), nham hiểm và thâm độc như Thân trụ quốc (Chuyện nàng Túy Tiêu). Khi phê phán hôn quân bạo chúa, NDữ dùng hình thức gián tiếp qua lời các nhân vật trong truyện, còn khi tố cáo bọn quan lại tham nhũng, tác giả dựng lên nhiều hình tượng nhân vật phản diện. Lí Hữu Chi “có sức khỏe, giỏi chiến trận nhưng tính tình vốn dữ tợn”, Thân trụ quốc “làm quan đến ngôi thượng công”, có uy thế rất lớn nên không tòa sở nào dám xét tội hắn.

+ Là một nhà nho nên trọng tâm phản ánh và phê phán của NDữ khi viết TKML là thực trạng suy đồi về mặt đạo đức của xã hội. Đạo Nho có những biểu hiện suy thoái. Tầng lớp nho sĩ nhiều người hư hỏng, nho phong sĩ khí không còn được như trước nữa. Kẻ đến cửa Khổng sân Trình chẳng mấy thiết tha với đạo lí, học vấn thánh hiền mà chạy theo sự hưởng lạc đồi bại. Chàng Hà Nhân từ Thiên Trường lên kinh sư theo đòi nghiên bút nhưng học hành thì chểnh mảng còn son phấn thì tình nồng, đắm chìm trong những thú vui hoan lạc với hai nàng Đào, Liễu rồi tàn đời vì hai cô gái vốn là hai cây đào, liễu hóa thành tinh (Chuyện kì ngộ ở trại Tây). Đạo Phật bị lợi dụng, bộc lộ những mặt tiêu cực. Sư bác trong Chuyện nghiệp oan của Đào thị say mê ca kĩ, thiền viện trở thành nơi hoan lạc, bọn người vô lương mượn chùa chiền làm nơi ẩn nấp, hành nghề trộm cắp (Chuyện cái chùa hoang ở Đông Triều)

+ Bên cạnh đó, NDữ cũng phê phán, lên án thế lực đồng tiền làm băng hoại đạo đức của con người trong XH. Đồng tiền có sức mạnh phá hủy nhân cách, phá hủy mối quan hệ đạo lý giữa con người với con người. Trong Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu, Trọng Quỳ chơi bời, cờ bạc đến khánh kiệt gia sản, phải đem vợ ra đánh bạc với Đỗ Tam đến nỗi người phụ nữ tiết hạnh như Nhị Khanh phải tìm đến cái chết để khỏi rơi vào tay tên lái buôn giàu có, quỷ quyệt. Trong Chuyện người con gái Nam Xương, đồng tiền cũng đã xuất hiện và chi phối hạnh phúc gia đình. Trương Sinh đã bỏ ra 100 lạng vàng để cưới Vũ Nương về làm vợ, để sau này Vũ Nương bị đẩy vào cái chết oan nghiệt vì lời của con trẻ và sự đa nghi, hay ghen của chồng.

- NDữ đã mượn chuyện xưa để nói chuyện nay, đó chính là thực trạng của XHVN thế kỉ XVI với những rối ren, suy đồi về đạo đức.

c. Bình luận:

- Văn học lấy hiện thực làm đối tượng để phản ánh, NDữ cũng không nằm ngoài quy luật sáng tác văn học đó.

- Điểm riêng trong cá tính sáng tạo của NDữ: cách nhìn nhận, phản ánh của một nhà Nho ẩn dật.

3. Kết bài:

- Khẳng định lại vấn đề

- Giá trị của tác phẩm

Đề 2: Trong cuốn Con đường giải mã văn học trung đại Việt Nam, GS. Nguyễn Đăng Na nhận xét: “NDữ đã đi xa hơn một bước trong TKML: phản ánh số phận con người, chủ yếu là số phận mang tính chất bi kịch của người phụ nữ”. Hãy làm sáng tỏ nhận định trên bằng những hiểu biết của em về TKML.

Gợi ý làm bài

1. Mở bài:

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm

- Nêu vấn đề

2. Thân bài

a. Khái quát về tác phẩm

- Nếu khi phê phán, tố cáo hiện thực XH, NDữ chủ yếu đứng trên lập trường đạo đức thì khi phản ánh số phận con người, nhà văn lại xuất phát từ lập trường nhân bản. Về phương diện này, TKML chứa đựng nội dung nhân đạo sâu sắc.

- TKML phản ánh số phận con người chủ yếu qua số phận người phụ nữ. Chủ đề người phụ nữ trở thành chủ đề lớn, trung tâm của tác phẩm. Trong 20 truyện của TKML có tới 11 truyện viết về người phụ nữ, trong đó có 8 truyện người phụ nữ là nhân vật chính.

b. Giải thích, phân tích, CM

- Nhận định của Nguyễn Đăng Na đã nhấn mạnh tới một trong những nội dung quan trọng làm nên giá trị sâu sắc của tác phẩm TKML: đề tài người phụ nữ. Đây là đề tài quen thuộc trong VH từ trước đến nay nhưng đến với NDữ lại có một sắc thái khác. Đề tài người phụ nữ trong sáng tác của ông đậm màu sắc của cảm hứng nhân đạo.

- Cảm hứng nhân đạo của NDữ toát lên từ những trang văn trân trọng, khẳng định vẻ đẹp phẩm chất, tính cách của người phụ nữ. Nhiều nhân vật phụ nữ trong TKML là tấm gương thủy chung, tiết liệt. Vũ Thị Thiết “tính đã thùy mị, nết na lại thêm có tư dung tốt đẹp”. Chồng đi lính, nàng “chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên”. Thương nhớ chồng trong những ngày xa cách, nàng thường hay đùa con, trỏ bóng mình mà bảo đó là cha của đứa trẻ. Nhưng rồi cuối cùng nàng phải chịu nỗi oan là người không đoan chính. Nàng đã quyên sinh bằng cái chết để khẳng định tấm lòng trong sạch của mình. Nhị Khanh trong Chuyện người nghĩa phụ Khoái Châu cũng là người thủy chung, tiết nghĩa. Nàng thủ tiết chờ chồng, không vì tiền bạc mà chấp thuận việc ép gả, không vì tiền bạc mà đi theo phú thương họ Đỗ, chọn cái chết để giữ mình trong sạch.

- Vũ Thị Thiết cũng như Nhị Khanh đều là những người phụ nữ đảm đang hiếu thảo. Người con gái Nam Xương thay chồng chăm sóc mẹ già, lo chu đáo cho mẹ già khi ốm đau, hậu sự. Người nghĩa phụ Khoái Châu thì chấp nhận cuộc sống đơn côi để khuyên chồng ra đi phụng dưỡng cha già.

- Tuy nhiên, trong TKML, người phụ nữ không chỉ là hiện thân của vẻ đẹp mà còn là hiện thân của bi kịch. Họ đều là những tấm gương oan khổ. Vũ Thị Thiết, Nhị Khanh là tấm gương oan khổ về bi kịch gia đình, bi kịch của lòng chung thủy. Tấm gương oan khổ về bi kịch tình yêu tan vỡ là nàng Túy Tiêu (Chuyện nàng Túy Tiêu), Lệ Nương (Chuyện Lệ Nương). Oan khổ trong bi kịch bị chà đạp lên nhân phẩm, số phận là Nhị Khanh (Người nghĩa phụ Khoái Châu), Đào Hàn Than (Chuyện nghiệp oan của Đào Thị), Thị Nghi (Chuyện yêu quái ở Xương Giang). Là con người bằng xương bằng thịt hay ma quái hiện hình thì họ đều mang một kết cục bi thảm, nhiều khi đến khốc liệt. Có người được giải oan (Vũ Thị Thiết, Nhị Khanh), có kẻ còn ngậm oan (Thị Nghi, Đào Hàn Than) nhưng bi kịch là con đường vạch sẵn cho số phận người phụ nữ.

- Không chỉ đồng cảm với những nỗi đau của những người phụ nữ mà tác giả NDữ còn đồng cảm với những ước mơ, khát vọng giải phóng con người, khát vọng giải phóng người phụ nữ:

+ Khát vọng hạnh phúc gia đình

+ Khát vọng giải phóng tình cảm bản năng

- NDữ cũng đã vạch rõ những thế lực tàn bạo chà đạp lên người phụ nữ: XHPK, chế độ thần quyền, nam quyền, thế lực đồng tiền

c. Bình luận, mở rộng

- Đề tài người phụ nữ- điểm gặp của VH mọi thời đại

- Điểm riêng trong phản ánh của NDữ, đặt trong mạch phát triển của VHTĐVN.

3. Kết bài

- Khẳng định lại vấn đề

- Giá trị và sức sống của tác phẩm

Cao Ánh Tuyết
Họ tên no image
no image
Tiêu đề no image
Nội dung no image
Mã kiểm tra no image
Tin tức mới nhất

Đăng nhập
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1