CÁC NƯỚC TBCN TỪ
1945 ĐẾN NAY
BÀI 6 .
NƯỚC MĨ.
I .Kinh tế
1. Giai
đoạn 1945 - 1973
a. Phát
triển mạnh mẽ:
- Công nghiệp:
chiếm hơn nửa sản lượng công nghiệp toàn thế giới ( hơn 56%
năm 1948).
- Nông nghiệp: Sản lượng nông nghiệp gấp 2 lần sản lượng của Anh + Pháp + Tây Đức + Italia + Nhật Bản.
- Tài chính: Nắm ¾ dự trữ vàng trên toàn thế giới.
- Hơn 50% tàu bè đi lại trên biển là của nước Mĩ.
- Kinh tế Mĩ chiếm gần 40% tổng sản lượng kinh tế toàn
thế giới.
à Sau hai mươi năm sau chiến tranh, Mĩ trở thành trung
tâm kinh tế tài chính lớn nhất thế giới.
b. Nguyên nhân.
1.Lãnh thổ nước Mĩ rộng lớn, tài nguyên thiên
nhiên phong phú.
2.Có nguồn nhân lực dồi dào, trình độ kĩ thuật
cao.
3.Mĩ tham gia chiến tranh thế giới thứ hai
muộn hơn, tổn thất ít hơn so với nhiều nước khác; hơn nữa, Mĩ còn lợi dụng
chiến tranh để bán vũ khí thu nhiều lợi nhuận.
4.Mĩ là nước khởi đầu cuộc cách mạng khoa
học – kĩ thuật hiện đại; áp dụng thành công những tiến bộ khoa học – kĩ thuật
để nâng cao năng xuất lao động, hạ giá thành sản phẩm và điều chỉnh hợp lí cơ
cấu sản xuất.
5Trình độ tập trung tư bản và sản xuất rất cao, các tổ hợp
công nghiệp – quân sự, các công ti và các tập đoàn
tư bản lũng đoạn Mĩ có sức sản xuất, cạnh tranh lớn và hiệu
quả.
6.Các chính sách và biện pháp điều tiết của nhà nước có vai trò quan trọng
thúc đẩy kinh tế Mĩ phát triển.
- Nguyên nhân quyết định nhất:
Là Mĩ ứng dụng thành công các thành tựu của khoa học kĩ
thuật vào sản xuất. Vì: Mĩ biết dựa vào thành tựu cách mạng khoa học - kỹ thuật. Cho nên Mĩ đã điều chỉnh lại hợp lý cơ
cấu
sản xuất, cải tiến kỹ thuật và nâng cao năng xuất lao động, giảm giá thành sản phẩm. Nhờ đó mà nền kinh tế Mĩ phát triển nhanh chóng, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân Mĩ có nhiều thay đổi.
Sự phát triển về kỹ thuật và khoa học – kĩ thuật đã giúp Mĩ có ưu thế về chính trị trên toàn cầu
2. Từ năm 1973 đến năm 1991.
Do cuộc khủng hoảng dầu mỏ, nền kinh tế Mĩ khủng hoảng,
suy thoái
1983 phục hồi, phát triển.Vị trí vẫn dẫn đầu nhưng tỉ
trọng trong nên kinh tế thế giới giảm sút.
3. Giai đoạn 1991 – 2000
Đứng đầu thế giới.Mặc dù kinh tế Mĩ hiện nay vẫn còn mạnh, song vị trí ưu thế của Mĩ đã bị giảm nhiều trên thế
giới.
IV. Đối ngoại.
- Mục tiêu xuyên suốt trong chính sách đối ngoại của nước
Mĩ: bá chủ thế giới.
- Cơ sở đề ra:
Do
sức mạnh về kinh tế, quân sự, khoa học kĩ thuật Mĩ triển khai chiến lược toàn
cầu với tham vọng làm bá chủ thế giới.
1. Giai đoạn 1945 – 1973.
Thực hiện chiến
lược toàn cầu
a. Ba mục
tiêu của chiến lược toàn cầu:
- Ngăn chặn, đẩy lùi tiến tới tiêu diệt các nước chủ nghĩa xã hội.
- Đàn áp phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân, phong trào hoà bình, dân chủ thế giới.
- Khống chế, chi phối các nước đồng minh.
b. Biện pháp: .
- Phát động
Chiến tranh lạnh ( 1947). Mục đích : chống Liên Xô và
các nước xã hội chủ nghĩa.
- Phát động hàng chục cuộc chiến tranh xâm lược khắp nơi trên thế giới,
điển hình là chiến tranh tại Việt Nam.
- Thành lập
các khối quân sự NATO,
SEATO, CENTO, ANZUZ để hỗ trợ cho các hoạt động
xâm lược.
- Đứng sau các cuộc bạo loạn, lật đổ, đảo chính ( Tại
Campuchia năm 1970) và một số cuộc chiến tranh ( nội chiến ở Trung Quốc 1946 –
1949, chiến tranh Triều Tiên 1950 – 1953)
- Về kinh tế Mĩ tiến hành bao vây, cấm vận kinh tế đối với các nước chủ nghĩa xã hội ( với Cuba, với Việt Nam thời kì diễn ra chến
tranh tại Việt Nam). Thông qua
viện trợ kinh tế để xâm nhập các nước chậm phát triển để thực hiện chế độ thực dân mới.
- Ngoại giao: Các chuyến thăm của Ních xơn đến Trung Quốc, Liên Xô ( 1972 )
- Mục đích: thực hiện sách lược hoà hoãn với hai nước lớn để chống lại phong trào đấu tranh của các dân
tộc.
c. Kết quả :
- Mĩ cũng đạt được một số thành công, tiêu biểu:
+ Gây chiến tranh xâm lược ở các nước Đông Dương, Triều Tiên...
+ Bao vây, cấm vận các nước chủ nghĩa xã hội, viện trợ kinh tế cho các nước Đồng Minh và các nước
chậm phát triển.
+ Góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên xô và Đông Âu.
- Trong việc thực hiện chiến lược toàn cầu, Mĩ đã vấp phải những thất bại nặng nề (ở Trung Quốc
(1949), Triều Tiên, Cuba (1959),
Iran...đặc biệt
là thất
bại là trong
chiến tranh xâm lược Việt Nam (1975).
2. Giai đoạn 1973 –
1991.
- Tiếp tục triển khai chiến lược toàn cầu.
- “ Học thuyết Ri gân” - chạy đua vũ trang -> đối đầu
Xô - Mỹ -> Hậu quả: suy giảm kinh tế của Mĩ.
- Từ những năm 80 của thế kỉ XX, xu thế hòa hoãn và đối
thoại ngày càng chiếm ưu thếmà 12 / 1989 Liên Xô và Mỹ tuyên bố chấm dứt Chiến tranh
lạnh.
3. Giai đoạn 1991 – 2000
- Thập niên 90, chính quyền B.Clinton thực hiện chiến lược “Cam kết và mở rộng” với ba mục tiêu:
+ Bảo đảm an ninh của Mĩ với lực lượng quân sự mạnh, sẵn sàng chiến đấu.
+ Tăng cường khôi phục và phát triển tính năng động và sức mạnh của nền kinh tế Mĩ.
+ Sử dụng khẩu hiệu “Thúc đẩy dân chủ” để can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác.
- Sau khi trật tự hai cực Ianta sụp đổ, Mĩ có tham vọng thiết lập trật tự thế giới “đơn cực”, chi phối
và
lãnh đạo toàn thế giới nhưng chưa thể thực hiện được. Vụ khủng bố ngày 11/09/2001 cho thấy bản thân nước Mĩ cũng rất dễ bị tổn thương và chủ nghĩa khủng bố sẽ là một trong những yếu tố dẫn đến
những thay đổi trong chính sách đối nội và đối ngoại của Mĩ ở thế kỷ XXI.
II. Tây Âu
1. Kinh tế
a. * Từ 1945 đến năm 1950.
- Hoàn cảnh: Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, các nước
châu Âu đều bị tàn phá nặng nề.
- Sự phục hồi: tới năm 1950 nền kinh tế các nước Tây Âu
cơ bản được khôi phục.
- Nguyên nhân: Nỗ lực của nhân dân; Viện trợ Mĩ qua kế
hoạch Macsan
b. Năm1950nửa đầu
những năm 70 của thế kỉ XX
– Sự phát triển:
Từ đầu những năm 50 đến đầu những năm 70 (thế kỷ XX), nền
kinh tế các nước Tây Âu ổn định và phát triển nhanh. Biểu hiện:
Nước Đức trở thành
nước công nghiệp thứ ba, Anh trở thành nước công nghiệp thứ tư, Pháp trở thành
nước công nghiệp thứ năm trong hệ thống tư bản chủ nghĩa (sau Mĩ và Nhật Bản).
Từ đầu thập kỉ 70, Tây Âu đã trở thành một trong ba trung
tâm kinh tế – tài chính lớn của thế giới.
Các nước Tây Âu có nền khoa học – kĩ thuật phát triển cao,
hiện đại.
Quá trình liên kết khu vực ở Tây Âu diễn ra mạnh mẽ với
sự hình thành Cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC) năm 1957 và Cộng đồng châu Âu
(EC) năm 1967.
– Những nhân tố của sự phát triển nền kinh tế Tây Âu là:
1.Áp dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học –
kĩ thuật hiện đại để nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm.
2.Vai trò quan trọng của Nhà nước trong việc quản lí và
điều tiết, thúc đẩy nền kinh tế.
3.Tận dụng tốt cơ hội bên ngoài cho sự phát triển của đất
nước như nguồn viện trợ Mĩ, tranh thủ giá nguyên liệu rẻ từ các nước đang phát
triển, sự hợp tác có hiệu quả trong Cộng đồng châu Âu (EC).
c Từ năm 1973 đến năm 1991
– Do tác động khủng hoảng , đến đầu thập kỉ 90,
kinh tế Tây Âu lâm vào tình trạng không ổn định, suy thoái kéo dài.
– Tuy vẫn là một trong ba trung tâm kinh tế –
tài chính lớn của thế giới, nhưng kinh tế Tây Âu gặp không ít
khó khăn: suy thoái, khủng hoảng, lạm phát và thất nghiệp. Quá
trình liên hợp hóa trong khuôn khổ Cộng đồng châu Âu (EU) vẫn còn nhiều khó
khăn trở ngại.
d. Từ 1991 đến năm 2000
– Đầu thập niên
90 (thế kỉ XX), Tây Âu lâm vào cuộc suy thoái ngắn.
– Từ năm
1994, nền kinh tế bắt đầu phục hồi và phát triển trở lại.
Tốc độ tăng trưởng tăng từ 2,9 đến 3,4%.
– Tây Âu
là một trong ba trung tâm kinh tế – tài chính lớn nhất thế
giới. Đến giữa thập niên 90 (thế kỷ XX), 15 nước thành viên EU đã chiếm 1/3
tổng sản phẩm công nghiệp toàn thế giới. Có nền khoa học – kĩ thuật hiện đại.
2. Chính sách
đối ngoại
a.Giai đoạn 1945
– 1950
– Chính sách đối
ngoại:
Những
năm đầu sau Chiến tranh thế giới thứ hai, với mưu đồ khôi
phục chế độ thuộc địa, các nước Tây Âu như Anh, Pháp,
Hà Lan
Liên minh chặt chẽ với Mĩ: nhiều nước
Tây Âu đã tham gia khối quân sự NATO do Mĩ đứng đầu.
- Nguyên nhân:
Sau Ct đất nước gặp nhiều khó khăn nên xâm lược thuộc địa cũ để tiếp tục bóc
lột thuộc địa và dựa vào Mĩ để khắc phục khó khăn.
b. Giai đoạn
1950 – 1973
– Chính sách đối
ngoại:
Trong bối cảnh
Chiến tranh lạnh, đối đầu giữa hai phe, nhiều nước Tây Âu một mặt vẫn tiếp
tục liên minh chặt chẽ với Mĩ, mặt khác đã nỗ lực mở rộng hơn
nữa quan hệ đối ngoại.
Biểu hiện: Các
nước Tây Âu đã tham gia “ Kế hoạch Mác san”, gia nhập khối
liên minh quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO, tháng 4/1949) nhằm chống
lại Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, đứng về phía
Mĩ trong cuộc Chiến tranh xâm lược Việt Nam, ủng hộ Ixaren trong các
cuộc Chiến tranh Trung Đông.
Nhiều thuộc địa
cũ của Tây Âu giành độc lập: Chủ nghĩa thực dân cũ của Anh, Pháp,
Hà Lan đã sụp đổ trên phạm vi toàn thế giới.
- Nguyên nhân:
Một số nước phục hồi nền kinh tế, sau đó phát triển mạnh nên đã tìm cách
thoát ra khỏi sự phụ thuộc vào Mỹ.
Điều chỉnh cho phù hợp với tình hình
quan hệ quốc tế : xu hướng hoà hoãn Đông – Tây từ đầu những năm 70, sau đó là
Chiến tranh lạnh chấm dứt.
Kinh tế phát triển nhưng nhiều
thuộc địa của Tây Âu giành độc lập nên phải mở rộng quan hệ với các nước khác.
c Giai đoạn 1973
– 1991
– Từ năm
1973 trở đi, quan hệ giữa Mĩ và các nước Tây Âu cũng
diễn ra những “trục trặc”, nhất là quan hệ Mĩ – Pháp…
– Tháng 8/1975,
các nước Tây Âu cùng Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa
châu Âu và hai nước Mĩ, Canađa kí định ước Henxinki về an
ninh và hợp tác châu Âu. Tình hình căng thẳng ở châu Âu
dịu đi rõ rệt.
– Vào cuối năm
1989, ở châu Âu đã diễn ra những sự kiện to lớn mang tính đảo lộn: bức tường
Béclin bị phá bỏ (tháng 11/1989), hai siêu cường Xô – Mĩ tuyên bố chấm dứt
Chiến tranh lạnh (tháng 12/1989), nước Đức tái thống nhất (tháng 10/1990).
d Từ năm
1991 đến năm 2000
– Trong bối cảnh
chiến tranh lạnh kết thúc, quá trình liên kết của các thành viên EU trở nên
chặt chẽ hơn. Các nước Tây Âu đều chú ý mở rộng quan hệ quốc tế với các nước tư
bản khác, các nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi, khu vực Mĩ Latinh…
3. Liên minh châu Âu (EU)
* Quá trình hình thành:
– Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, cùng với xu
thế toàn cầu hoá, khuynh hướng liên kết khu vực diễn ra mạnh mẽ.
– Sáu nước Tây Âu (Pháp, CHLB Đức, Italia, Bỉ,
Hà Lan và Lúcxămbua) cùng thành lập Cộng đồng Than – Thép
châu Âu (1951), sau là Cộng đồng năng lượng nguyên tử châu Âu và Cộng đồng kinh
tế châu Âu (EEC) (1957).
– Năm 1967, ba tổ chức trên hợp nhất thành Cộng
đồng châu Âu (EC) và từ tháng 1/1993 đổi tên là Liên minh châu Âu (EU).
* Sự phát triển:
– Thành viên: Từ 6 nước ban đầu, đến năm 1995, EU đã phát
triển thành 15 nước. Năm 2004, kết nạp thêm 10 nước Đông Âu, đến năm 2007 thêm
2 nước, nâng tổng số thành viên lên 27 nước.
– EU ra đời không chỉ nhằm hợp tác giữa các nước
thành viên trong lĩnh vực kinh tế, tiền tệ mà còn liên minh trong lĩnh vực
chính trị.
– Tháng 6/1979, đã diễn ra cuộc bầu cử Nghị
viện châu Âu đầu tiên. Tháng 3/1995, bảy nước EU
huỷ bỏ sự kiểm soát đối với việc đi lại của công dân
các nước này qua biên giới của nhau. Tháng 1/2002, chính thức sử dụng đồng tiền
chung EURO.
– Liên minh châu Âu là tổ chức liên kết
chính trị – kinh tế lớn nhất hành tinh, chiếm hơn 1/4 GDP của
thế giới.
– Quan hệ Việt Nam – EU được thiết lập năm
1990.
III. Nhật
Bản
1. Những cải cách dân chủ ở Nhật Bản sau chiến tranh .
a. Hoàn cảnh
- Nhật bị quân đội Mĩ chiếm đóng ( 1945
-1952 ). Chính phủ Nhật Bản vẫn được phép tồn tại và hoạt động.
Bộ chỉ huy tối cao các lực lượng Đồng
minh ( SCAP) tiến hành các cải cách.
b. Nội
dung cải cách.
- Về
chính trị - quân sự:
Loại bỏ chủ nghĩa quân phiệt và bộ máy
chiến tranh của Nhật Bản :
+ Xét xử tội
phạm chiến tranh Nhật Bản.
+ Hiến pháp
mới:
* Thể chế nhà nước: Hình thức là quân chủ lập
hiến, thực chất là chế độ dân chủ đại nghị tư sản: Nghị viện do dân bầu nắm
quyền lập pháp; Chính phủ nắm quyền hành pháp.
* Quân sự :
cam kết từ bỏ việc tiến hành chiến tranh, không đe doạ sử dụng vũ lực
trong quan hệ quốc tế, không duy trì quân đội thường trực.
- Kinh
tế.
Thực hiện ba cuộc cải cách.
+ Thủ tiêu
chế độ tập trung kinh tế : giải tán các “ Dai bát xư”.
+ Cải cách
ruộng đất.
+ Dân chủ
hoá lao động.
c. Ý
nghĩa.
Xoá bỏ hết tàn dư của chế độ phong kiến quân
phiệt, mở đường cho kinh tế - xã hội phát triển.
2. Kinh tế
* Giai đoạn 1945 – 1952
– Sự thất bại của Nhật trong Chiến tranh thế
giới thứ hai để lại cho Nhật Bản hậu quả hết sức nặng nề (3 triệu người chết và
mất tích; cơ sở vật chất bị phá huỷ nặng nề; 13 triệu người thất nghiệp); thảm
hoạ đói rét đe doạ cả nước; là nơi Mĩ đóng quân từ năm 1945 đến năm 1952.
– Bộ chỉ huy tối cao lực lượng Đồng minh (SCAP)
thực hiện ba cuộc cải cách lớn: 1- Thủ tiêu chế độ kinh tế tập trung, 2-
Cải cách ruộng đất, 3- Dân chủ hoá lao động.
– Dựa vào viện trợ Mĩ, Nhật bản nỗ lực khôi
phục kinh tế, đạt mức trước chiến tranh.
* Giai đoạn 1952 – 1973
– Từ năm 1953 đến năm 1960 có bước phát triển
nhanh, từ năm 1960 đến năm 1973, kinh tế Nhật Bản bước vào giai đoạn phát triển
“thần kì”, tốc độ tăng trưởng cao liên tục, nhiều năm đạt tới hai con số (1960
– 1969 là 10,8%). Nhật Bản trở thành một siêu cường kinh tế (sau Mĩ).
– Tới năm 1968, vươn lên là vương quốc kinh tế tư
bản thứ hai sau Mĩ. Từ đầu những năm 70 trở đi, Nhật Bản trở thành một trong ba
trung tâm kinh tế – tài chính lớn nhất thế giới (cùng Mĩ và Liên minh châu Âu).
– Nguyên nhân của sự phát triển kinh tế:
- Coi trọng yếu tố con người: được đào tạo chu đáo, có ý thức tổ chức kỉ
luật, được trang bị kiến thức và nghiệp vụ, cần cù và tiết kiệm, ý thức
cộng đồng…; được xem là vốn quí nhất, là “công nghệ cao nhất”, là nhân tố
quyết định hàng đầu.
- Vai trò lãnh đạo, quản lí có hiệu quả của
Nhà nước và các công ty Nhật Bản (như thông tin
và dự báo về tình hình kinh tế thế giới; áp dụng
các tiến bộ khoa học, kĩ thuật vào sản xuất nhằm nâng cao năng
suất và sức cạnh tranh hàng hóa, tín dụng…).
- Các công ty của Nhật Bản năng động, có tầm nhìn xa, quản lý tốt
nên có tiềm lực và sức cạnh tranh cao.
- Luôn áp dụng các thành tựu khoa học – kĩ thuật
hiện đại, không ngừng nâng cao năng suất, cải tiến mẫu mã, hạ giá
thành sản phẩm.
- Chi phí cho quốc phòng ít nên có điều kiện tập trung cho
phát triển kinh tế.
- Tận dụng tốt các điều kiện bên ngoài như nguồn viện
trợ Mĩ, các cuộc Chiến tranh Triều Tiên (1950 – 1953) và
Việt Nam (1954 – 1975) để làm giàu.
3. Khoa học – kĩ thuật
– Nhật Bản rất coi trọng giáo dục và khoa học – kĩ thuật,
tập trung chủ yếu là nghiên cứu về lĩnh vực sản xuất dân dụng.
– Sản xuất nhiều mặt hàng dân dụng nổi tiếng thế
giới (tivi, tủ lạnh, ô tô…), các tàu chở dầu có tải trọng
lớn (1 triệu tấn), xây dựng đường ngầm dưới biển dài 53,8 km nối liền hai
đảo Hôn-su và Hốc-cai-đô, xây dựng cầu đường bộ đô dài 9,7 km nối hai đảo Hônsu
và Sicôcư…
4. Chính sách đối ngoại
* Trong thời kì “Chiến tranh lạnh”
– Nền tảng chính sách đối ngoại của Nhật Bản là
liên minh chặt chẽ với Mĩ, thể hiện ở việc ký Hiệp ước hòa bình Xan
Phranxixcô và Hiệp ước An ninh Mĩ – Nhật (tháng 9/1951), về sau
được gia hạn nhiều lần. Theo đó, Nhật Bản chấp nhận đứng dưới “chiếc ô” bảo hộ
hạt nhân của Mĩ, cho Mĩ đóng quân và xây dựng căn cứ quân sự trên lãnh thổ Nhật
Bản.
– Năm 1956, Nhật Bản bình thường hoá quan hệ
với Liên Xô và tham gia Liên hợp quốc.
– Năm 1973, Nhật Bản thiết lập quan hệ ngoại giao
với Việt Nam và bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc. Năm
1978, Hiệp ước Hòa bình và Hữu nghị Nhật – Trung được kí kết.
– Tháng 8/1977, với học thuyết Phucưđa, đánh dấu sự
“trở về” châu Á của Nhật Bản.
– Năm 1991, Nhật Bản đưa ra “Học thuyết
Kaiphu” là tiếp tục phát triển “Học thuyết Phucưđa” trong
hoàn cảnh lịch sử mới nhằm củng cố mối quan hệ về kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội với các nước Đông Nam Á.
* Sau thời kì “Chiến tranh lạnh”
– Tiếp tục liên minh chặt chẽ với Mĩ, tháng 4/1996,
Hiệp ước An ninh Nhật – Mĩ được tái khẳng định kéo dài vĩnh viễn. Mặt
khác, Nhật vẫn coi trọng quan hệ với Tây Âu và mở rộng đối ngoại với các
nước trên phạm vi toàn cầu.
– Quan hệ hợp tác kinh tế giữa Nhật Bản với các
nước NICs và ASEAN phát triển với tốc độ mạnh mẽ.