Cuộc vận động giải phóng dân tộc Việt Nam (1939-1945) - Học kì II - Năm học 2018 - 2019 - Nguyễn Thị Tâm
CHUYÊN
ĐỀ: CUỘC VẬN ĐỘNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VIỆT NAM 1939-1945
Giáo viên:
Nguyễn Thị Tâm
Đơn vị
công tác: Trường THPT chuyên Lào Cai
A.
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do
chọn đề tài.
Trong tiến trình phát triển của
lich sử dân tộc giai đoạn lịch sử 1939-1945 đỉnh cao là cuộc Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 là một trong những trang sử vẻ vang nhất trong lịch sử dựng nước
và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Bằng thắng lợi của cuộc Cách mạng này, nhân
dân Việt Nam đã đập tan ách phát-xít Nhật, lật đổ ách thống trị của thực dân
Pháp gần 100 năm, xóa bỏ chế độ phong kiến hàng nghìn năm, đưa đất nước bước
sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Chuyên gia sử học người Pháp Alain Ruscio, người có nhiều gắn bó với lịch sử
Việt Nam cho rằng, với cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, dân tộc Việt Nam đã
làm nên điều kỳ diệu, bước ra từ thân phận dân tộc nô lệ và trở thành dân tộc
làm chủ, tự quyết định vận mệnh và tương lai của mình. Cách mạng Tháng Tám
thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, đã đem lại niềm tin tự giải
phóng, cổ vũ mạnh mẽ cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức chống ách nô dịch
của chủ nghĩa đế quốc, mở ra thời kỳ tan rã của chủ nghĩa thực dân trên toàn
thế giới:"Thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 của Việt
Nam là sự tất yếu mang tính logic trong lịch sử phong trào đấu tranh của
dân tộc Việt Nam. Đây là sự kiện trọng đại của cả dân tộc Việt Nam. Đặc biệt,
Việt Nam là dân tộc đầu tiên trong số các dân tộc trên thế giới bị thực dân
Pháp đô hộ đã thành công trong cuộc kháng chiến của mình. Thắng lợi của cuộc
cách mạng tháng Tám năm 1945 đã có ảnh hưởng rất lớn tới phong trào đấu tranh
đòi độc lập của các nước thuộc địa trên thế giới lúc bấy giờ, nhất là các nước
ở châu Phi. Khi đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người có vai trò quan trọng, là
người đầu tiên tuyên bố độc lập ở một nước thuộc địa" .
Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã tạo
dấu ấn sâu sắc trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc. Vì ở đó, đường lối
đấu tranh của Đảng cộng sản Việt Nam trùng khớp với ý nguyện của nhân dân;
thiên tài của lãnh tụ Hồ Chí Minh đã tỏa sáng cùng trí tuệ của dân tộc… Tất cả
đã tạo thành con sóng nhấn chìm chế độ thực dân phong kiến, đưa nhân dân Việt
Nam bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do.
Cách mạng Tháng Tám đã cho những bài học
lịch sử quý báu, mãi mãi soi sáng các chặng đường cách mạng Việt Nam. Ðó là bài
học giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; xác định và kết hợp
đúng đắn các nhiệm vụ chiến lược trong từng thời kỳ cách mạng; bài học về phát
động sức mạnh toàn dân tộc; bài học thực hiện triệt để phương châm "thêm
bạn bớt thù"; bài học về nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật tạo thời cơ và
nắm bắt thời cơ; bài học về xây dựng một Đảng Mác - Lê-nin có bản lĩnh chính
trị vững vàng, gắn bó mật thiết với nhân dân. Giá trị lịch sử và bài học Cách
mạng tháng Tám năm 1945 không chỉ soi sáng các chặng đường cách mạng Việt Nam
mà còn vẹn nguyên trong thời điểm VN tiến hành công cuộc công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế hiện nay.
Trong dạy học lịch sử ở nhà trường
phổ thông nói chung và ôn luyện học sinh giỏi môn Lịch sử nói riêng giai đoạn
lịch sử 1939-1945 thường được hỏi nhưng lại là vấn đề khó .
Do đó, đi sâu nghiên cứu quá trình vận
động giải phóng dân tộc 1939-1945 kết quả là sự thành công của cuộc Cách mạng
tháng Tám năm 1945 để
thấy rõ hơn đường lối lãnh đạo đúng đắn, linh hoạt và sáng tạo của
Đảng là điều rất cần thiết. Đồng thời việc nghiên cứu về giai đoạn
cách mạng này không chỉ có ý nghĩa khoa học mà còn có giá trị
thực tiễn sâu sắc. Từ cơ sở của quá trình nghiên cứu, chúng ta có
thể rút ra những bài học kinh nghiệm cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc trong sự nghiệp cách mạng hiện nay. Nhất là trong bối cảnh vấn đề
an ninh, chủ quyền biển đảo trở thành mối quan tâm hàng đầu của cả
dân tộc và các quốc gia trên thế giới.
Những vấn đề xoay quanh Cách mạng
tháng Tám năm 1945 là một đề tài hay trong ôn tập và bồi dưỡng HSGQG môn Lịch
sử ở trường phổ thông. Được sự phân công của đơn vị tổ chức Hội thảo Khoa học
các trường Chuyên khu vực Duyên hải và Đồng Bằng Bắc Bộ, tôi đã tập hợp một số
tài liệu để viết chuyên đề: “Cuộc vận
động giải phóng dân tộc 1939-1945”, nhằm cung cấp một phần tài liệu
thiết thực cho giáo viên, học sinh tham khảo khi ôn luyện để chuẩn bị cho các
kì thi học sinh giỏi các cấp đặc biệt là kì thi chọn học sinh giỏi
Quốc gia môn Lịch sử.
2. Mục đích,
phạm vi, đối tượng nghiên cứu của chuyên đề.
2.1. Mục đích nghiên cứu của chuyên
đề.
Chuyên đề “Cuộc vận
động giải phóng dân tộc 1939-1945” là một chuyên đề hay, thiết thực
trong ôn luyện đội tuyển HSG các cấp, góp phần giúp học sinh có kiến thức
sâu sắc và nhận thức đầy đủ hơn về quá trình chuẩn bị, thời cơ cách mạng và vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng saản Đông Dương trong cuộc Cách mạng tháng Tám năm
1945. Qua đó, học sinh biết phân tích, nhận định, tổng hợp, đánh giá, so sánh
các vấn đề lịch sử nói chung và vấn đề liên quan đến cuộc vận động
giải phóng dân tộc để làm nên thắng lợi của Cách mạng tháng Tám nói riêng.
Bên cạnh đó nội dung của chuyên đề sẽ giúp giáo viên có
thể khai thác kiến thức để hướng dẫn
học sinh hiểu sâu sắc hơn về giai đoạn này, cũng như liên hệ của các đơn
vị kiến thức và các giai đoạn lịch sử.
2.2. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
của chuyên đề.
Một số nội dung kiến thức chuyên sâu về cuộc vận động giải
phóng dân tộc 1939-1945.
3. Cấu trúc của chuyên đề gồm các
phần.
- Phần mở đầu.
- Phần nội dung:
Kiến thức cơ bản, chuyên sâu và các câu hỏi vận dụng về cuộc
vận động giải phóng dân tộc 1939-1945.
- Phần kết luận.
PHẦN NỘI DUNG
PHẦN
I. KIẾN
THỨC VỀ CUỘC
VẬN ĐỘNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VIỆT NAM 1939-1945
I. HOÀN CẢNH QUỐC TẾ VÀ TRONG NƯỚC
1. Hoàn cảnh quốc tế:
Từ giữa những năm 30 của thế kỉ XX, các thế lực phát xít
đã bành trướng ở nhiều quốc gia. Chúng câu kết với nhau, tiến hành chạy đua vũ
trang, chuẩn bị gây chiến tranh thế giới. Ngày 25 – 11 – 1936, Đức và Nhật Bản
kí kết “Hiệp ước chống Quốc tế Cộng sản”. Một năm sau, ngày 6 – 11 – 1937,
Italia tuyên bố tham gia Hiệp ước này. Trục Beclin – Rôma – Tôkyô hình thành.
Liên minh phát xít đã mở rộng từ Châu Âu sang Châu Á.Trong thời gian này, các
cuộc chiến tranh xâm lược cục bộ đã được phát động ở một vài khu vực. Tháng 7 –
1937, Nhật Bản mở cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn trên toàn lãnh thổ Trung
Quốc. do chính sách chống Nhật Bản tiêu cực của tập đoàn cầm quyền Tưởng Giới
Thạch, quân Nhật trong một thời gian ngắn đã được nhiều thành phố, trung tâm
công nghiệp và các vị trí đầu mối giao thông quan trọng của Trung Quốc.
Tháng 7 – 1938, quân Nhật mở nhiều cuộc tấn công vào vùng
hồ Khát-xan thuộc lãnh thổ Liên Xô để thăm dò. Trong khi đó, ở châu Âu, Anh và
Pháp thực hiện chính sách nhượng bộ Phát xít Đức. Ngày 29 – 8 – 1938, chính phủ
hai nước này kí với Đức một hiệp ước tại Muyních (Đức), chấp nhận cho Đức chiếm
đóng Tiệp Khắc [1] với hy vọng hướng mũi tiến công của Đức về phía Đông, đáng
Liên Xô. Tháng 2 – 1939, Nhật chiếm đảo Hải Nam,
phong tỏa hoàn toàn lục địa Trung Quốc. Tháng 3 – 1939, quân Nhật tấn công vào
khu vực sông Khan Khin Gôn của Mông Cổ, khiêu khích Liên Xô. Hồng quân Liên Xô
phối hợp với quân Mông Cổ tiêu diệt toàn bộ tập đoàn quân số 6 của Nhật Bản.
Ngày 23 – 8 – 1939, Liên Xô kí với Đức hiệp ước không xâm
phạm, để tránh rơi vào tình thế bị tấn công từ hai phía Đông và Tây, đồng thời
để tranh thủ thời gian tăng cường lực lượng quốc phòng và triệt để lợi dụng mâu
thuẩn giữa hai khối đế quốc và Phát xít.
Từ
1-9-1939 đến 2-9-1945, Chiến tranh thế giới thứ hai khốc liệt diễn ra. Cuộc chiến
gồm nhiều mặt trận: mặt trận Tây Âu; mặt trận Xô - Đức; mặt trận Bắc Phi; mặt
trận châu Á - Thái Bình Dương và mặt trận trong lòng địch (của nhân dân các nước
bị phát xít chiếm đóng). Trong đó, ngoài mặt trận chủ yếu, quyết định đối với
toàn bộ tiến trình của Chiến tranh thế giới thứ hai là mặt trận Xô-Đức, tác động
đến số phận của Việt Nam, là mặt trận Tây Âu (cụ thể là Pháp) và trực tiếp nhất
là mặt trận châu Á-Thái Bình Dương. Cũng trong Chiến tranh thế giới thứ hai,
năm 1943, QTCS-tổ chức lãnh đạo phong trào vô sản quốc tế đã tự giải tán, gây ảnh
hưởng không nhỏ tới hoạt động của các ĐCS trên thế giới.
Nước Pháp tại mặt trận Tây Âu: Ngày 10-5-1940,
quân Đức tràn vào Pháp, Bỉ, Hà Lan và Lúc-xăm-bua. Chỉ trong thời gian ngắn, Đức
vượt qua phòng tuyến của Pháp và đầu tháng 6 đến thủ đô Pari. Ngày 10-6, Chính
phủ Pháp bỏ Pari chạy về Tua. Nội bộ Chính phủ Pháp mâu thuẫn, trong đó đa số
thành viên Chính phủ chấp nhận đầu hàng. Ngày 17-6, Pê tanh (Pétain) lên cầm đầu
chính phủ đầu hàng phát xít Đức, Ý. Nền Cộng hòa Pháp bị thủ tiêu, thay thế bằng
chế độ độc tài quân sự. Ngày 27-10-1940, Đờ Gôn (DeGaulle) thành lập “Chính phủ
Pháp tự do”, muốn dựa vào lực lượng Anh, Mỹ để giải phóng đất nước. Mỹ và Anh vẫn
chưa tham gia chiến tranh, mà theo dõi tình hình các mặt trận. Khi thấy thất bại
của Đức đã rõ ràng, Mỹ - Anh mới mở Mặt trận thứ hai, đổ bộ lên miền Bắc Pháp
vào ngày 6-6-1944. Ngày 25-8-1944, quân Đồng minh tiến vào Pari. Chính phủ lâm
thời của nước Cộng hòa Pháp, do Đờ Gôn đứng đầu, được thành lập ở Pari. Nước
Pháp được giải phóng khỏi ách phát xít Đức.
Mặt trận Xô-Đức: Ngày 22-06-1941, Liên Xô
chính thức bước vào cuộc chiến. Phát xít Đức mở cuộc tấn công trên khắp biên giới
phía Tây của Liên Xô, dù tháng 8-1939, hai nước đã ký Hiệp ước không xâm lược
Xô-Đức. Tháng 10-1941, Đức tập trung lực
lượng mở cuộc tấn công vào Mátxcơva. Sáng 7-11-1941, kỷ niệm lần thứ 24 ngày
Cách mạng Tháng Mười, một cuộc duyệt binh đặc biệt diễn ra, trong đó các đơn vị
duyệt binh sẵn sàng vũ khí và đạn dược, diễu qua Hồng trường và tiến thẳng ra mặt
trận. Trong đó, có một trung đoàn quốc tế thuộc sư đoàn cơ động đặc nhiệm của Hồng
quân (gọi tắt tiếng Nga là OMSBON) gồm hơn 2.000 người cộng sản của Bungary,
Séc, Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Pháp... Trận Stalingrad diễn ra cuối năm 1942 mở đầu
cho những thất bại của phát xít Đức. Ngày 16-4-1945, Liên Xô tấn công Béclin,
và chiếm toàn thành phố ngày 2-5. Ngày 9-5-1945, lễ ký kết văn kiện đầu hàng
không điều kiện của phát xít Đức được tiến hành, kết thúc cuộc chiến tranh ở
châu Âu.
Mặt
trận châu Á - Thái Bình Dương: Ở châu Á,
Nhật Bản sớm có dã tâm bành trướng. Tháng 9-1931, Nhật xâm lược miền Đông Bắc
Trung Hoa, rồi dần mở rộng khu vực chiếm đóng. Tháng 11-1937, Đức, Ý và Nhật ký
Hiệp ước chống QTCS. Ngày 23-9-1940, với sự giúp đỡ của Đức, Nhật đã ký với
Chính phủ Pháp hiệp định để Nhật đưa quân đội vào Đông Dương. Ngày 27-9-1940,
ba nước phát xít lại ký hiệp ước đồng minh quân sự và chính trị ở Béclin. Hiệp
ước này nhằm chống Liên Xô, và cả Anh, Mỹ. Hiệp ước đề ra việc phân chia thế giới:
Đức, Ý ở châu Âu; Nhật ở Viễn Đông. Ngày
7-12-1941, máy bay Nhật oanh tạc dữ dội các tàu chiến và sân bay Mỹ ở cảng Trân
Châu (Hawaii), gây tổn thất nặng cho Mỹ. Ngày 8-12-1941, Mỹ và Anh tuyên chiến
với Nhật Bản. Từ cuối năm 1941 đến tháng 5-1942 là giai đoạn Nhật Bản thắng lớn.
Anh - Mỹ bị đánh bật ra khỏi Thái Bình Dương, mất hết các thuộc địa Đông Nam Á
và Nam Thái Bình Dương. Ngày 7-12-1941, quân Nhật từ Đông Dương kéo vào Thái
Lan. Ngày 31-12-1941, quân Nhật tấn công Inđônêxia. Ngày 15-2-1942, Xingapo thất
thủ. Đầu tháng 5-1942, quân Nhật chiếm được toàn bộ lãnh thổ Philíppin. Đầu năm
1943, Mỹ chuyển sang phản công trên toàn chiến trường, chiếm lại các quần đảo
và đảo ở Thái Bình Dương. Ngày 6-8 và
ngày 9-8-1945, Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống Hirosima và Nagasaki, hủy diệt
2 thành phố này. Ngày 8-8-1945, Liên Xô tuyên chiến với Nhật. Ngày 9-8-1945, Hồng
quân Liên Xô chính thức mở cuộc tấn công vào đạo quân Quan Đông của Nhật và chỉ
trong một tuần đã đánh bại đạo quân này. Ngày 15-8-1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu
hàng các nước Đồng minh. Ngày 2-9-1945, Nhật chính thức ký văn kiện đầu hàng,
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc.
Quốc
tế Cộng sản tự giải tán Trong năm 1943, Quốc tế Cộng sản - tổ chức cách mạng quốc
tế lớn chỉ đạo phong trào cộng sản và công nhân quốc tế cũng như phong trào giải
phóng dân tộc thuộc địa - tự giải thể. Nguyên nhân là do Chiến tranh thế giới
thứ hai nổ ra và lan rộng đã cản trở hoạt động của Quốc tế Cộng sản. Sự khó
khăn trong duy trì liên lạc với nhau cũng như đa dạng trong tình hình mỗi nước
khiến việc lãnh đạo phong trào cộng sản quốc tế từ một trung tâm duy nhất không
còn thích hợp nữa. Thêm nữa, các thế lực tư bản quốc tế coi sự tồn tại của QTCS
như cái cớ để trì hoãn việc triển khai mặt trận đồng minh chống phát xít. Do
nhu cầu cấp thiết phải “củng cố hơn nữa mặt trận thống nhất của các nước”, ngày
15-51943, Ban Chấp hành QTCS đã ra quyết định giải tán QTCS. Ngày 8-6-1943, Hội nghị cuối cùng của Ban Chấp
hành QTCS ra nghị quyết, từ 10-6-1943, tất cả hoạt động của QTCS kết thúc. QTCS
tự giải thể, ngoài nguyên nhân trực tiếp là tình hình chiến tranh, còn có căn
nguyên sâu xa là tổ chức này đã hoàn thành vai trò lịch sử của mình. Những sự
kiện trọng đại của thế giới này có ảnh hưởng lớn đến tình hình cách mạng ở Việt
Nam.
2. Hoàn cảnh
trong nước:
Do
tham dự vào Chiến tranh thế giới thứ hai, chính quyền Pháp thực thi chính sách
thời chiến một cách thô bạo ở Đông Dương. Là thuộc địa đem lại lợi ích kinh tế
hàng đầu cho Pháp, trong chiến tranh, Đông Dương càng bị thực dân Pháp bóc lột
ghê gớm. Chúng thực hiện chính sách kinh tế thời chiến, tức là chính sách “kinh
tế chỉ huy” nhằm huy động tối đa sức người, sức của phục vụ chiến tranh. Chính
quyền thực dân vơ vét vàng bạc, phát hành thêm tiền giấy, ấn định giá cả, tăng
thuế cũ, thêm thuế mới, phát hành công trái, sa thải viên chức, giảm tiền
lương, tăng giờ làm, bắt lính... Đã có 8 vạn lính Việt Nam bị đưa sang Pháp. Những
quyền tự do, dân chủ đã giành được trong thời kỳ 1936-1939 bị thủ tiêu. Toàn
quyền Pháp ra nghị định cấm tuyên truyền cộng sản, đóng cửa các tờ báo và nhà sản
xuất, cấm hội họp và tụ tập đông người. Ngày 4-1-1940, Toàn quyền Đông Dương
Catơru (George Catroux) tuyên bố: “Chúng ta đánh toàn diện và mau chóng vào các
tổ chức cộng sản; trong cuộc đấu tranh này, phải tiêu diệt cộng sản thì Đông
Dương mới được yên ổn và trung thành với nước Pháp. Chúng ta không có quyền
không thắng. Tình thế chiến tranh bắt buộc chúng ta hành động không chút thương
tiếc”.
Đồng thời, Đông Dương cũng là mục
tiêu quan trọng của Nhật Bản trong chiến lược bành trướng. Đông Dương có vị trí
thuận lợi, phù hợp làm bàn đạp mở rộng xâm lược các nước: từ Bắc Kỳ có thể tấn
công vào miền Nam Trung Quốc; từ Nam Kỳ có thể sang các nước Thái Lan, Miến Điện,
Ấn Độ và vùng hải đảo Đông Nam Á, thậm chí mở rộng tầm kiểm soát tới các đảo
phía Nam Thái Bình Dương (Ôxtrâylia, Niu Di-lân...). Đây còn là nguồn dự trữ
chiến lược quan trọng về lương thực, thực phẩm, năng lượng và các tài nguyên
khác phục vụ chiến tranh: các vựa lúa ở đồng bằng sông Cửu Long và sông Hồng, mỏ
than ở Bắc Kỳ, rừng cao su ở Nam Kỳ và Campuchia cùng các loại khoáng sản trải
rộng trên cả bán đảo có khả năng đáp ứng nhu cầu của quân đội Nhật.
Ngày 2 – 8 –
1940, Nhật Bản trao cho toàn quyền Đơcu một bức công hàm với nội dung: Pháp
phải cho Nhật tự do chuyển quân trên lãnh thổ Đông Dương để đánh Trung Hoa Quốc
dân Đảng; được sử dụng một số sân bay và bảo vệ những vị trí này ; Pháp phải
giúp đỡ việc vận tải vũ khí và đạn dược cho quân đội Nhật. Ngoài ra Nhật Bản
đòi được hưởng những điều kiện về thương mại bình đẳng với Pháp ở Đông Dương.
Nếu bị từ chối, Bộ ngoại giao Nhật Bản sẽ tiến vào Đông Dương.
Ngày 19 – 9 –
1940, Bộ ngoại giao Nhật bản thông báo cho đại sứ Pháp ở Tôkiô rằng, ngày 22 –
9, quân đội Nhật sẽ vào Đông Dương dù có đạt được hiệp ước quân sự với Đơcu hay
không.
Ngày 22 – 9,
đại diện Pháp và Nhật đã kí kết một Hiệp ước, trong đó quy định :
1. Quân đội Nhật được quyền sử dụng 3 sân bay lớn ở Bắc Kỳ (các sân bay Gia
Lâm, Hải Phòng, Phủ Lạng Thương). 2. Bộ tư lệnh Nhật có quyền đóng 6000 quân ở
Bắc sông Hồng. 3. Quân đội Nhật được quyền đi qua Bắc Kì để lên đánh quân Tưởng
Giới Thạch ở Vân Nam. Tổng số quân Nhật đồn trú trên đất Đông Dương không lúc
nào được quá 25.000 người.
4. Sư đoàn quân
Nhật ở Quảng Tây được quyền đi qua đồng bằng Bắc Kì để đi ra biển.
Mặc dù chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương chấp nhận những đòi hỏi của Nhật,
vào lúc 22 giờ cùng ngày, Sư đoàn 5 Ngự lâm quân của Nhật do tướng Nakamura chỉ
huy vượt biên giới Trung - Việt tấn công các vị trí quân Pháp ở Đồng Đăng và
Lạng Sơn. Các vị trí quân Pháp ở Na Sầm, Đồng Đăng, Điểm He, Lộc Bình bị tiêu
diệt. Ngày 24 – 9 quân Nhật tiến tới thị xã Lạng Sơn. Quân Pháp bỏ chạy về Đồng
Mỏ, và ngày 25 – 9, kéo cờ trắng xin hàng.
Ngày 25 – 9 –
1940, ở một hướng khác, quân đoàn viễn chinh Đông Dương thuộc Pháp của Nhật do
tướng Nishimura Takuma chỉ huy đổ bộ vào Đồ Sơn. Ngày hôm sau, 26 – 9, quân
Nhật tiến vào chiếm đóng Hải Phòng không tốn một viên đạn.
Mặc dù quân
Nhật đã làm chủ Bắc Đông Dương nhưng chúng vẫn chưa thỏa mãn. Ngày 14 – 7 –
1941, Nhật Bản đưa yêu sách cho Pháp đòi đưa quân vào Nam Đông Dương và được sử
dụng ác sân bay, hải cảng ở khu vực này. Phía pháp đã chấp thuận.
Ngày 25 – 7 –
1941, một hạm đội Nhật gồm 4 chiến hạm, 12 tuần dương hạm thả neo ở Ô Cấp (Vũng
Tàu).
Ngày 27 – 7 –
1941, tại Visi nước Pháp, đại diện của Nhật và Pháp kí hiệp ước phòng thủ chung
Đông Dương, với những điều khoản :
1. Pháp và Nhật
cùng hợp tác quân sự trong việc phòng thủ chung Đông Dương.
2. Chính phủ
Pháp đồng ý cho chính phủ Nhật những tiện nghi sau đây:
a. Gửi qua nam Đông Dương một số lượng bộ binh, hải quân, và không Nhật
cần thiết. b. Sử dụng như căn cứ không quân 8 điểm như: Siemreap,
Phnom-Pênh, Tourane (Đà Nẵng), Nha Trang, Biên Hòa, Sài Gòn, Sóc Trăng và
Kompong Trach và căn cứ hải quân: Sài Gòn và Cam Ranh. c. Các đơn vị Nhật
được toàn quyền thực tập và điều động không bị hạn chế bởi hiệp ước Nashihara –
Martin (23 – 9 – 1940).
d. Chính
phủ Pháp đồng ý cung cấp cho quân đội Nhật số tiền 23 triệu đồng trong tài
khoản 1941, tức là 4,5 triệu đồng một tháng. Số tiền này sẽ được bồi hoàn, hoặc
bằng “yên”, hoặc bằng mỹ kim hay vàng.
Ngày 28 – 7 – 1941, quân Nhật đổ bộ lên đất Sài Gòn. Đến cuối năm 1941 đã có
125.000 quân Nhật đóng trên đất Đông Dương và thực chất đã làm chủ Đông Dương,
tuy trên danh nghĩa Đông Dương vẫn là thuộc địa của Pháp
Chính sách thống trị của phát xít Nhật ở Đông Dương.
Đông Dương đã bị biến thành căn cứ quân
sự của Nhật để đánh chiếm toàn Đông Nam Á.
Về kinh tế, Nhật vẫn để hệ thống kinh tế của pháp ở Đông
Dương tiếp tục hoạt động, nhưng nắm quyền điều khiển nó. Với Hiệp định Tôkiô
ngày 6 – 5 – 1941, phía Pháp thừa nhận địa vị đặc biệt ưu đãi của Nhật trong
các quan hệ kinh tế ở Đông Dương, thực chất là Nhật độc chiếm Đông Dương.
Nhật Bản yêu
cầu chính quyền thực dân Pháp để 50% giá trị nhập khẩu và 15% giá trị xuất khẩu
của Đông Dương cho các công ty thương mại cho Nhật. Ngoài ra, nhật còn mua của
Đông Dương mănggan, apatit, crôm, thiết, càphê,…với giá rẻ so với thị trường
thế giới.
Một số công ty
của Nhật cũng đầu tư vào những ngành cần cho những ngành quân sự như khai
khoáng. Năm 1941, tư bản Nhật ở Đông Dương chiếm gần 50% tổng số vốn đầu tư của
các công ty nước ngoài. Tư bản Nhật đặt vốn khai thác quặng mănggan và sắt ở
Thái Nguyên, phốt phát ở Lào Cai và quặng Crôm ở Thanh Hóa.
Nhật bắt chính
quyền thực dân Pháp hàng năm nộp cho chúng một khoản tiền khá lớn. Năm 1940,
nộp 6 triệu đồng, năm 1941 – 58 triệu đồng, năm 1942 – 86 triệu đồng, năm 1943
– 117 triệu đồng, năm 1945 – 90 triệu đồng. Trong 4 năm 6 tháng, chính quyền
thực dân Pháp phải nộp một khoản tiền là 723.786 nghìn đồng
Về quân sự, Hiệp định ngày 29 – 7 – 1941 với danh nghĩa
phòng thủ chung Đông Dương, quân Nhật được tự do di chuyển trên khắp lãnh thổ
Đông Dương không hạn chế số lượng,… Hiệp định quân sự ngày 8 – 12 – 1941 nêu rõ
chính quyền thực dân Pháp phải cung cấp các phương tiện chiến tranh, thiết lập
các căn cứ quân sự, cung cấp vật chất cho quân đội Nhật. Chính quyền thực dân
Pháp phải cam kết đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân Đông Dương, đảm bảo
an ninh hậu phương cho quân Nhật.
Trong chiến
tranh, việc giao thông vận tải có một vai trò quan trọng. Quân đội Nhật ở Đông
Dương buộc Pháp phải để chúng sử dụng mọi phương tiện giao thông. Chúng kiểm
soát hệ thống đường sắt, các tàu biển chở hàng có trọng tải 200.000 tấn đậu ở
các cảng Đông Dương.
Quân Nhật còn
cướp ruộng đất của nông dân để xây dựng trại lính, bắt nông dân nhổ lúa, ngô để
trồng đay, thầu dầu để phục vụ cho nhu cầu chiến tranh.
Về chính trị và tư tưởng, sau khi chiếm đóng Đông Dương,
bọn quân phiệt Nhật không lật đổ chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương mà sử
dụng nó như một công cụ với ba mục đích: Thứ nhất, để đàn áp phong trào cách
mạng Đông Dương, giữ yên hậu phương cho quân đội Nhật; thứ hai, để vơ vét, bóc
lột sức người, sức của ở Đông Dương để phục vụ cho cuộc chiến tranh của Nhật;
thứ ba, để che dấu bộ mặt xâm lược của mình, đóng vai “người giải phóng” nhân
dân Châu Á. Chính sách đó khác với chính sách bọn Nhật thi hành ở các nước Đông
Nam Á vì lợi dụng được tình hình Chính phủ Pháp đã đầu hàng Đức.
Chính sách của
quân phiệt Nhật đối với thực dân Pháp ở Đông Dương là chính sách hai mặt. Trong
khi “cộng tác” với Pháp, Nhật Bản ra sức tuyên truyền tư tưởng Đại Đông Á, như
mở các phòng thông tin, xuất bản tạp chí Tân Á bằng tiếng Việt, mở các cuộc
triển lãm bằng tranh ảnh,… Đồng thời Nhật cũng chú trọng xây dựng cơ sở xã hội
cho mình.
Từ năm 1942,
Nhật đã hồi phục các tổ chức thân Nhật ở Việt Nam bị Pháp đàn áp trong những
năm 1940 – 1941, như Phục Quốc, Cao Đài, Hòa Hảo,…giúp đỡ các nhóm Đại Việt dân
chính, Đại Việt quốc xã, Đảng Việt nam ái quốc,…dựa vào nhóm này Nhật hy vọng
lúc cần thiết sẽ lật đổ chính quyền thực dân Pháp. Với cuộc đảo chính ngày 9 –
3 – 1945, bọn thân Nhật càng hy vọng vào lời hứa hẹn Nhật sẽ trao trả độc lập
cho Việt Nam. Hàng loạt đảng phái thân Nhật xuất hiện. Chỉ riêng Bắc Kì đã có
hơn 30 tổ chức thân Nhật .
Bọn thực dân Pháp ở Đông Dương một mặt cam chịu khuất
phục quân Nhật, phải thực hiện các yêu sách của Nhật, mặt khác ngấm ngầm chuẩn
bị lực kượng chờ cơ hội lật lại. Chính sách của Pháp là tranh thủ giới
thượng lưu Đông Dương và khuyến khích các nhóm hội thân Pháp hoạt động.
Dưới hai tầng áp bức của Nhật và
Pháp, nhân dân Việt Nam càng bị bóc lột nặng nề hơn. Gánh nặng lương thực, tiền
bạc Nhật bắt Pháp nộp lại đổ lên đầu nhân dân. Mức nộp này mỗi năm một tăng:
năm 1941 là 558.000 tấn gạo, 58 triệu đồng; năm 1942 là 973.000 tấn gạo, 85 triệu
đồng; năm 1943 là 1.023.470 tấn gạo, 117 triệu đồng; năm 1944 là 363 triệu đồng
.Quân Nhật cướp ruộng đất xây dựng trại lính, bắt nông dân nhổ lúa trồng đay phục
vụ nhu cầu chiến tranh. Tình trạng bóc lột nặng nề và kéo dài khiến xảy ra nạn
đói đầu năm 1945, làm cho gần 2 triệu người chết đói ở miền Bắc.
Chính sách của
Pháp nhằm tranh thủ giới thượng lưu ở Đông Dương, cho họ tham gia những chức vụ
quản lí và thừa hành, ràng buộc họ trung thànhvới nước Pháp. Được dịp, các nhóm
thân Pháp cũng hoạt động. Nhóm bảo hoàng Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi hô hào trở lại
hiệp ước 1884, yêu cầu Pháp tăng quyền cho vua quản quan bản xứ để chống lại
bọn thân Nhật. Nhóm Nguyễn Phan Long, Bùi Quang Chiêu, ra sức tuyên truyền khẩu
hiệu “cách mạng quốc gia”, “Pháp - Việt phục hưng” của chính phủ phản động
Pêtanh.
Nhận biết rõ ràng
hoạt động của Pháp nhưng vẫn làm ngơ vì chưa đến lúc cần thiết phải hành động.
Đến 3 – 1945, quân Nhật lâm vào tình trạng nguy ngập ở chiến trường Thái Bình
Dương, Nhật làm đảo chính Pháp ở Đông dương để loại trừ mối hiểm họa. Từ ngày 9
– 3 – 1945, quân đội Nhật độc chiếm Đông Dương.
Chính sách
thống trị và bóc lột của Pháp - Nhật khiến cho tình cảnh và đời sống các giai
cấp, tầng lớp xã hội ở Đông Dương thay đổi sâu sắc.:
Giai cấp
công nhân bị tước đoạt một số quyền nhân sinh, dân chủ đạt được trong thời kì
Mặt trận dân chủ 1936 – 1939. Theo nghị định của Toàn quyền Đông Dương ngày 10
– 4 – 1939, giờ làm việc của công nhân tăng từ 60 lên 78 giờ mỗi tuần. Tiền
lương bị giảm. Một số công nhân bị sa thải hoặc thất nghiệp, một số bị động
viên đi lính phục vụ cho chiến tranh.
Giai cấp
nông dân bị sưu cao, thuế nặng. Ruộng đất của họ bị tước đoạt, tài sản bị vơ
vét để phục vụ cho chiến tranh. Họ còn phải đi phu làm đường, đào kênh, xây
dựng các công trình công cộng. Không chỉ bần, cố nông bị đói khổ, mà cả những
tầng lớp khá giả như trung, phú nông cũng bị sa sút.
Tầng lớp
tiểu tư sản : Nhiều tiểu thương, tiểu chủ bị phá sản, viên chức bị giảm lương,
những người lao động trí óc như nhà văn, nhà báo không kiếm được việc làm.
Giai cấp
tư sản dân tộc: Việc kinh doanh, sản xuất không tăng trưởng vì mức thuế cao của
nhà nước thực dân và sức tiêu thụ hàng của dân giảm.
Giai cấp
địa chủ: trừ một số ít đại địa chủ có thế lực chính trị, lợi dụng chiến tranh
để làm giàu, còn địa chủ nhỏ và vừa cũng bị thiệt hại về chính sách thuế, thu
thóc tạ, mua ngũ cốc rẻ của nhà nước.
Nhìn chung, các
giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam đều chịu những tác động xấu bởi chính
sách bóc lột của Nhật, Pháp và bọn phong kiến. Mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam
với đế quốc Pháp - Nhật, giữa nông dân với địa chủ phong kiến ngày càng gay
gắt. Toàn thể nhân dân Việt Nam sẵn sàng đứng lên giành độc lập, tự do dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương.
II. SỰ CHUYỂN HƯỚNG CHỈ ĐẠO CHIẾN LƯỢC CÁCH MẠNG CỦA
ĐẢNG.
1. Hội nghị Ban Chấp hành TW Đảng tháng 11 năm 1939:
Trước
những biến đổi nhanh chóng của tình hình thế giới và trong nước từ khi Chiến
tranh thế giới thứ hai nổ ra, ngày 6-11-1939, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng lần thứ sáu được triệu tập tại Bà Điểm (Hóc Môn, Gia Định), do Tổng Bí thư
Nguyễn Văn Cừ chủ trì. Hội nghị phân tích tính chất của Chiến tranh thế giới thứ
hai, vị trí của Đông Dương trong cuộc chiến tranh, những chính sách của thực
dân Pháp, thái độ của các giai cấp xã hội và đề ra đường lối chính trị của cách
mạng Đông Dương, cũng như quyết định thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản
đế Đông Dương.
Ngày 1 tháng 9
năm 1939, chiến tranh thế giới nổ ra tại Châu Âu, một tuần sau, ngày 8 – 9 –
1939, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương, Nguyễn Văn Cừ triệu tập Hội nghị Xứ
ủy Bắc Kì tại làng Vạn Phúc, Hà Đông.
Trên cơ sở phân
tích tình hình thế giới và trong nước đã thay đổi, Hội nghị đề cập tới việc tận
dụng thời cơ chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Tiếp đó, từ ngày
mồng 6 đến ngày 8-11-1939, tại Bà Điểm, quận Hóc Môn, tỉnh Gia Định (cách Sài
Gòn khoảng 20km), Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng) được triệu tập. Tham
gia hội nghị có Tổng Bí thư Đảng Nguyễn Văn Cừ, Võ Văn Tần, Phan Đăng Lưu, Lê
Duẩn.
Dựa vào các
phân tích những vấn đề cơ bản của cuộc chiến tranh đế quốc, chính sách của Liên
Xô đối với chiến tranh, vị trí Đông Dương trong cuộc chiến tranh, chính sách
của chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương, vị trí, thái độ của các giai cấp xã
hội, các đảng phái chính trị, vấn đề dân tộc và phong trào dân tộc trong cuộc
đấu tranh giải phóng Đông Dương…, Hội nghị đề ra đường lối đấu tranh vũ trang
nhằm lật đổ chính quyền thực dân, phong kiến, thành lập chính quyền cách mạng
của Đông Dương.
Về vấn đề dân
tộc, Hội nghị nêu rõ: “Vấn đề dân tộc ở Đông Dương phải xét theo hai mặt: Một
mặt là các dân tộc Đông Dương đoàn kết thống nhất đánh đổ đế quốc Pháp đòi Đông
Dương hoàn toàn độc lập và các dân tộc được quyền tự quyết, một mặt nữa là các
phong trào dân tộc giải phóng ở Đông Dương phải liên lạc khăng khít với cách
mệnh thế giới (là một bộ phận của cách mệnh vô sản thế giới) để đánh đổ kẻ thù
chung là tư bản đế quốc và xây dựng một thế giới không có dân tộc bị áp bức,
không có ranh giới quốc gia và chia rẽ dân tộc, nghĩa là thế giới cộng sản.
“…Không có một
dân tộc nào có thể giải phóng riêng rẽ vì Đông Dương ở dưới quyền thống trị duy
nhất của đế quốc Pháp về mặt chính trị, kinh tế và binh bị. Không thể có một bộ
phận nào thoát khỏi nền thống trị ấy mà chẳng liên quan đến cả toàn thể nền
thống trị của đế quốc Pháp. Sự liên hiệp các dân tộc Đông Dương không nhất
thiết bắt buộc các dân tộc phải thành lập một quốc gia duy nhất vì các dân tộc
như Việt Nam, Miên, Lào xưa nay vẫn có sự độc lập. Mỗi dân tộc có quyền giải
quyết vận mệnh theo ý muốn của mình, song sự tự quyết không nhất định là rời
hẳn nhau ra”
Về tương quan lực lượng:
a) Một bên là đế quốc Pháp cầm hết quyền kinh tế, chính
trị, dựa vào bọn vua quan bổn xứ thối nát và bọn chó săn phản bội dân tộc.
b) Một bên là cả các dân tộc từ Việt Nam, Miên, Lào đến Thổ, Thượng,
v.v..tất cả các giai cấp trừ bọn phong kiến và một số bộ phận phản động trong
đám địa chủ và tư sản, tất cả các đảng phái, trừ bọn chó săn đế quốc phản bội
quyền lợi dân tộc…”
Về mục tiêu
trực tiếp của Cách mạng Đông Dương trong tình hình mới:
“Dưới đường
sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không có con đường nào khác hơn là con
đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống lại tất cả ách ngoại xâm vô luận da trắng hay
da vàng để tranh lấy giải phóng dân tộc. Đế quốc Pháp còn, dân chúng Đông Dương
chết, đế quốc Pháp chết, dân chúng Đông Dương còn" .
Về phương hướng
chiến lược cách mạng: “…đứng trong tình thế khác ít nhiều với tình thế
1930-1931, chiến lược cách mệnh tư sản dân quyền bây giờ cũng phải thay đổi ít
nhiều cho hợp với tình thế mới. Cách mệnh phản đế và điền địa là hai cái mấu
chốt của cách mệnh tư sản dân quyền. Không giải quyết được cách mệnh tư sản dân
quyền, không giải quyết được cách mệnh điền địa – cái nguyên tắc chính ấy không
bao giờ thay đổi được, nhưng nó phải ứng dụng một cách khôn khéo thế nào mà để
thực hiện được nhiệm vụ chính cốt của cách mệnh là đánh đổ đế quốc. Hiện tình
hình có thay đổi mới. Đế quốc chiến tranh, khủng hoảng cùng với ách thống trị
phát xít thuộc địa đã đưa vấn đề dân tộc thành một vấn đề khẩn cấp rất quan
trọng. Đám đông trung tiểu địa chủ và tư bản bổn xứ cũng căm tức đế quốc. Đứng
trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả
mọi vấn đề của cuộc cách mệnh, cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào cái mục
đích ấy mà giải quyết .
Về hình thức
tiến hành đấu tranh, Nghi quyết viết: “Phải biết xoay tất cả phong trào đấu
tranh lẻ tẻ vào cuoậc đấu tranh chung, phản đối đế quốc chiến tranh, chống đế
quốc Pháp và bè lũ, dự bị những điều kiện bước tới bạo động làm cách mệnh giải
phóng dân tộc.
Về mặt tổ chức,
Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp Hành Trung ương Đảng quyết nghị thành lập Mặt Trận
Thống nhất phản đế Đông Dương, trong đó “lực lượng chính của Cách Mệnh là công
nông”, “dưới quyền chỉ huy của vô sản giai cấp” [6;539-540]
Hội nghị đã đưa
ra một cương lĩnh cụ thể của công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, gồm 14
điểm:
1.Đánh đổ đế quốc Pháp, vua chúa bổn xứ và tất cả bọn phản động tay sai
cho đế quốc và phản bội dân tộc ta.
2.Đông Dương
hoản toàn độc lập (thi hành quyền dân tộc tự quyết).
3
.Lập Chính Phủ
Liên bang Cộng hoà dân chủ Đông Dương.
4.Đánh đuổi hải, lục, không quân của đế quốc Pháp ra khỏi
xứ, lập Quốc dân cách mạng quân.
5.Quốc hữu hoá những nhà hàng, các cơ quan vận tải, giao
thông, các binh xưởng, các sản vật trên rừng, dưới biển và dưới đất.
6.Tịch kí và quốc hữu hoá tất cả các xí nghiệp của tư bản
ngoại quốc, bọn đế quốc thực dân và tài sản của bọn phản bội dân tộc.
7.Tịch kí và quốc hữu hoá đất ruộng của đế quốc thực dân,
cố đạo và bọn phản bội dân tộc. Lấy đất của bọn phản bội, cố đạo, đất công
điền, đất bỏ hoang chia cho quần chúng nhân dân cày cấy.
8.Thi hành Luật lao động ngày 8 giờ, 7 giờ chia cho các hầm
mỏ, luật xã hội bảo hiểm hoàn toàn, tiền hưu trí cho thợ, tìm công ăn việc làm
cho thợ thất nghiệp, công việc ngang nhau đồng lương ngang nhau.
9. Bỏ tất cả các khế ước cho vay đặt nợ. Lập nhà băng nông
phố và bình dân ngân hàng.
11.Ban hành các quyền tự do dân chủ, các quyền nghiệp đoàn,
bãi công, phổ thông đầu phiếu.
12.Phổ thông giáo dục cưỡng bách.
13.Nam nữ bình quyền về mọi phương diện xã hội, kinh tế, chính
trị.
14.Mở rộng các cuộc xã hội, y tế, cứu tế, thể thao
[6;541-542].
Tóm lại, với đường lối Cách mạng được đề ra tại Hội nghị lần 6 Ban Chấp Hành
Trung ương Đảng, cách mạng Việt Nam bước vào một giai đoạn mới – giai đoạn trực
tiếp chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành độc lập dân tộc.
2. Hội nghị Ban Chấp
hành TW lần 7 tháng 11 năm 1940.
Để ứng phó với tình hình mới (sự có
mặt của phát xít Nhật ở Đông Dương), Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần
thứ bảy (ngày 6 đến 9-11-1940 tại Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh). Hội nghị phân
tích tình hình thế giới, tình hình Đông Dương, tình hình Đảng và các hội quần
chúng, đưa ra đường lối cho cách mạng tương ứng với tình hình mới. Hội nghị lần thứ 7 của Trung ương Đảng tháng 11-1940 vạch rõ nguy
cơ của các dân tộc Đông Dương bị "một cổ hai tròng". Kẻ thù chính của
các dân tộc Đông Dương lúc này không chỉ là thực dân Pháp mà cả phát xít Nhật.
Hai tên đế quốc này ra sức vơ vét, bóc lột nhân dân để phục vụ cho chiến tranh.
Do đó "một cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy, Đảng phải chuẩn bị để
gánh lấy cái sứ mạng thiêng liêng, lãnh đạo các dân tộc bị áp bức Đông Dương,
võ trang bạo động giành lấy quyền tự do, độc lập" Hội nghị đã thảo
luận và quyết định hai vấn đề cấp thiết:
Thứ nhất, duy trì lực lượng vũ
trang Bắc Sơn, thành lập những đội du kích hoạt động phân tán, dùng hình thức
vũ trang công tác vừa chiến đấu chống địch, bảo vệ nhân dân vừa phát triển cơ
sở cách mạng tiến tới thành lập khu du kích, lấy vùng Bắc Sơn - Vũ Nhai làm
trung tâm. Đảng cho rằng cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra ngày 27-9-1940 dù chỉ
tồn tại trong một tháng và diễn ra trong phạm vi một huyện nhưng có ý nghĩa
lịch sử lớn. Nó mở đầu cuộc đấu tranh vũ trang của các dân tộc Đông Dương thời
kỳ Chiến tranh thế giới thứ II, đồng thời qua cuộc khởi nghĩa này Đảng ta rút
được bài học quý giá về đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa vũ trang và chọn thời
cơ.
Thứ hai, quyết định đình chỉ việc
chuẩn bị phát động khởi nghĩa của Xứ ủy Nam Kỳ vì chưa có điều kiện bảo đảm
thắng lợi. Chủ trương của Trung ương vừa truyền đạt đến Sài Gòn thì đêm
23-11-1940 cuộc khởi nghĩa đã bùng nổ và bị thất bại. Tiếp đó, cuộc nổi dậy của
binh lính yêu nước trong quân đội Pháp ngày 13-1-1941 do Đội Cung chỉ huy cũng
bị dập tắt. Cả ba cuộc nổi dậy diễn ra ở ba miền Bắc - Trung - Nam tuy bị dập
tắt, song đã thức tỉnh tinh thần cách mạng của quần chúng cả nước, như“chim én
nhỏ báo hiệu mùa xuân”.
3.
Hội nghị Ban Chấp hành TW lần 8 tháng 5 năm 1941.
Đầu năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
bí mật trở về nước sau 30 năm Người ra nước ngoài tìm đường cứu nước. Tháng
5-1941, thay mặt Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần thứ 8
của Trung ương Đảng. Hội nghị tiến hành từ ngày 10 đến 19-5-1941 tại khu rừng
Khuổi Nậm, Pác Bó (Hà Quảng, Cao Bằng) do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì, với
sự tham gia của Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Phùng Chí Kiên,
đại biểu xứ ủy Bắc Kỳ và Trung Kỳ.
Phân tích tình hình thế giới, Nghị quyết của hội nghị nhận
định: “Nếu cuộc chiến tranh đế quốc lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội
chủ nghĩa, thì cuộc chiến tranh đế quốc lần này, sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ
nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”. ội nghị đã ra nhiều quyết
định quan trọng.
Một là tiếp tục đặt giải phóng dân tộc lên làm nhiệm vụ hàng
đầu: Về tình hình Đông Dương, Hội nghị xác định rõ: “Khẩu hiệu của Đảng ta là
trước hết phải làm sao giải phóng cho được các dân tộc Đông Dương khỏi ách của
giặc Pháp – Nhật”. Ban chấp hành Trung ương nêu rõ mâu thuẫn chủ yếu ở nước ta
đòi hỏi phải được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế
quốc, phát xít Pháp - Nhật. Bởi “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề
dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì
chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi
của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Để tập trung cho nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng lúc này, Ban
Chấp hành Trung ương quyết định tạm gác lại khẩu hiệu "Đánh đổ địa chủ,
chia ruộng đất cho dân cày", thay bằng khẩu hiệu "Tịch thu ruộng đất
của bọn đế quốc và Việt Nan cho dân cày nghèo", "Chia lại ruộng đất
công cho công bằng và giảm tô, giảm tức"...
Hai là, quyết định thành lập Mặt trận
Việt Minh để đoàn kết tập hợp lực lượng cách mạng nhằm mục tiêu giải phóng dân
tộc. Theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc, Ngày 19-5-1941, Hội nghị quyết định thành
lập Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) thay cho Mặt trận Dân tộc
thống nhất phản đế Đông Dương và đặt ra nhiệm vụ giúp đỡ các dân tộc Lào và
Campuchia thành lập mặt trận của mình. Các tổ chức của Việt Minh sẽ là các Hội
Cứu quốc. đổi tên các Hội phản đế thành Hội cứu quốc (Công nhân cứu quốc, Nông
dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Phụ lão cứu quốc, Thiếu
niên cứu quốc…) để vận động, thu hút mọi người dân yêu nước không phân biệt
thành phần, lứa tuổi, đoàn kết bên nhau đặng cứu Tổ quốc, cứu giống nòi.
Ba là, quyết định xúc tiến chuẩn bị
khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân ta trong giai
đoạn hiện tại.
Hội nghị nhận định “cuộc cách mạng Đông Dương sẽ kết liễu
bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang” và “với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo
một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương giành thắng lợi mà mở đường
cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn” và quyết định sau khi đánh đuổi đế quốc
Pháp – Nhật “sẽ thành lập một chính phủ nhân dân của Việt Nam dân chủ cộng hòa
lấy lá cờ đỏ ngôi sao vàng 5 cánh làm cờ toàn quốc”, nhấn mạnh nhiệm vụ tăng
cường đội ngũ của Đảng là lấy “vận động công nhân làm công việc đầu tiên trong
việc tổ chức quần chúng của Đảng”…
Để đưa ra cuộc khởi nghĩa vũ trang đến thắng lợi, cần phải ra
sức phát triển lực lượng cách mạng, bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ
trang, xúc tiến xây dựng căn cứ địa cách mạng. Ban Chấp hành Trung ương chỉ rõ:
Việc "chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của Đảng ta và dân ta
trong giai đoạn hiện tại". Trung ươg quyết định duy trì lực lượng vũ trang
Bắc Sơn và chủ trương thành lập những đội đu kích hoạt động phân tán, dùng hình
thức vũ trang vừa chiến đấu chống địch, bảo vệ nhân dân, vừa phát triển cơ sở
cách mạng, tiến tới thành lập khu căn cứ, lấy vùng Bắc Sơn, Vũ Nhai làm trung
tâm.
Hội nghị đã bầu ra Ban chấp hành
Trung Đảng và cử Trường Chinh làm Tổng bí thư. Ban Thường vụ có thêm Hòang Văn
Thụ và Hoàng Quốc Việt.
Hội nghị lần 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã hoàn chỉnh đường lối đấu tranh mới của Đảng
được nêu ra ở Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương (tháng 11 -1939).Đó
là đặt nhiệm vụ giải hpóng dân tộc lên hàng đầu, đoàn kết rộng rãi mọi lực lượng yêu nước
trong Mặt Trận Việt Minh, xây dựng lực lượng quần chúng ở cả nông thôn và thành
thị; tiến tới xây dựng căn cứ địa cách mạng và lực lượng vũ trang; tích cực
chuẩn bị lực lượng mọi mặt đón thời cơ khởi nghĩa giành độc lập.
III. QUÁ TRÌNH
CHUẨN CHO TỔNG KHỞI NGHĨA VŨ TRANG GIÀNH CHÍNH QUYỀN.
Quá trình chuẩn bị cho
Tổng khởi nghĩa vũ trang gồm chuẩn bị về lực lượng chính trị, vũ trang, căn cứ
địa cách mạng.
1. Xây dựng lực lượng
chính trị.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám (5/1941)
đã xác định lực lượng cách mạng của ta bao gồm: Tiền phong quân
chính là giai cấp vô sản trong nước; đội quân hậu bị trực tiếp: trong
nước gồm nông dân và các tầng lớp nhân dân, ngoài nước: cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc của các dân tộc thuộc địa và cuộc cách
mạng của nhân dân ở chính quốc… Đồng thời Hội nghị cũng nhấn mạnh
nếu không có lực lượng cách mạng (bao gồm lực lượng chính trị và
lực lượng vũ trang) hùng hậu thì không thể có khởi nghĩa thắng lợi,
chúng ta phải dựa trên sức ta mà giải phóng cho ta. Quán triệt sâu
sắc quan điểm trên Đảng ta đã tích cực bắt tay vào xây dựng lực
lượng chính trị và lực lượng vũ trang vững mạnh để chuẩn bị cho
khởi nghĩa. Dưới ánh sáng Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám của Trung
ương Đảng và các chỉ thị tiếp theo, các cấp bộ đảng và Mặt trận Việt Minh đã
tích cực xây dựng tổ chức đảng và các tổ chức cứu quốc của quần chúng, phát
triển lực lượng chính trị và phong trào đấu tranh của quần chúng ở cả nông thôn
và đô thị, xây dựng các căn cứ địa cách mạng, tiến hành vũ trang cho quần chúng
cách mạng, củng cố và phát triển lực lượng du kích.
Ngày 19 – 5 – 1941, Việt Nam Độc lập đồng minh ra đời. Ngày
25-10-1941 Việt Minh công bố tuyên ngôn, Chương trình, Điều lệ. Tuyên ngôn
nêu rõ: “Từ khi lập quốc, xét lịch sử nước ta, chưa bao giờ dân tộc ta nhục
nhằn, đau khổ như lúc này.Nguy cơ diệt vong đã bày ra trước mắt. Hiện thời,
chúng ta chỉ có một con đường mưu sống là đoàn kết thống nhất, đánh đuổi Nhật,
Pháp, trừ khử Việt gian.
Chương trình
cứu nước của Việt Minh gồm 44 điểm, bao gồm các chính sách về chính trị, kinh
tế, văn hoá, xã hội nhắm thực hiện hai điều cốt yếu mà quốc dân đồng bào đang
mong ước là:
“1.Làm cho dân Việt Nam được hoàn toàn độc lập. 2. Làm cho dân tộc Việt Nam được sung sướng, tự do”.
Chương trình
cứu nước của Việt Minh sau khi được đúc kết thành 10 chính sách lớn đem thực
hiện ở Khu giải phóng Việt Bắc và được Đại hội Quốc dân ở Tân Trào thông qua
tháng 8-1945, trở thành chính sách cơ bản sau này của nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà.
Công tác tuyên
truyền, vận động được tiến hành dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng như
truyền đơn, ca dao, hò vè…nhất là xuất bản báo chí Cách mạng.
Tại Cao Bằng,
Nguyễn Ái Quốc sáng lập và trực tiếp phụ trách báo “Việt Nam độc lập” (gọi tắt
là “Việt Lập” – cơ quan tuyên truyền của Mặt trận Việt Minh. Ngày 1 – 8 – 1941,
báo “Việt Lập” là vũ khí sắc bén của Mặt Trận Việt Minh trong cuộc vận động
giải phóng dân tộc, góp phần giáo dục, động viên quần chúng hăng hái tham gia
các tổ chức cứu quốc.
Ngày 25 – 1 –
1942, Tổng bộ Việt Minh xuất bản báo Cứu quốc – cơ quan tuyên truyền đường lối,
chính sách của Mặt Trận Việt Minh.
Từ cuối năm
1941, ở Cao Bằng đã có những xã, tổng toàn dân tham gia Việt Minh (gọi là “xã
hoàn toàn”, “tổng hoàn toàn”). Đến cuối năm 1942, Cao Bằng có 3/9 châu là Hoà
An, Hà Quảng, Nguyên Binh, trở thành “châu hoàn toàn”.Ở những nơi này, bộ máy
chính quyền địch chỉ tồn tại về mặt hình thức, còn thực tế quyền hành do Việt
Minh nắm giữ. Phong trào Việt
Minh, phát triển từ Cao Bằng, đến các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Bắc
Cạn, Thái Nguyên.
Mặt trận Việt
Minh với 3 hình thức cơ bản là Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốx, Nông dân
cứu quốc còn được xây dựng ở các tỉnh đồng bằng, ở nông thôn và thành thị, như
Hà Đông, Hà Nội, Hà Nam, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hưng Yên, Phú Thọ, Sơn Tây, Phúc
Yên, Hoà Bình (Bắc Kì), Thanh Hoá, Quảng Bình (Trung Kì).
Chủ trương của
Mặt trận Việt Minh cũng đến được số bộ phận đảng viên còn lại ở Nam Kì. Vì vậy,
ở một số nơi thuộc ngoại thành Sài Gòn, vùng Bà Điểm, Hoóc Môn (Gia Định), Đức
Hoà (Chợ Lớn), Lái Thiêu (Thủ Dầu Một) đã xuất hiện cơ sở của Việt Minh.
Một số nơi ở Nam Kì do chưa nhận được chủ trương thành
lập Mặt trận Việt Minh, cán bộ Đảng và quần chúng yêu nước đã lập ra tổ chức
quần chúng với các hình thức, như “Nhóm công nhân nòng cốt”, “Hội đá banh”, “Hội
đổi công”, “Hội tương tế”. Những tổ chức này đã góp phần vào việc bảo vệ cán
bộ, đảng viên, giữ vững tinh thần cho quần chúng trong hoàn cảnh bị khủng bố
trắng.
Sau khi đã tập hợp
được đông đảo quần chúng vào mặt trận Việt Minh, hướng tiếp theo của
Đảng là đưa quần chúng đấu tranh với các hình thức thích hợp. Thông
qua mặt trận Việt Minh, các cấp ủy đảng địa phương đã lãnh đạo
nhiều cuộc đấu tranh của nhân dân, trên khắp các địa bàn và ngay cả
trung tâm kinh tế chính trị của địch. Đó là các cuộc đấu tranh của
công nhân bến tàu Sài Gòn, công nhân Hòn Gai, nông dân Thái Bình, công
nhân nhà máy xe lửa Gia Lâm… nổi bật nhất trong thời kỳ này là phong
trào phá kho thóc để cứu đói cho nhân dân. Các cuộc đấu tranh tạo nên
khí thế cách mạng mạnh mẽ, thí thế của ngày khởi nghĩa sắp đến
gần.
Từ năm
1943 đến 1945, phong trào cách mạng phát triển ngày càng mạnh và đều khắp. Ở
Bắc Kỳ, hầu hết các đảng bộ địa phương đã lãnh đạo xây dựng được các tổ chức
cứu quốc ở hầu khắp các vùng ở nông thôn và đô thị. Tại Hà Nội, tổ chức Việt
Minh được thành lập trong nhiều nhà máy, trường học, đường phố. Nhiều cuộc bãi
công đòi tăng lương của công nhân đã nổ ra ở Hà Nội, Hải Phòng, Uông Bí, Nam
Định... Phong trào đấu tranh chống nhổ lúa trồng đay, nhổ ngô trồng thầu dầu,
chống bắt phu, bắt lính, chống thu thóc tạ... lôi cuốn nông dân tham gia ngày
càng đông đảo. Phong trào Việt Minh ở các tỉnh miền Trung cũng trên đà phát
triển mạnh trong nông dân, công nhân, dân nghèo thành thị...
Ở Nam Kỳ, phong trào cách mạng phục hồi, hệ thống tổ chức đảng được xây
dựng lại ở nhiều địa phương. Tổ chức Việt Minh đã có cơ sở ở Sài Gòn, Gia Định,
Tây Ninh. Hàng chục cuộc đấu tranh của công nhân đã nổ ra tại Sài Gòn.
Phong trào
thanh niên, học sinh, trí thức ở thành phố bắt đầu phát triển khiến cho bọn đế
quốc phátxít Pháp-Nhật lo sợ. Bên cạnh thủ đoạn bạo lực đàn áp, chúng tích cực
dùng nhiều thủ đoạn chính trị, văn hóa rất xảo quyệt để ngăn chặn phong trào
thanh niên, trí thức. Phátxít Nhật ra sức tuyên truyền thuyết "Đại Đông
Á", thuyết "Khu vực thịnh vượng chung". Chúng mở trường dạy
tiếng Nhật, tổ chức triển lãm, chiếu phim, phát hành báo chí gây tâm lý sợ Nhật
và phục Nhật.
Đảng đã đẩy mạnh hoạt động chống lại những nọc độc văn hóa tư tưởng phản
động của Pháp-Nhật và tay sai, tuyên truyền đường lối cứu nước của Đảng, cổ vũ
quần chúng lên trận tuyến cách mạng. Báo chí cách mạng là một vũ khí sắc bén
trong công tác này. Đảng và Việt Minh cho xuất bản các báo: Giải phóng, Cờ
giải phóng, Chặt xiềng, Cứu quốc, Việt Nam độc lập, Bãi Sậy, Đuổi giặc nước,
Tiền phong, Kèn gọi lính, Quân giải phóng, Kháng địch, Độc lập, v.v.. Trong
các nhà tù các chiến sĩ cách mạng cũng cho ra báo Suối reo (Sơn La), Bình
Minh (Hòa Bình), Thông reo (Chợ Chu), Dòng sông Công (Bá
Vân)...
Trên văn đàn
công khai lúc đó xuất hiện xu hướng cải lương, bi quan, yếm thế. Một số tác
phẩm tiến bộ, thể hiện tinh thần yêu nước, nhưng chưa có phương hướng đấu tranh
rõ rệt. Đảng chủ trương phái cán bộ hoạt động trong lĩnh vực văn hóa để gây một
phong trào văn hóa tiến bộ, sử dụng các hình thức công khai hoặc nửa công khai
để tập hợp các nhà hoạt động văn hóa, văn nghệ...
Năm 1943, Đảng
đưa ra bản Đề cương văn hóa Việt Nam. Bản đề cương khẳng định văn hóa là
một trong ba mặt trận cách mạng do Đảng lãnh đạo. Nhiệm vụ của các nhà văn hóa
yêu nước và cách mạng là phải chống lại văn hóa nô dịch, ngu dân của bọn
phátxít và tay sai, tiến tới xây dựng trong tương lai một nền văn hóa mới theo
ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học và đại chúng.
Cuối năm 1944,
Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam ra đời, thu hút trí thức và các nhà hoạt động văn
hóa vào trận tuyến đấu tranh vì một nền văn hóa mới, vì sự nghiệp chống
Pháp-Nhật, giành độc lập, tự do.
Đảng vận động
và giúp đỡ một số sinh viên, trí thức yêu nước và tiến bộ thành lập Đảng Dân
chủ Việt Nam (tháng 6-1944), một chính đảng của tư sản dân tộc và trí thức yêu
nước, tiến bộ. Đảng này tham gia Mặt trận Việt Minh và tích cực hoạt động, góp
phần mở rộng thêm khối đại đoàn kết dân tộc, làm thất bại âm mưu chia rẽ và lôi
kéo tư sản dân tộc và trí thức của phátxít Nhật và tay sai.
Đảng cũng tăng cường công tác vận động binh lính người
Việt, lính Pháp và lê dương. Từ Trung ương đến các địa phương đều có tổ chức
ban binh vận. Đảng đã cử người liên lạc với những người thuộc phái tả của Đảng
Xã hội Pháp trong quân đội lê dương, trong công chức Pháp ở Việt Nam và cả
những người Pháp thuộc phái Đờ Gôn ở Đông Dương để thực hiện một liên minh
chống phátxít. Song do bản chất thực dân ngoan cố và sợ Nhật của những người
theo phái Đờ Gôn nên chủ trương liên minh đó của Đảng không có kết quả.
2. Quá trình chuẩn
bị về lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng.
Cùng với việc
xây dựng lực lượng chính trị, Trung ương Đảng và Nguyễn Ái Quốc quan tâm xây
dựng lực lượng vũ trang cách mạng.
Ngay từ Hội nghị
lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (11 – 1940), Đảng ta chủ trương phát
triển Đội du kích Bắc Sơn làm vốn quân sự lâu dài của Đảng. Thực hiện chủ trương của Hội nghị lần
thứ 7 Ban chấp hành Trung Ương Đảng, Hoàng Văn Thụ đã tổ chức một cuộc họp với
Ban chỉ huy Đội du kích Bắc Sơn thành Cứu quốc quân, làm lực lượng nòng cốt xây
dựng căn cứ địa Bắc Sơn – Vũ Nhai.
Đội cứu quốc
quân vừa tích cực chiến đấu, mở rộng địa bàn hoạt động,vừa phát triển lực
lượng, chuẩn bị cho ngày lễ thành lập chính thức Cứu quốc quân.
Ngày 1 – 5 – 1941, một cuộc mít tinh lớn được tổ chức trọng thể tại Khuổi Nọi
(xã Vũ Lễ, châu Bắc Sơn) kỉ niệm ngày Quốc tế lao động, đồng thời làm lễ ra mắt
“Đệ nhất trung đội du kích Bắc Sơn”.Tham gia mít tinh có đông đảo quần chúng
cách mạng thuộc nhiều dân tộc.
Sau hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung Ương Đảng, “Đệ
nhất Trung đội đội du kích Bắc Sơn” đổi tên thành “Trung đội cứu quốc quân I”.
Trung đội cứu
quốc quân I lúc đầu có 32 cán bộ, chiến sĩ, gồm con em các dân tộc Tày, Nùng,
Dao, Kinh. Đây là đơn vị
vũ trang chính quy đầu tiên của Đảng, ra đời trong phong trào quần chúng. Ngay
sau khi thành lập, Trung đội Cứu quốc quân I vừa tổ chức huấn luyện, vừa tham
gia những hoạt động quân sự nhằm chống khủng bố, bảo vệ dân, bảo vệ căn cứ Cách
mạng.
Giữa năm 1941, thực dân Pháp huy động một lực lượng gồm
4.000 quân mở cuộc càn quét vùng Bắc Sơn – Vũ Nhai với âm mưu tiêu diệt Cứu
quốc quân, phá phong trào cách mạng. Trung đội Cứu quốc quân I bám đất, bám
dân, kiên trì chiến đấu. Sau 8 tháng chiến đấu gian khổ (từ tháng 7-1941đến
tháng 2-1942), một bộ phận Cứu quốc quân vượt vòng vây địch, rút lên biên giới
Việt-Trung. Trên đường rút, Cứu quốc quân bị địch phục kích đã bị tổn thất lớn.
Bộ phận Cứu quốc quân còn lại hoạt động phân tán trong dân, gây dựng cơ sở
chính trị, phát triển lực lượng.
Ngày 15 – 9 – 1941, Trung đội Cứu quốc quân II được thành
lập tại rừng Khuôn Máy (xã Tràng Xá, châu Vũ Nhai). Trung đội cứu quốc quân II
lúc đầu có 47 chiến sĩ chia thành 5 tiểu đội. Sau khi thành lập, Ban chỉ huy
Cứu quốc quân II đã phân công các đơn vị đến các địa phương đẩy mạnh cuộc đấu
tranh chống địch khủng bố. Mục tiêu chiến đấu của Cứu quốc quân lúc này là tiêu
diệt những tên mật thám đầu sỏ, phá các cuộc hành quân càng quét của địch. Địa
bàn hoạt động của Cứu quốc quân ở Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lạng Sơn.
Cuối tháng 10 – 1941, thực hiện chỉ thị Trung ương về
việc kiện toàn lực lượng chiến đấu lâu dài, Cứu quốc quân rút vào rừng sâu để
chấn chỉnh đội ngũ.Lúc này toàn độicó khoảng 60 người, phiên chế thành 7 tiểu
đội. Sau đó, toàn Đội bước vào học tập đường lối, chính sách của Đảng, Chương
trình và Điều lệ Việt Minh, cách tổ chức các Hội Cứu Quốc, học chiến thuật du
kích, các động tác quân sự cơ bản, học 10 điều kỉ luật và 5 lời thề của Đội.
Cứu quốc quân ra tờ báo Bắc Sơn, in bằng chữ Quốc ngữ, chữ Hán, chữ Pháp để
giáo dục trong nội bộ và làm tài liệu tuyên truyền trong quần chúng.
Ở Nam Kì, sau
cuộc khởi nghĩa 23 – 11 – 1940, những Đảng viên còn lại lãnh đạo các đội ngũ
quân tiếp tục hoạt động diệt ác, trừ gian, tuyên truyền Cách mạng.
Tại vùng Đồng
Tháp Mười, các đội nghĩa quân của các tỉnh Gia Định, Chợ Lớn, Tân An rút vào
Mương Xanh, Kinh Bo Bo, hoạt động trong một khu vực rộng lớn nằm giữa hai sông
Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây.
Ở vùng hạ lưu
sông Vàm Cỏ Tây, lực lượng du kích Mĩ Tho với hơn 100 đội viên vẫn hoạt động ở
Phú Mĩ, Tân Hoà Thành, Tân Thạch Mĩ…Du kích đã diệt nhiều tên tay sai, chỉ điểm
cho giặc.
Đến giữa năm
1942, địch tập trung càn quét, hoạt động của du kích đã tạm dừng.
Tại vùng Lạc An
(Tân Uyên, Biên Hoà), một đội vũ trang đã rút vào rừng thực hiện chiến tranh du
kích.
Những hoạt động
của các đội du kích trên tiêu biểu cho tinh thần anh dũng, bất khuất của các
Đảng viên và nhân dân Nam Kì.Trong lời kêu gọi đồng bào, các Đảng phái cách
mạng và các dân tộc bị áp bức Đông Dương, Trung Ương Đảng đã viết “Những đội du
kích Nam Kì rút vào rừng sâu,sau cuộc khởi nghĩa cuối năm ngoái cũng vẫn chiến
đấu không ngớt”.Thông báo “Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và trách nhiệm cần
kíp của Đảng”, ngày 21-12-1941, Trung ương kêu gọi: Đối với những bộ đội du
kích Bắc Sơn, Nam Kì […], các đảng bộ cần phải xem xét những điều kiện có thể
mở rộng những bộ đội ấy, gây thêm những bộ đội mới để mở rộng du kích chiến
tranh. Đồng thời phải gia tăng việc cổ động
ủng hộ các bộ đội du kích về mọi phương diện.
Về phía trung tâm Cao Bằng, phong trào Việt Minh phát triển mạnh mẽ. Khu
căn cứ được mở rộng sang các tỉnh Hà Giang, Bắc Cạn, Lạng Sơn. Các đoàn xung phong
Nam tiến hoạt động mạnh, phát triển cơ sở chính trị quần chúng trong các dân
tộc thiểu số, đánh thông đường liên lạc bằng một hành lang chính trị nối liền
hai khu căn cứ Cao Bằng và Bắc Sơn-Võ Nhai (cuối năm 1943), chuẩn bị cho sự ra
đời khu giải phóng Việt Bắc về sau.
Đồng thời với việc xây dựng lực lượng chính trị, lực
lượng vũ trang. Trung ương Đảng và Nguyễn Ái Quốc còn đẩy mạnh xây dựng căn cứ
địa. Sau Hội nghị lần thứ 7 của Ban chấp hành Trung ương, nhiều cán bộ được cử
đến tăng cường cho Bắc Sơn. Khi các Trung Đội cứu quốc quân ra đời, khu căn cứ
Bắc Sơn – Vũ Nhai được củng cố và mở rộng. Từ tháng 4-1941, một vùng núi hiểm
trở, rộng lớn thuộc các xã Vũ Lễ, Vũ Lăng, Ngư Viên (châu Bắc Sơn), Lán Thượng,
Tràng Xá (châu Vũ Nhai) được nối liền với nhau, trở thành khu trung tâm của căn
cứ Bắc Sơn – Vũ Nhai, trong đó vùng Khuổi Nọi (thuộc xã Vũ Lễ) là trung tâm
chính.
Vùng Khuồi Nọi
được cứu quốc quân cùng lực lượng tự vệ tổ chức canh phòng, bảo vệ chặt chẽ.
Trên các ngả đường vào khu vực này đều được canh gác.Ở khu trung tâm căn cứ
địa, phong trào quần chúng diễn ra công khai. Trật tự trị an các làng bản được
bảo đảm. Mọi tầng lớp nhân dân các dân tộc ở đây đều hăng hái ủng hộ cách mạng.
Các lớp huấn luyện quân sự, chính trị của Xứ uỷ Bắc Kì được tổ chức ở Khuổi Nọi
đã đào tạo nhiều cán bộ cho căn cứ Bắc Sơn – Vũ Nhai và cho cá tỉnh Lạng Sơn,
Thái Nguyên, Bắc Giang. Một trong những công việc quan trọng trong khu căn cứ
địa là xây dựng các đoàn thể Cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh và phong trào
quần chúng, đồng thời xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng.
Tháng 10-1941, đội du kích tập trung đầu tiên của Cao
Bằng được thành lập gồm 13 người. Nhiệm vụ của đội là bảo vệ cơ quan Đảng, bảo
vệ cán bộ, xây dựng cơ sở cho lực lượng tự vệ, thực hiện công tác đặc biệt,
giao thông liên lạc.
Dưới sự chỉ đạo
trực tiếp của Trung ương và Nguyễn Ái Quốc, căn cứ địa Cao Bằng đã hình thành
và từng bước phát triển vững chắc, trở thành một trung tâm lãnh đạo phong trào
cách mạng của cả nước.
Một công tác quan trọng nữa của Trung ương Đảng thực hiện
trong thời gian này là xây dựng các khu an toàn ở Hà Nội – cơ quan đầu não của
địch. Từ đầu năm 1942, ban thường vụ Trung ương lập các khu an toàn ở Đông Anh,
Yên Lãng (Phúc Yên), Từ Sơn, Gia Lâm (Bắc ninh), Hoài Đức (Hà Đông). Các khu an
toàn này cách Hà Nội từ 10 đến 20km, sau đó Trung ương còn xây dựng các khu an
toàn dự bị ở Hiệp Hòa (Bắc Giang), Phổ Yên, Phú Bình (Thái Nguyên). Cơ quan đầu
não của Đảng chuyển về xuôi. Ban thường vụ Trung ương bám sát Hà Nội theo dõi
phong trào chung và chỉ đạo toàn Đảng.
Sang năm 1943, tình hình thế giới có những chuyển biến lớn. Hồng quân Liên Xô
chiến thắngở Xtalingrat, đánh dấu bước ngoặt căn bản của cuộc chiến tranh giữ
nước vĩ đại của Liên Xô.
Mùa hè năm
1945, quân đội Xô Viết đập tan cuộc phản công của Hitle vòng cung ở cuôcxơ.
Chiến thắng của Hồng quân Liên Xô cổ vũ manh mẽ phong trào giải phóng ở các
nước thuộc địa và phụ thuộc.
Đầu năm 1943,
cách mạng Việt Nam bước vào giai đoạn
phát triển mới. Những thay đổi của tình hình thế giới và trong nước đòi hỏi
Đảng ta phải có chủ trương đẩy mạnh hơn nữa công tác chuẩn bị cho cuộc khởi
nghĩa vũ trang giành chính quyền.
Từ ngày 25 đến
28-2-1943, Ban thường vụ Trung ương họp ở Võng La (Đông Anh, Phúc Yên) bàn việc
mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất và xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang.
Về cuộc chiến tranh thế giới, Hội nghị nhận định: “Năm 1943 này là năm phe dân
chủ sẽ đánh phe phát xít một cách quyết liệt hơn để sửa soạn điều kiện cho bước
thắng lợi cuối cùng. Dưới sức thúc đẩy mạnh mẽ của nhân dân, Anh – Mỹ sẽ phải
đánh vào Âu lục, mặt trận thứ hai sẽ phải mở. Đó là lúc Liên Xô tổng phản công
đuỏi hẳn quân Trục ra khỏi nước, phe dân chủ sẽ thừa thắng phản công Trục bên
Viễn Đông.
Chiến tranh còn
kéo dài. Nhưng những thắng lợi của Liên Xô, sự tan rã của phát xít quốc tế và
sự cùng khổ của nhân dân các nước phát xít sẽ thúc đẩy cho cách mạng các nước
bùng nổ trong nhiều nước”.
Về đặc điểm của
phong trào cách mạng Đông Dương, Hội nghị nhận định:
1. Ở Đông Dương, Đảng cộng sản, chính đảng cách mạng của thợ thuyền, là
Đảng duy nhất lãnh đạo phong trào cách mạng. song những cuộc đấu tranh của thợ
thuyền lại không được mạnh mẽ và rộng rãi xứng đáng với vai trò lãnh đạo ấy.
2. Với Đông Dương hiện nay thiếu một phong trào cách mạng quốc gia tư sản
và phong trào thanh niên học sinh. Do đó, cuộc vận động cách mạng ở Đông Dương
vẫn hẹp hòi, có tính cách công nông hơn là tính cách toàn dân tộc.
3. Phong trào quần chúng đấu tranh hàng ngày tuy không bao gồm những hình thức
biểu tình thị uy, tổng bãi công…nhưng trái lại có nhiều cuộc tranh đấu vũ trang
có tính cách du kích và khởi nghĩa. Nhân dân Đông Dương cực khổ dưới hai tầng
áp bức, lai được tình hình thế giới kích thích, nên phong trào cách mnạg Đông
Dương có thể bổng chốc tiến lên bằng những bước nhảy cao.[7;290]
Vì vậy, Đảng
phải xúc tiến hơn nữa công việc khởi nghĩa theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị
lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương, coi việc “chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ
trung tâm của Đảng ta và dân ta trong giai đoạn hiện tại”.
Hội nghị vạch
ra một kế hoạch cụ thể về công việc chuẩn bị toàn diện cho cuộc khởi nghĩa vũ
trang, như tổ chức huần luyện các đội tự vệ, các tiểu tổ du kích, phổ biến kinh
nghiệm về khởi nghĩa và chiến tranh du kích qua sách báo và các lớp huấn luyện.
Nghị quyết cũng
nêu rõ phải đưa quần chúng ra đấu tranh chống Nhật – Pháp áp bức, bốc lột, tăng
thuế, phá hoại hoa màu…Qua đó, rèn luỵện tập dượt họ.
Nghị quyết Hội nghị nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng lực lượng cách
mạng ở thành thị, vận động công nhân tham gia khởi nghĩa.
Thực hiện nghị
quyết Hội nghị, trong các năm 1943 – 1944, ở Bắc Kì các đoàn thể Việt Minh được
xây dựng và củng cố cả ở nông thôn và thành thị. Ở Hà Nội, tồ chức Việt Minh
được thành lập trong nhiều nhà máy, trường học, khu phố, nhu nhà máy xe lửa Gia
Lâm, nhà máy sửa chữa ô tô Avia, xưởng đóng tàu, trường Bưởi, trường Gia Long,
trường kĩ nghệ thực hành…nhiều cuộc bãi công đòi tăng lương của công nhân nổ ra
ở Hà Nội, Hải Phòng, uông bí, nam định, việt trì…
Nông dân các
tỉnh đồng bằng Bắc Kì đấu tranh chống nhổ lúa trồng đay, nhổ ngô trồng thầu
dầu, chồng cướp thóc, cướp đất…Tổ chức Việt Minh đã phát triển ở hầu khắp các
huyện.
Ở Bắc Sơn – Vũ
Nhai, cứu quốc quân hoạt động mạnh mẽ gây cơ sở chính trị, mở rộng khu căn cứ
ra nhiều huyện thuộc các tỉnh Thái Nguyên, tuyên quang, vĩnh yên, phú thọ, bắc
ninh, Bắc Giang…Trong quá trình đó, lực lượng cứu quốc quân phát triển thêm một
trung đội nữa – Trung đội cứu quốc quân III. Ngày 25 – 2 – 1944, lễ thành lập
trung đội cứu quốc quân III được tổ chức trọng thể tại khu rừng Khuổi Kịch (Sơn
Dương, Tuyên Quang). Trung đội có 30 cán bộ, chiến sĩ.
Ở Cao Bằng, khắp nơi trong tỉnh sôi nổi chuẩn bị khởi
nghĩa, thành lập thêm các đội tự vệ vũ trang, đội du kích, mở liên tiếp các lớp
huấn luyện quân sự, chính trị…Khu căn cứ được mở rộng ra các tỉnh Hà Giang, Bắc
Cạn, Lạng Sơn.
Năm 1943, Ban Việt Minh liên tỉnh Cao – Bắc – Lạng cử ra 19 đội xung phong “Nam
tiến” gặp đội “Bắc tiến” của cứu quốc quân ở chợ Đồn (Bắc cạn). hai trung tâm
căn cứ địa Bắc Sơn – Vũ Nhai đã được nối liền với nhau bằng một hành lang chính
trị, những căn cứ liên đoàn.
Để đẩy mạnh hơn
nữa việc kởi nghĩa, ngày 7 – 5 – 1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị “Sửa soạn
khởi nghĩa”.
Ngày 10 – 8 –
1944, kêu gọi toàn dân “sắm vũ khí, đuổi thù chung”.
Đáp lại kêu gọi
của Đảng và Việt Minh, nhân dân khắp nơi góp tiền mua vũ khí, ra sức huấn luyện
quân sự, củng cố và phát triển đội tự vệ.
Tháng 10 –
1944, thực dân Pháp mở cuộc càn quét lớn vào vùng Vũ Nhai (Thái Nguyên). Cấp ủy
Đảng địa phương phát động quần chúng khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa nổ ra khi chưa
có thời cơ, làm cho lực lượng cách mạng bộc lộ sớm, bị cô lập và tổn thất lớn.
thường vụ Trung ương Đảng đã nghiêm khắc phê bình lãnh đạo Đảng bộ địa phương
và kịp thời chỉ thị chuyển hướng hoạt động để bảo toàn lực lượng.
Cũng trong thời
gian này, liên tỉnh ủy Cao – Bắc – Lạng chủ trương phát động chiến tranh du
kích trong phạm vi 3 tỉnh. Khi công việc chuẩn bị nổi dậy hoàn thành, Hồ Chí
Minh từ trung quốc trở lại Cao Bằng, đã quyết định hoãn, vì kế hoạch đó “mới
chỉ căn cứ vào tình hình địa phương mà chưa căn cứ vào tình hình cụ thể trong
cả nước, mới chỉ thấy bộ phận mà chưa thấy toàn cục".
Hồ Chí Minh đã
nhận định: “bây giờ thời kì cách mạng hòa bình đã qua, nhưng thời kì toàn dân
khởi nghĩa chưa tới. nếu bây giờ chúng ta vẫn chỉ hoạt động bằng hình thức
chính trị không đủ để đấy mạnh phong trào đi tới. nhưng phát động vũ trang khởi
nghĩa ngay thì quân địch sẽ tập trung đối phó. Cuộc đấu tranh bây giờ pahỉ từ
hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự. phải tìm ra một hình thức thích
hợp thì mới có thế đấy manh phong trào tiến lên.
Người và Trung
ương Đảng ra “Chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền Giải Phóng quân”. Nó
là đội quân tuyên truyền, nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Đội có nhiệm vụ
vũ trang tuyên truyền, vận động nhân dân nổi dậy, gây dựng cơ sở chính trị và
quân sự cho cuộc khởi nghĩa sắp tới.
Thực hiện chỉ
thị này, ngày 22 – 12 1944, Võ Nguyên Giáp đứng ra thành lập đội Việt Nam tuyên
truyền giải phóng quân trong khu rừng Sau Cạo nằm giữa hai tổng Trần Hưng Đạo
và Hoàng Hoa Thám (thuộc châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng) Sau ngày thành lập,
Đội xuất quân giành được chiến thắng đầu tiên, tiêu diệt gọn hai đồn Phay Khắt
và Nà Ngần (Cao Bằng) trong hai ngày 25 và 26 – 12 – 1944.
III. KHỞI NGHĨA VŨ TRANG GIÀNH CHÍNH
QUYỀN VÀ HOÀN THIỆN QUÁ TRÌNH CHUẨN BỊ CỦA ĐẢNG CHO TỔNG KHỞI NGHĨA.
1. Cao trào kháng Nhật cứu nước và gấp
rút chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa giành chính quyền (tháng 3-1945 đến giữa tháng
8-1945).
a. Cao trào kháng Nhật cứu nước (tháng
3-1945 đến giữa tháng 8-1945).
* Nguyên nhân.
- Bối cảnh lịch
sử:
Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc.
Hồng quân Liên Xô đang truy kích phátxít Đức trên chiến trường châu Âu, giải
phóng nhiều nước ở Đông Âu và tiến như vũ bão về phía Béclin. Số phận của
phátxít Đức sắp kết liễu. Ở Tây Âu, Anh - Mỹ đã mở mặt trận thứ hai, đổ quân
lên đất Pháp và tiến về phía Tây nước Đức quốc xã. Công nhân Pari nổi dậy, nước
Pháp được giải phóng, Chính phủ Đờ Gôn về Pari.
Ở mặt trận Thái Bình Dương, phát xít Nhật cũng rất nguy khốn. Quân Anh đánh
lùi quân Nhật ở Miến Điện. Quân Mỹ đổ bộ lên Philíppin. Đường biển đến các căn
cứ ở Đông Nam Á của Nhật bị quân Đồng minh khống chế. Sống chết Nhật cũng phải
giữ lấy con đường bộ duy nhất nối liền từ Mãn Châu xuyên qua Đông Dương xuống
Đông Nam Á. Nhật rất lo sợ về việc quân Đồng minh sẽ đổ bộ vào Đông Dương, cắt
quân Nhật trên lục địa Viễn Đông thành hai khúc.
Lực lượng thực dân Pháp theo phái Đờ Gôn ở Đông Dương ngóc đầu dậy, hoạt
động ráo riết, chuẩn bị đón thời cơ khi quân Đồng minh đổ bộ lên Đông Dương sẽ
đánh Nhật nhằm khôi phục lại quyền thống trị của chúng trên bán đảo này. Mâu
thuẫn đối kháng giữa Nhật và Pháp ở Đông Dương càng trở nên gay gắt. "Cả
hai quân thù Nhật- Pháp đều đang sửa soạn tiến tới chỗ tao sống mày chết, quyết
liệt cùng nhau"
Tình thế thất bại của phátxít Nhật ở Thái Bình Dương buộc chúng phải làm
cuộc đảo chính lật đổ Pháp để độc chiếm Đông Dương và trừ mối họa bị quân Pháp
đánh vào sau lưng khi quân Đồng minh đổ bộ lên Đông Dương, đồng thời giữ cầu
nối liền các thuộc địa của chúng. Ngày 9-3-1945, Nhật nổ súng, lật đổ Pháp trên
toàn cõi Đông Dương. Quân Pháp chống cự rất yếu ớt và nhanh chóng đầu hàng.
- Chủ trương
của Đảng.
Dự đoán trước tình hình Nhật sắp sửa lật Pháp ở Đông Dương, Tổng Bí thư
Trường Chinh triệu tập Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng tại
làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh), ngay trước lúc Nhật nổ súng. Ngày 12-3-1945,
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành
động của chúng ta". Toàn bộ những nhận định cơ bản về tình hình và chủ
trương mới của Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng được thể hiện tập trung
trong bản Chỉ thị lịch sử đó.
Bản chỉ thị nhận định rằng cuộc đảo chính của Nhật lật đổ Pháp để độc chiếm
Đông Dương đã tạo ra một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, nhưng điều kiện
khởi nghĩa chưa thực sự chín muồi. Tuy vậy, hiện đang có những cơ hội tốt làm
cho những điều kiện tổng khởi nghĩa nhanh chóng chín muồi (chính trị khủng
hoảng do cuộc đảo chính gây ra, nạn đói ghê gớm và chiến tranh đến giai đoạn
quyết liệt).
Chỉ thị xác định kẻ thù cụ thể, trước mắt và duy nhất của nhân dân Đông
Dương sau cuộc đảo chính là phátxít Nhật, vì vậy phải thay khẩu hiệu "đánh
đuổi phátxít Nhật-Pháp" bằng khẩu hiệu "đánh đuổi phátxít Nhật"
và đưa ra khẩu hiệu "thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân Đông
Dương" để chống lại chính phủ bù nhìn Việt gian thân Nhật.
Chỉ thị chủ trương phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ
làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Mọi hình thức tuyên truyền, cổ động,
tổ chức và đấu tranh phải thay đổi cho thích hợp với thời kỳ tiền khởi nghĩa
nhằm động viên mau chóng quần chúng lên trận địa cách mạng, tập dượt quần chúng
tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Muốn vậy, phải thực hiện những hình
thức tuyên truyền và đấu tranh cao hơn và mạnh bạo hơn như tuyên truyền xung
phong có vũ trang, biểu tình tuần hành thị uy, bãi công chính trị, tổ chức quần
chúng đánh phá các kho thóc để giải quyết nạn đói, đẩy mạnh xây dựng các đội tự
vệ cứu quốc, tổ chức bộ đội, du kích, thành lập căn cứ địa cách mạng, phát động
du kích chiến tranh ở những nơi có điều kiện.
Phương châm đấu tranh lúc này là phát động chiến tranh du kích, giải phóng
từng vùng, mở rộng căn cứ địa. Đó là phương pháp duy nhất của dân tộc để đóng
vai trò chủ động trong việc đánh đuổi quân Nhật và sẵn sàng chuyển qua hình
thức tổng khởi nghĩa một khi có đủ điều kiện.
Chỉ thị cũng dự kiến những hoàn cảnh thuận lợi để thực hiện tổng khởi nghĩa
như khi quân Đồng minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật đã bám chắc, tiến sâu trên
đất ta và quân Nhật đã kéo ra mặt trận ngăn cản quân Đồng minh để phía sau sơ
hở. Cũng có thể là cách mạng Nhật bùng nổ và chính quyền cách mạng của nhân dân
Nhật được thành lập, hoặc Nhật bị mất nước như Pháp năm 1940 và quân đội viễn
chinh Nhật mất tinh thần. Chỉ thị còn nêu rõ rằng, dù sao ta vẫn không được ỷ
lại vào người và tự bó tay mình trong khi tình thế biến chuyển thuận lợi, mà
phải nêu cao tinh thần dựa vào sức mình là chính.
Bản chỉ thị ngày 12 -3-1945 thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết, kịp
thời của Đảng. Đó là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và Việt Minh với
khẩu hiệu "Đánh đuổi phátxít Nhật" thay cho khẩu hiệu "Đánh đuổi
Nhật, Pháp" trong cao trào kháng Nhật, cứu nước, trực tiếp dẫn đến thắng
lợi của cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.
*. Diễn biến cao trào:
Từ giữa tháng
3-1945 trở đi, cao trào kháng Nhật cứu nước đã diễn ra rất sôi nổi, mạnh mẽ và
phong phú về nội dung và hình thức.
Phong trào đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa từng phần đã diễn ra trong nhiều
nơi ở vùng thượng du và trung du Bắc Kỳ. Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
và Cứu quốc quân phối hợp với lực lượng chính trị của quần chúng giải phóng
hàng loạt xã, châu, huyện thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái
Nguyên, Tuyên Quang.
Ở Bắc Giang,
quần chúng nổi dậy thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng ở nhiều làng. Chính
quyền cách mạng tịch thu ruộng đất thuộc đồn điền Táctaranh (Tartarin), chia
cho nông dân nghèo và những gia đình có công với cách mạng. Đội du kích Bắc
Giang được thành lập. Ở Hưng Yên, đội tự vệ chiến đấu đánh chiếm đồn Bần, thu
toàn bộ vũ khí của địch. Ở Quảng Ngãi, cuộc khởi nghĩa nổ ra ở Ba Tơ. Đội du
kích Ba Tơ được thành lập. Đây là đội vũ trang thoát ly đầu tiên do Đảng tổ
chức và lãnh đạo ở miền Trung.
Hàng ngàn chiến sĩ cách mạng bị địch giam giữ trong các nhà tù Nghĩa Lộ,
Sơn La, Hoả Lò, Buôn Ma Thuột, Hội An... nhân cơ hội Nhật-Pháp bắn nhau đã vượt
ngục ra ngoài hoạt động.
Giữa lúc phong trào quần chúng trong cả nước đang phát triển mạnh ở cả nông
thôn và thành thị, nạn đói đã diễn ra nghiêm trọng ở các tỉnh Bắc Bộ và Bắc
Trung Bộ. Hơn 2 triệu đồng bào chết đói. Hàng triệu người khác sống ngắc ngoải.
Đó là hậu quả của chính sách bóc lột, vơ vét tàn bạo của bọn phátxít Nhật -
Pháp.
Xuất phát từ
lợi ích sống còn trước mắt của quần chúng, Đảng kịp thời đề ra khẩu hiệu "phá
kho thóc, giải quyết nạn đói". Chủ trương đó đáp ứng đúng nguyện vọng
cấp bách của quần chúng. Trong một thời gian ngắn, Đảng đã động viên được hàng
triệu quần chúng tiến lên trận tuyến cách mạng, "thổi bùng ngọn lửa căm
thù trong đông đảo nhân dân và phát động quần chúng vùng dậy với khí thế cách
mạng hừng hực tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền".
Cao trào chống Nhật, cứu nước không những động viên được đông đảo quần
chúng công nhân, nông dân, tiểu thương, tiểu chủ, học sinh, viên chức mà còn
lôi kéo cả tư sản dân tộc và một số địa chủ nhỏ. Binh lính, cảnh sát của chính
quyền Trần Trọng Kim cũng dao động, một số ngả theo cách mạng hoặc ủng hộ cách
mạng. Một số lý trưởng, chánh tổng, chánh phó tổng, tri phủ, tri huyện và cả
một số tỉnh trưởng cũng tìm cách liên lạc với Việt Minh... Bộ máy chính quyền
thống trị nhiều nơi tê liệt.
Thực hiện khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận, mở rộng căn cứ
địa cách mạng để thúc đẩy mạnh mẽ việc chuẩn bị lực lượng tiến lên tổng khởi
nghĩa, là điểm độc đáo và sáng tạo của Đảng ta trong tiến trình lãnh đạo chuẩn
bị khởi nghĩa vũ trang ở một nước vốn là thuộc địa.
b. Gấp rút chuẩn bị giành chính quyền
Ngày 16 tháng 4 năm 1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị về việc tổ chức Uỷ
ban giải phóng Việt Nam.
Giữa lúc cao trào kháng Nhật cứu nước đang cuồn cuộn dâng lên, ngày
15-5-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng
Bắc Kỳ tại Hiệp Hoà (Bắc Giang), do Trường Chinh chủ trì. Hội nghị nhận định:
tình thế đã đặt nhiệm vụ quân sự lên trên tất cả các nhiệm vụ quan trọng và cần
kíp trong lúc này. Chúng ta phải tích cực phát triển chiến tranh du kích, gây
dựng căn cứ địa kháng Nhật để chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ.
Hội nghị chủ trương thống nhất các lực lượng vũ trang sẵn có thành Việt Nam
giải phóng quân, xây dựng các chiến khu trong cả nước, phát triển hơn nữa
lực lượng vũ trang và nửa vũ trang, mở trường đào tạo cán bộ quân sự và chính
trị.
Tháng 5-1945, Hồ Chí Minh về Tân Trào (Tuyên Quang). Người chỉ thị phải gấp
rút chuẩn bị Đại hội quốc dân. Người cũng chỉ thị thành lập "khu giải
phóng". Ngày 4-6-1945, khu giải phóng chính thức được thành lập gồm hầu
hết các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hà Giang và
một số vùng lân cận thuộc Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên. Ủy ban lâm
thời khu giải phóng được thành lập. Khu giải phóng trở thành căn cứ địa chính
của cách mạng cả nước và là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới.
Các cuộc nổi dậy của quần chúng và các cuộc tiến công của các lực lượng vũ
trang diễn ra liên tiếp. Chính quyền cách mạng ở nhiều địa phương lần lượt ra
đời. Nhiều chiến khu mới được xây dựng như chiến khu Vần - Hiền Lương ở vùng
giáp giới hai tỉnh Phú Thọ và Yên Bái, chiến khu Đông Triều (Quảng Yên), chiến
khu Hoà - Ninh - Thanh, chiến khu Vĩnh Tuy và Đầu Rái (Quảng Ngãi)... Các căn
cứ địa cách mạng là bàn đạp để phát triển lực lượng cách mạng, là hậu phương
của các lực lượng vũ trang, là ngọn cờ hiệu triệu và cổ vũ phong trào cách mạng
cả nước.
Cùng với khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận, thực hiện chiến
tranh du kích ở những nơi có điều kiện, phong trào đấu tranh chính trị của quần
chúng phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ. Trong toàn quốc đã nổ ra nhiều cuộc
míttinh, biểu tình, diễn thuyết xung phong ở các chợ, bến đò, xí nghiệp, trường
học, rạp chiếu bóng. Ở nhiều địa phương, quần chúng cách mạng đã cảnh cáo bọn
quan lại, tổng lý cường hào cố ý chống lại cách mạng, trừng trị bọn Việt gian.
Ở nhiều thị xã, thành phố và ngay cả Hà Nội, các đội danh dự Việt Minh ra sức
hoạt động vũ trang tuyên truyền, diệt ác trừ gian, táo bạo trừ khử một số tên
tay sai đắc lực của địch, kích thích tinh thần cách mạng của quần chúng.
Các tổ chức cứu
quốc, các đội tự vệ cứu quốc được thành lập ở nhiều thôn xóm và phố phường.
Khắp nơi quần chúng nô nức tự vũ trang. Không khí sửa soạn tiến nhanh tới khởi
nghĩa sục sôi trong cả nước.
Trong thời kỳ gấp rút chuẩn bị tổng khởi nghĩa, Đảng rất coi trọng cuộc đấu
tranh để thống nhất đường lối, tăng cường sự nhất trí về tư tưởng và hành động
trong Đảng. Trung ương Đảng đã phát hiện kịp thời và phê phán nghiêm khắc quan
điểm mơ hồ, lệch lạc chớm nở trong một số cán bộ, đảng viên ở miền Trung khi
nêu chủ trương là lợi dụng và cải tổ chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim, nuôi hy
vọng giành độc lập bằng con đường thương lượng với Nhật. Chủ trương đó không
nhằm đúng vào kẻ thù chính trước mắt cần tập trung đánh đổ là phátxít Nhật và
bè lũ tay sai, đi chệch mục tiêu khởi nghĩa giành chính quyền do Đảng vạch ra.
Trung ương Đảng cũng phê phán tư tưởng "tả" khuynh và hữu khuynh của
một số cán bộ đảng viên hoạt động ở Nam Kỳ, trong các nhóm Tiền phong và Giải
phóng; kêu gọi các đồng chí đó hãy kíp gạt bỏ thành kiến, đi vào đường lối của
Đảng.
Đồng thời Trung ương Đảng kiên quyết vạch trần những thủ đoạn lừa bịp của
phátxít Nhật và các đảng phái chính trị tay sai Nhật, những luận điệu khiêu
khích phá hoại của bọn tơrốtkít, làm cho cán bộ và nhân dân thấy rõ đối với
Nhật chỉ có một cách là toàn dân đoàn kết, cầm vũ khí chiến đấu, mới tự quyết
định được số phận của mình trong những ngày khởi nghĩa sắp đến.
2. Tổng
khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 giành chính quyền.
a. Thời cơ
cách mạng chín muồi, Đảng Cộng sản Đông dương kịp thời chớp thời cơ, phát động
Tổng khởi nghĩa.
Chiến tranh thế giới thứ hai đi đến hồi kết
thúc. Ở châu Âu, tháng 5-1945, Quân đội Liên Xô đã tiêu diệt hoàn toàn bọn phát
xít Đức tại sào huyệt của chúng và buộc chúng đầu hàng vô điều kiện. Tại châu
Á, tháng 8-1945, Quân đội Liên Xô tiến công như vũ bão, đánh bại hơn 1 triệu
quân Quan Đông tinh nhuệ của Nhật tại Mãn Châu. Ngày 6 và 9/8, Mĩ ném hai quả
bom nguyên tử xuống Hirosima và Nagasaki của Nhật Bản..Trước sự tấn công dồn dập của phe Đồng minh, Chính phủ Nhật đầu hàng
Liên Xô và các nước Đồng minh không điều kiện. Ở
Đông Dương, binh lính Nhật hoang mang đến cực độ, chia rẽ và tê liệt, hơn 7 vạn
quân Nhật đang chờ quân Đồng minh vào giải giáp. Chính phủ Trần Trọng Kim đứng
trước tình thế tuyệt vọng, tạo thời cơ trực tiếp cho cách mạng nước ta.
Tuy nhiên quân đội các nước đế quốc với danh
nghĩa Đồng minh chuẩn bị vào Đông Dương tước vũ khí phát xít Nhật. Vì thế vấn
đề giành chính quyền được đặt ra như
một cuộc chạy đua nước rút với quân Đồng minh. Phải gấp rút hành động, không
được do dự, lừng chừng. Trước tình thế vô cùng khẩn cấp và thuận lợi đó, Đảng
kịp thời quyết định tổng khởi nghĩa.
Ngày 12-8-1945 Uỷ ban lâm thời khu giải phóng hạ lệnh khởi nghĩa trong khu.
Ngày 13-8-1945 Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương họp ở Tân Trào,
gồm đại biểu các đảng bộ trong nước và một số đại biểu hoạt động ở nước ngoài.
Hội nghị quyết định phát động tổng khởi nghĩa trong cả nước, giành lấy chính
quyền từ tay phátxít Nhật trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương. Khẩu hiệu
đấu tranh lúc này là: Phản đối xâm lược! Hoàn toàn độc lập! Chính quyền nhân
dân! Những nguyên tắc để chỉ đạo khởi nghĩa là tập trung, thống nhất và kịp
thời, phải đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng, không kể thành phố hay nông
thôn; quân sự và chính trị phải phối hợp; phải làm tan rã tinh thần quân địch
và dụ chúng hàng trước khi đánh. Phải chộp lấy những căn cứ chính (cả ở các đô
thị) trước khi quân Đồng minh vào, thành lập uỷ ban nhân dân ở những nơi đã
giành được quyền làm chủ...
Hội nghị cũng
quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội và đối ngoại cần thi
hành sau khi giành được chính quyền. Về đối nội, sẽ lấy 10 chính sách lớn của
Việt Minh làm chính sách cơ bản của chính quyền cách mạng. Về đối ngoại, thực
hiện nguyên tắc bình đẳng, hợp tác, thêm bạn bớt thù, triệt để lợi dụng mâu
thuẫn giữa Pháp - Anh và Mỹ - Tưởng, hết sức tránh trường hợp một mình phải đối
phó với nhiều kẻ thù trong một lúc; phải tranh thủ sự ủng hộ của Liên Xô, của
nhân dân các nước trên thế giới, nhất là nhân dân Pháp và nhân dân Trung Quốc.
Hội nghị còn
quyết định các vấn đề về công tác vận động quần chúng, đào tạo, sử dụng và phân
phối cán bộ và các vấn đề về công tác Đảng. Tại Hội nghị này, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng được bổ sung thêm một số uỷ viên. Ngay đêm 13-8-1945, ủy ban khởi nghĩa toàn quốc ra
bản “Quân lệnh số 1” phát động Tổng khởi nghĩa trong cả nước.
Tiếp sau Hội nghị toàn quốc của Đảng, ngày16-8-1945 Đại hội quốc dân cũng
họp tại Tân Trào. Về dự Đại hội có khoảng 60 đại biểu của các giới, các đảng
phái chính trị, các đoàn thể quần chúng cứu quốc, các dân tộc, các tôn giáo
trong nước và đại biểu kiều bào ở nước ngoài. Đại hội nhất trí tán thành quyết
định tổng khởi nghĩa của Đảng Cộng sản Đông Dương, thông qua 10 chính sách lớn
của Việt Minh, lập Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ
tịch.
Sự có mặt của
Hồ Chí Minh đem lại cho các đại biểu dự Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội
quốc dân một niềm tin tưởng vững chắc vào thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa và
tiền đồ tươi sáng của cách mạng nước ta. Ngay sau Đại hội quốc dân, Hồ Chí Minh
gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước:
"Giờ quyết
định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta
mà tự giải phóng cho ta... Chúng ta không thể chậm trễ.Tiến lên! Tiến lên! Dưới
lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!" - Hồ Chí Minh: Toàn tập,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.3, tr. 554.
.
Hưởng ứng chủ
trương tổng khởi nghĩa của Đảng và lời hiệu triệu của Hồ Chí Minh, nhân dân cả
nước, triệu người như một nhất tề nổi dậy, với tinh thần cách mạng tiến công
liên tục và dũng cảm, với ý chí dù có hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy
Trường Sơn cũng kiên quyết giành cho được độc lập.
b. Diễn biến Tổng khởi nghĩa:
Từ ngày 14-8-1945 trở đi, các đơn vị Giải phóng quân lần lượt tiến công các
đồn Nhật ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái, v.v.,
hỗ trợ quần chúng tiến lên giành chính quyền ở tỉnh lỵ. Ngày 16-8-1945, một đơn
vị Giải phóng quân do Võ Nguyên Giáp chỉ huy kéo về bao vây, tiến công quân
Nhật ở thị xã Thái Nguyên. Cũng từ ngày 14 đến ngày 18-8 ở hầu hết các tỉnh
miền Bắc, một số tỉnh miền Trung và miền Nam, quần chúng cách mạng đã nổi dậy
giành chính quyền ở cấp xã và huyện. Ngày 18 tháng 8 nhân dân Bắc Giang, Hải
Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam đã giành được chính quyền ở tỉnh lỵ.
Tại Hà Nội, ngày 17-8 Đảng bộ Hà Nội bí mật huy động quần chúng trong các
tổ chức cứu quốc ở nội và ngoại thành, chủ yếu là công nhân, thanh niên và tự
vệ cứu quốc để biến cuộc míttinh của Tổng hội viên chức thành cuộc míttinh kêu
gọi nhân dân ủng hộ Việt Minh, hăng hái tham gia khởi nghĩa. Cuộc míttinh liền
biến thành một cuộc biểu tình tuần hành, rầm rộ diễu qua các phố đông người,
tiến đến trước phủ toàn quyền cũ, nơi viên tư lệnh quân Nhật đóng, rồi chia thành
từng toán nhỏ, đi cổ động chương trình Việt Minh khắp các phố. Sau cuộc biểu
dương lực lượng, thành uỷ Hà Nội nhận định chúng ta đã có đủ điều kiện để có
thể quyết định phát động tổng khởi nghĩa. Sáng ngày 19-8, quần chúng rầm rộ kéo
đến quảng trường Nhà hát thành phố để dự cuộc míttinh lớn do Mặt trận Việt Minh
tổ chức. Ủy ban quân sự cách mạng đọc lời hiệu triệu khởi nghĩa của Việt Minh.
Quần chúng cách mạng chia thành nhiều đoàn đi chiếm phủ khâm sai, tòa thị
chính, trại bảo an binh, sở cảnh sát và các công sở của chính quyền bù nhìn.
Binh lính đứng về phía cách mạng. Trước khí thế áp đảo của quần chúng khởi
nghĩa, hơn một vạn quân Nhật ở Hà Nội tê liệt, không dám chống cự. Chính quyền
về tay nhân dân.
Thắng lợi của
cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội ngày 19-8 tạo điều kiện thuận lợi lớn cho quá trình
tổng khởi nghĩa đang tiếp diễn trong cả nước.
Ngày 23-8, ủy ban khởi nghĩa Thừa Thiên-Huế huy động quần chúng nông dân từ
các huyện đã giành được chính quyền ở ngoại thành, kết hợp với công nhân, nhân
dân lao động, thanh niên và các tầng lớp khác trong nội thành xuống đường biểu
dương lực lượng. Quần chúng lần lượt chiếm các công sở không vấp phải sức kháng
cự nào.
Ở Nam Kỳ, được tin Hà Nội và Tân An (tỉnh khởi nghĩa thí điểm của Xứ ủy) đã
về tay Việt Minh, Xứ ủy Nam Kỳ quyết định khởi nghĩa chiếm Sài Gòn và các tỉnh.
Trong đêm 24-8 các lực lượng khởi nghĩa của công nhân, nông dân, thanh niên với
gậy tầm vông vót nhọn và giáo mác, từ các tỉnh xung quanh rầm rập kéo về Sài
Gòn. Sáng 25-8, hơn 1 triệu người biểu tình tuần hành thị uy. Quân khởi nghĩa
chiếm các công sở quan trọng. Quân Nhật hoàn toàn tê liệt, không dám kháng cự.
Bọn phản cách mạng ở sở mật thám Catina chống cự yếu ớt, nhưng bị đè bẹp. Cuộc
khởi nghĩa thành công nhanh chóng. Mọi sinh hoạt trong thành phố đều giữ được
bình thường.
Thắng lợi của khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn và các đô thị khác đập tan
các cơ quan đầu não của kẻ thù có ý nghĩa quyết định thắng lợi của cách mạng
trong phạm vi cả nước. Ngày 30-8-1945, một cuộc míttinh gồm hàng vạn người tham
gia ở Ngọ Môn, thành phố Huế, chứng kiến Bảo Đại đọc lời thoái vị và giao nộp
ấn, kiếm cho đại diện Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Nhờ có sự chuẩn bị lực lượng chu đáo, lại nổ ra đúng thời cơ nên Cách mạng
Tháng Tám đã giành được thắng lợi nhanh, gọn, ít đổ máu. Chỉ trong vòng 15 ngày
(từ 14 đến 28-8) cuộc tổng khởi nghĩa đã thành công. Lần đầu tiên trong lịch
sử, chính quyền cả nước về tay nhân dân.
3. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra
đời:
Ngày 25-8-1945, Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng và Ủy ban dân tộc giải
phóng về đến Hà Nội. Ngày 28-8-1945, Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam tuyên
bố tự cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một chính
phủ thể hiện chính sách đoàn kết rộng rãi của Đảng đối với các tầng lớp nhân
dân, các đảng phái yêu nước, các nhân sĩ tiến bộ. Nhiều ủy viên Việt Minh trong
Chính phủ đã tự nguyện rút khỏi Chính phủ, tạo điều kiện để mời thêm nhiều nhân
sĩ ngoài Việt Minh tham gia "Đó là một cử chỉ vô tư, tốt đẹp, không ham
chuộng địa vị, đặt lợi ích của dân tộc, của đoàn kết toàn dân lên trên lợi ích
cá nhân" - Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, 2002, t.6, tr. 160
Ngày 2-9-1945, Lễ độc lập được tổ chức trọng thể tại Quảng trường Ba Đình.
Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân. Trước cuộc míttinh của hàng chục vạn đồng
bào thủ đô, thay mặt Chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc
lập, trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ra đời. Bản tuyên ngôn nêu rõ:
"Tất cả
các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền
sống, quyền sung sướng và quyền tự do" -
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
2002, t.3, tr. 555, 557..
"Nước Việt
Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc
lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính
mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".
Tuyên ngôn độc
lập là một văn kiện lịch sử có giá trị tư tưởng lớn và ý
nghĩa thực tiễn sâu sắc. Đó là thiên anh hùng ca chiến đấu và chiến thắng, chứa
chan sức mạnh và niềm tin, tràn đầy lòng tự hào và ý chí đấu tranh của nhân dân
ta trong sự nghiệp giành và giữ nền độc lập, tự do và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc Việt Nam.
III.
NGUYÊN NHÂN THẮNG LỢI Ý NGHĨA LỊCH SỬ, BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA CÁCH MẠNG THÁNG
TÁM NĂM 1945.
1. Nguyên nhân thắng lợi.
-
Cách mạng Tháng Tám thành công do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân quan
trọng, có ý nghĩa quyết định, đó là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, khôn khéo
của Đảng; là sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện lịch
sử cụ thể của nước ta một cách đúng đắn, độc lập, tự chủ và sáng tạo có phương
pháp; chiến lược, chiến thuật cách mạng thích hợp và linh hoạt. Tổng khởi nghĩa
Tháng Tám là đỉnh cao của 15 năm đấu tranh của toàn dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng, trải qua ba cao trào cách mạng lớn: Cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930 -
1931), cao trào dân chủ (1936 - 1939), cao trào cứu nước trong chiến tranh thế
giới thứ hai (1939 - 1945). Qua đấu tranh gian khổ, với nhiều hy sinh to lớn,
Đảng ta đã từng bước trưởng thành về chính trị, tư tưởng và tổ chức, xây dựng
được lực lượng xung quanh mình, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, phân hóa lực lượng kẻ thù, xác định kẻ thù chính, kẻ thù cụ thể trước
mắt để có sách lược khôn khéo tập hợp lực lượng. Đường lối lãnh đạo đúng đắn
của Đảng, phương châm, phương pháp, sách lược cách mạng mềm dẽo, linh hoạt đã
lôi cuốn, tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân thành một khối thống nhất,
hun đúc bầu nhiệt huyết, làm bùng cháy ngọn lửa cách mạng trong lòng mỗi người
dân Việt Nam. Trong quá trình vận động cách mạng, Đảng ta đã coi trọng cả đấu
tranh chính trị lẫn đấu tranh vũ trang, kết hợp chặt chẽ, linh hoạt, không chỉ
chú ý đưa nhân dân vào các tổ chức chính trị, Đảng còn từng bước vũ trang cho
nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Lực lượng vũ trang đó, được
nhân dân nuôi dưỡng, đùm bọc, có chỗ đứng vững chắc là các căn cứ địa cách
mạng. Vì thế, cho đến ngày Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, tuy ta chưa có đội quân
chủ lực mạnh nhưng đã có đủ các loại lực lượng vũ trang phát triển khắp nơi, ta
có ưu thế về lực lượng chính trị so với kẻ thù; Đảng đã phát huy ưu thế đó,
chớp đúng thời cơ lịch sử ngàn năm có một, với nghệ thuật lãnh đạo, chỉ đạo và
tổ chức khởi nghĩa khéo léo, tài tình, Đảng đã đưa cuộc Tổng khởi nghĩa đến
thắng lợi trọn vẹn trong cả nước.
Thắng
lợi của Cách mạng Tháng Tám là sự vận dụng thời cơ cách mạng chín muồi, lực
lượng cách mạng đã được chuẩn bị chu đáo cộng với sự lãnh đạo sáng suốt tài
tình của Đảng, biết nắm lấy thời cơ, biết sử dụng lực lượng cách mạng đúng lúc,
kết hợp chính trị và vũ trang, lấy lực lượng chính trị của nhân dân giữ vai trò
quyết định, kết hợp nông thôn và thành thị, kết hợp các hình thức đấu tranh hợp
pháp và không hợp pháp, từ thấp lên cao, từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng
khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn, đó chính là nguyên nhân chủ yếu đưa cuộc
Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám đến thắng lợi.
-
Nguyên nhân thứ hai rất quan trọng, đó là tinh thần yêu nước, ý chí quật cường
của các tầng lớp nhân dân ta không chịu sống mãi kiếp nô lệ của người dân mất
nước, nghe theo tiếng gọi của Đảng, quyết vùng lên đánh đổ bọn đế quốc, phát
xít cướp nước, bọn vua quan phong kiến, tay sai bán nước. Cuộc Tổng khởi nghĩa
năm 1945 là thành tựu tuyệt vời của tinh thần, ý chí, trí tuệ của con người
Việt Nam. Tinh thần, trí tuệ ấy xuất hiện từ buổi đầu lịch sử dân tộc, đã được
nâng lên một tầm cao mới sau 15 năm đấu tranh quật cường dưới sự lãnh đạo của
một Đảng Mácxít - Lêninnít chân chính.
-
Nguyên nhân thứ ba là Đảng ta tiến hành cuộc cách mạng Tháng Tám trong bối cảnh
quốc tế thuận lợi; đó là việc quân đội Liên Xô và đồng minh đã đánh bại phát
xít Đức, Ý, Nhật, thắng lợi đó đã tạo điều kiện cho các lực lượng bị áp bức, yêu
hòa bình và các lực lượng tiến bộ trên thế giới có điều kiện để giành thắng lợi
khi biết lợi dụng được thời cơ ngàn năm có một này. Trong bối cảnh ở nước ta,
quân Pháp bị Nhật hất chân, quân Nhật lại bị Hồng quân Liên Xô và quân đồng
minh đánh cho bại trận, đang hoang mang cao độ và đang tan rã, quân đội các
nước đồng minh chưa kịp vào Đông Dương giải giáp quân đội Nhật.
-
Trải qua 15 năm đấu tranh cực kỳ gian khổ và anh dũng để đi đến thắng lợi, đã
có biết bao nhiêu đồng bào, đồng chí đã không hề tiếc xương máu, hy sinh oanh
liệt. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Chính họ đã đặt lợi ích của Đảng, của
cách mạng, của dân tộc lên trên hết, đã tin tưởng sâu sắc vào tương lai của
Đảng, của dân tộc, đã hy sinh tất cả, đem xương máu vun tưới cho cây cách mạng,
cho nên cây cách mạng đã khai hoa, kết quả tốt đẹp như ngày nay". Đó cũng
là một nguyên nhân quan trọng để đưa cuộc cách mạng chúng ta đến thành công.
2. Ý nghĩa lịch sử của cuộc Cách mạng Tháng Tám và sự khai
sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Cách
mạng Tháng Tám thành công, Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Dân tộc Việt
Nam bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội;
có ý nghĩa lịch sử rất quan trọng.
Thứ
nhất, thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhân dân ta đã đập
tan xiềng xích nô lệ của thực dân, đế quốc trong gần một thế kỷ, lật nhào chế
độ quân chủ chuyên chế mấy nghìn năm, lập nên Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa -
Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ
trở thành người dân một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của mình. Việt Nam từ
một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, tự do và dân chủ;
Đảng ta từ một Đảng hoạt động bí mật, bất hợp pháp trở thành một Đảng cầm quyền.
Từ đây, đất nước, xã hội, dân tộc và con người Việt Nam bước vào một cuộc
trường chinh mới với những biến đổi cách mạng lớn lao và sâu sắc; kỷ nguyên mới
của dân tộc là kỷ nguyên đấu tranh giành độc lập, thống nhất và phục hưng đất
nước, kỷ nguyên kết hợp chặt chẽ độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, mà chủ
thể của sự nghiệp vĩ đại này không có ai khác là con người Việt Nam, là cộng
đồng các dân tộc Việt Nam luôn mang trong mình khí phách quật cường của mấy
nghìn năm dựng nước và giữ nước. Dân tộc có độc lập thì con người mới tự do,
hạnh phúc; không thể thực hiện được các quyền con người khi quyền độc lập dân
tộc của cả một cộng đồng bị chà đạp; khi đất nước được độc lập thì con người
mới được giải phóng, mới có thể cùng nhau xây dựng Nước Việt Nam dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Độc lập, tự do, hạnh phúc - những nội dung
ấy được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên đã gắn bó quyền dân tộc với quyền của mỗi
con người; đó cũng là động lực thúc đẩy toàn dân tộc vượt qua muôn vàn thử
thách hiểm nguy để giành và giữ chính quyền non trẻ, để tiến hành 30 năm trường
kỳ kháng chiến và chiến thắng hai đế quốc hung bạo nhất, thực hiện thống nhất
Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Thứ
hai, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của chủ nghĩa Mác -
Lênin được vận dụng một cách đúng đắn và sáng tạo vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể
của cách mạng Việt Nam, là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách
mạng đúng đắn và đầy sáng tạo của Đảng ta đã gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa
xã hội, gắn sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại. Cách mạng Tháng Tám
đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam; đây là quá
trình phát triển tất yếu của lịch sử dân tộc trải qua mấy nghìn năm phấn đấu,
đỉnh cao của ý chí quật cường, sức mạnh cố kết cộng đồng, tầm cao trí tuệ của
dân tộc hòa quyện với những tư tưởng của Mác, Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh, với
xu thế của thời đại hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, vì độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội.
Thứ
ba, với thắng lợi này, cách mạng nước ta đã chuyển sang một bước ngoặt mới,
nước ta không những trở thành một nước độc lập, tự do mà còn trở thành một
trong những nước đi tiên phong trong việc xây dựng chế độ xã hội mới - chế độ
dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện hoài bão, ước mơ của biết
bao thế hệ người Việt Nam xưa và nay.
Thứ
tư, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám còn khẳng định rằng, trong điều
kiện trào lưu của cách mạng vô sản, cuộc cách mạng do một đảng của giai cấp
công nhân lãnh đạo không chỉ có thể thành công ở một nước tư bản kém phát
triển, nơi mắt xích yếu nhất của chủ nghĩa đế quốc mà còn có thể thành công ở
ngay một nước phong kiến và nửa thuộc địa lạc hậu để đưa cả dân tộc đó đi lên
theo con đường của chủ nghĩa xã hội. Đây là sự phát triển rất sáng tạo lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta; Cách mạng Tháng Tám
như một quả bom có sức công phá mạnh làm sụp đổ một mảng quan trọng thành trì
của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ, thức tỉnh các dân tộc bị áp bức bóc lột vùng
dậy, báo hiệu một kỷ nguyên mới của loài người: Kỷ nguyên độc lập tự do và chủ
nghĩa xã hội; đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Chẳng những giai cấp lao động
và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị
áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử
cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã
lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.
3. Bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám
Cách
mạng Tháng Tám cho ta nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, nhưng có thể nói những
bài học kinh nghiệm lớn nhất, sâu sắc nhất đó là:
Thứ
nhất, có một đảng tiên phong thật sự cách mạng, tiếp thu chủ nghĩa Mác -
Lênin - đỉnh cao trí tuệ của thời đại được tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng, đã
nắm vững hoàn cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn cách mạng của đất nước, đề ra được
đường lối cách mạng đúng đắn, có phương pháp, hình thức đấu tranh phong phú,
linh hoạt, biết nắm bắt thời cơ, xây dựng lực lượng và tổ chức, sử dụng lực
lượng đúng lúc, phát huy được sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại để dẫn
dắt quần chúng tiến lên giành và giữ chính quyền. Cách mạng Tháng Tám khẳng
định rằng: Nếu không có một đảng cách mạng, một lãnh tụ kiệt xuất, một bộ tham
mưu tài giỏi, lý luận tiên tiến, tư tưởng thống nhất, tổ chức chặt chẽ, đường
lối đúng đắn và hợp lòng dân thì khó tập hợp được sức mạnh của toàn dân tộc để
làm nên cuộc cách mạng long trời lở đất, chỉ trong vòng nửa tháng đã giành
thắng lợi và xác lập chính quyền dân chủ nhân dân trong phạm vi toàn quốc. Thực
tiễn lịch sử 82 năm qua lại càng khẳng định, sự lãnh đạo đúng đắn của một đảng
luôn luôn là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng. Điều đó nói lên rằng,
muốn tiến hành một cuộc cách mạng xã hội sâu sắc và triệt để không thể thiếu
vai trò lãnh đạo của một đảng Mácxít - Lêninnít và một đảng muốn giữ được vai
trò lãnh đạo cách mạng cần phải giải quyết tốt mấy vấn đề cơ bản của cách mạng
trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân như sau:
-
Quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, giữa mục tiêu dân tộc
và mục tiêu dân chủ, giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp.
-
Quan hệ giữa mục tiêu chiến lược lâu dài và mục tiêu cụ thể trước mắt, giành
thắng lợi từng bước, khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa giành thắng
lợi hoàn toàn.
-
Quan hệ giữa chiến lược và sách lược, phương pháp cách mạng, sử dụng đúng đắn
các phương pháp đấu tranh phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể.
-
Mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, giữa xây dựng Đảng và phát triển lực lượng
cách mạng của quần chúng được tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất.
-
Quan hệ giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, giữa xây dựng lực lượng
cách mạng, phát huy sức mạnh bên trong, nêu cao ý chí tự lực tự cường, độc lập
tự chủ và sáng tạo với tranh thủ những điều kiện và thời cơ thuận lợi do tình
hình thế giới đem lại.
-
Quan hệ giữa chủ động chớp thời cơ và đẩy lùi nguy cơ…
Đó
là những vấn đề cơ bản trong đường lối cách mạng của Đảng ta nhằm phát huy được
sức mạnh của toàn dân tộc đứng lên tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám,
giành thắng lợi hoàn toàn. Đây cũng là những kinh nghiệm quý báu để Đảng ta
lãnh đạo nhân dân ta tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ suốt 30 năm, tiến hành cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và
xây dựng đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu quan
trọng.
Thứ
hai, vấn đề giành và giữ chính quyền, đó là mục tiêu của bất cứ một cuộc
cách mạng nào; nhưng cái độc đáo của cuộc Cách mạng Tháng Tám, mang bản sắc
Việt Nam, một sự sáng tạo của Đảng ta là không phải đợi đến khi phát động Tổng
khởi nghĩa toàn quốc mới đặt vấn đề giành chính quyền về tay nhân dân.
Tin
tưởng mạnh mẽ ở lực lượng cách mạng của nhân dân, ngay từ tháng 5 năm 1941, tại
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám, Đảng ta đã chủ trương xây dựng lực lượng
vũ trang với các hình thức và quy mô thích hợp, giành chính quyền từng bộ phận,
thành lập và mở rộng các căn cứ địa cách mạng và sẵn sàng chuyển sang hình thức
tổng khởi nghĩa khi có điều kiện.
Bài
học lớn của việc giành và giữ chính quyền chính là Đảng ta biết chăm lo xây
dựng lực lượng cách mạng, làm cho lực lượng cách mạng đủ mạnh, thu hút được
đông đảo nhân dân tham gia, từ đó làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và
địch, tạo ra thời cơ cách mạng để đưa cuộc cách mạng đến thành công; lực lượng
cách mạng có được chính là nhờ Đảng nắm bắt đúng nguyện vọng của quần chúng,
biết gắn lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc với nhau, có mục tiêu chính trị rõ
ràng, phương pháp cách mạng đúng đắn.
Thứ
ba, vấn đề nắm bắt thời cơ ngàn năm có một, đề ra được những quyết định chính
xác và kịp thời; bất cứ một cuộc cách mạng nào đều phải biết tạo ra thời cơ và
nắm bắt thời cơ; chọn đúng thời cơ là một khoa học và một nghệ thuật; điều này
đã được thể hiện rất rõ trong cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm
1945.
Nghệ
thuật chỉ đạo tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc chọn đúng
thời cơ, ra quyết định Tổng khởi nghĩa đúng lúc thể hiện cụ thể trong Chỉ thị
của Thường vụ Trung ương tháng 3 năm 1945: "Nhật - Pháp bắn nhau và hành
động của chúng ta" và bản Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc
ngày 13 tháng 8 năm 1945 hiệu triệu toàn dân đứng lên Tổng khởi nghĩa giành
chính quyền. Chọn thời điểm ngày 13 tháng 8 để phát động Tổng khởi nghĩa là vô
cùng sáng suốt; bởi vì, vào thời điểm đó, cách mạng đã lên tới cao trào, lực
lượng cách mạng đã lôi kéo được cả những tầng lớp trung gian, lừng chừng; lúc
đó, quân Nhật bại trận, mất tinh thần cao độ, chỉ ngồi chờ quân đồng minh đến
tước vũ khí, chính quyền tay sai tan rã và đã tỏ thái độ đầu hàng lực lượng cách
mạng. Thời cơ khởi nghĩa ngàn năm có một được chọn một cách chính xác trong
khoảng 15 ngày trước khi quân Tưởng và quân Anh đổ bộ vào Đông Dương. Nếu phát
động Tổng khởi nghĩa sớm hơn, nhân dân ta sẽ tổn hại nhiều xương máu; nếu phát
động Tổng khởi nghĩa muộn hơn khi quân đồng minh đã vào Đông Dương thì cách
mạng Việt Nam sẽ mất đi thế chủ động của mình và sẽ gặp nhiều khó khăn khác.
Thứ
tư, vấn đề xây dựng và sử dụng sức mạnh của cả một cuộc cách mạng. Vận dụng
những tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng ta đã đề ra đường lối cách mạng
đúng đắn, thể hiện trong khẩu hiệu đấu tranh từng thời kỳ như: Độc lập dân tộc,
người cày có ruộng, mười chính sách lớn của Mặt trận Việt Minh, chủ trương phá
kho thóc của Nhật cứu đói cho dân và hàng loạt hình thức vận động, tập hợp quần
chúng khác. Chính vì thế, Đảng ta đã tập hợp và phát huy được sức mạnh của khối
đại đoàn kết toàn dân dựa trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân và trí
thức, tạo nên nguồn động lực mạnh mẽ đưa cách mạng tiến lên; sau Cách mạng
Tháng Mười Nga, Cách mạng Tháng Tám là một cuộc cách mạng - cuộc tổng khởi
nghĩa điển hình dựa vào sức mạnh toàn dân, chủ yếu là sức mạnh đấu tranh chính
trị của nhân dân để giành chính quyền một cách nhanh chóng trong cả nước; dưới
ánh sáng của đường lối và sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Bác Hồ, lòng yêu
nước và sức mạnh của toàn dân được thổi lên trong Cách mạng Tháng Tám đã tiếp
tục được phát huy cao độ trong hai cuộc kháng chiến thần thánh chống đế quốc
xâm lược và trong công cuộc đổi mới đất nước ngày nay.
PHẦN II. MỘT SỐ CÂU HỎI LUYỆN TẬP
TRONG CHUYÊN ĐỀ
Câu 1. Tại sao trong 3 năm liên
tiếp 1939,
1940, 1941, Ban Chấp
hành
Trung ương Đảng
đều
triệu tập hội nghị ? Từ
việc trình bày nội dung chính của
các Hội nghị, hãy cho biết vấn đề quan
trọng
nhất
được các hội nghị đề cập đến là gì
- Trong 3 năm 1939, 1940 và 1941, Ban chấp hành Trung ương Đảng đều triệu tập hội nghị xuất phát từ những biến chuyển của tình hình thế giới và trong nước (đòi hỏi Đảng Cộng sản Đông Dương phải đề ra những nhiệm vụ cấp thiết trước mắt nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược lâu dài).
+
Tháng 11 - 1939 : Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương được triệu tập tại Bà Điểm (Hốc Môn - Gia Định) đã phân tích tính chất của cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, tình hình
thế giới và Đông Dương xác định mục tiêu chiến lược trước mắt là đánh đuổi đế quốc và tay sai, giành độc lập dân tộc với việc đề ra các sách lược cụ thể…
+ Tháng 11 - 1940 :
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương được triệu tập tại Đình Bảng (Bắc Ninh) vào lúc xảy ra cuộc xung đột giữa thực dân Pháp và Thái Lan, xứ ủy Nam kì chuẩn bị phát động
cuộc khởi nghĩa chủ trương mới : xác định kẻ thù chính (Pháp, Nhật), chuẩn bị về mặt lực lượng cũng như thành lập các căn cứ địa để làm cuộc cách mạng giải phóng dân tộc…
+
Tháng 5 - 1941 : Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương
được triệu
tập
tại Pắc Bó
(Cao Bằng)
với sự chủ trì
của Nguyễn Ái Quốc nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là giải phóng dân tộc cũng như đề ra các nhiệm vụ cần làm …
-
Vấn đề quan trọng được các hội nghị đề cập là phải đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Đây là việc thể hiện sự nhạy bén về chính trị và năng lực lãnh đạo của Đảng.
Câu 2. Lập bảng so sánh Hội nghị Ban
chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám ( 10- 19 / 5 / 1941 ) với Hội nghị Ban
chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu ( 6 / 11 / 1939 ).
ĐÁP ÁN.
Nội dung so sánh.
|
Hội nghị trung ương lần thứ 6.( 6 - 11- 1939)
|
Hội nghị trung ương lần thứ 8.
( 10-19/5/ 1941).
|
Tình hình thế giới.
|
Chiến tranh thế giới thứ hai
bùng nổ. Nhật lăm le nhảy vào Đông Dương.
|
Phát xít Đức chuẩn bị tấn
công Liên Xô, tính chất chiến tranh thay đổi.
|
Tình hình
trong nước.
|
Thực dân Pháp thực hiện chính
sách phát xít hoá, tăng cường bóc lột. Mâu
thuẫn dân tộc gay gắt.
|
Nhật - Pháp ra sức áp bức, bóc lột. Mâu thuẫn dân
tộc gay gắt hơn bao giờ hết. Nhân dân ta ngày càng cách mạng hoá. 28-1 -
1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước, trực tiếp lãnh đạo cách mạng.
|
Xác định nhiệm vụ. mục tiêu cách
mạng.
|
- Giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
-Tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, giảm tô,
giảm tức, chia ruộng đất của đế quốc, Việt gian cho dân cày.
|
- Giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
- Tiếp tục tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất,
giảm tô, giảm thuế, chia lại ruộng công tiến tới thực hiện người cày có
ruộng.
- Sau khi đánh đuổi đế quốc Pháp - Nhật sẽ thành
lập Chính phủ nhân dân của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà.
|
Vấn đề đoàn kết dân tộc.
|
Lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông
Dương.
|
Lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh ( Việt
Minh). Thay tên các Hội Phản đế thành Hội Cứu quốc, giúp đỡ cho việc thành
lập mặt trận ở Lào và Căm pu chia.
|
Phương pháp cách mạng.
|
Chuyển từ đấu tranh công khai, hợp pháp là chủ yếu
sang bí mật, bất hợp pháp.
|
Chuẩn bị điều kiện tiến tới vũ trang khởi nghĩa là
nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng , toàn dân. Hình thái: từ khởi nghiã từng
phần tiến lên tổng khởi nghĩa.
|
Ý nghĩa
|
Bước đầu chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng
|
Hoàn chỉnh chủ trương được đề ra từ Hội nghị Trung
ương tháng 11 - 1939 nhằm giải quyết mục tiêu số một của cách mạng là đọc lập
dân tộc và đề ra nhiều chủ trương sáng tạo để thực hiện mục tiêu ấy.
|
Câu
3. Trình bày nguyên nhân ra đời, Sự
ra đời, phát triển và vai trò của Mặt trận Việt Minh ?
a. Nguyên
nhân.
- Do yêu cầu của sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Chiến tranh thế giới II bùng nổ, nhật vào Đông Dương. Pháp, nhật câu
kết bóc lột nhân dân ta. Mâu thuẫn giữa các dân tộc Đông Dương với Pháp- Nhật và tay sai ngày càng gay gắt. Giải phóng dân tộc là
nhiệm vụ bức thiết, cần phải huy động lực lượng toàn dân tộc, sức mạnh toàn dân
vào cuộc đấu tranh.
- Do yêu cầu giải quyết vấn đề dân tộc trong
khuôn khổ từng nước Đông Dương.
Ở Đông Dương có 3 quốc gia dân tộc cùng đoàn
kết chống kẻ thù chung nhưng mỗi nước có đặc điểm riêng về truyền thống, trình
độ phát triển….
Cần thực hiện vấn đề dân tộc trong khuôn khổ
từng nước để thực hiện quyền dân tộc tự quyết, phát huy sức mạnh của mỗi dân
tộc trong cuộc đấu tranh tự giải phóng mình, đập tan luận điệu xuyên tạc của kẻ
thù về vấn đề dân tộc và tạo ra sự đoàn kết 3 dân tộc chống kẻ thù chung.
- Do cần thiết phối hợp với lực lượng chống
phát xít trên thế giới.
Lập mặt trận Việt Minh góp phần vào đấu tranh
chống chủ nghĩa phát xít.
b.Sự ra đời.
- Sau khi về nước trực tiếp lãnh đạo cách
mạng, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập, chủ trì Hội nghị Ban Chấp hành Tring ương
Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 8
( 10 đến 19- 5 -
1941). Hội nghị chủ trương giải quyết
vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước : Lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh ( Việt Minh). Thay tên các Hội
Phản đế thành Hội Cứu quốc, giúp đỡ cho việc thành lập mặt trận ở Lào và Căm pu
chia.
- Ngày 19 - 5 -1941, Mặt trận Việt Minh chính
thức thành lập nhằm “ liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, đặng cùng
nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn”.
c.Sự phát
triển.
- Cao
Bằng là nơi lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc thí điểm cuộc vận động xây dựng Mặt
trận Việt Minh. đến năm 1942, khắp 9 châu của Cao Bằng đều có hội Cứu quốc, Uỷ
ban Việt Minh tỉnh Cao Bằng và Uỷ ban Việt Minh lâm thời liên tỉnh Cao- Bắc -
Lạng được thành lập.
- Các địa phương khác : hầu hết các hội
Phản đế chuyển thành các hội Cứu quốc, nhiều hội Cứu quốc mới được thành lập,
đoàn kết không chỉ công nhân, nông dân mà cả tiểu tư sản, tư sản dân tộc, binh
lính người Việt yêu nước trong quân dội Pháp, những ngoại kiều ở đông dương đấu
tranh chống phát xít.
d.Vai trò của Mặt trận Việt Minh.
Trong 10 năm tồn tại ( 1941 - 1951), Mặt trận Việt Minh có nhiều đóng
góp cho cách mạng Việt Nam.
- Đối với Cách mạng tháng Tám :
* Trong xây dựng lực lượng.
+ Mặt trận Việt Minh đã tuyên truyền
chủ trương chính sách của Đảng trong quần chúng, lên án tội ác của phát xít
Pháp - Nhật,
+ Là nơi tập hợp, giác ngộ, rèn luyện lực lượng chính trị hùng hậu cho CM
tháng Tám.
Mặt trận Việt Minh có công lớn trong xây dựng căn cứ địa, lực
lượng vũ trang cách mạng. Lực lượng này ngày càng lớn mạnh tích cực tham gia
vào đấu tranh giành chính quyền.
+ Tích cự tham gia xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng.
Tháng 6.1945 khu giải phóng Việt Bắc ra đời, 10 chính sách của VM được ban bố,
góp phần xây dựng VB thành hình ảnh thu nhỏ của nước Vn mới.
*Với cao trào
kháng Nhật cứu nước:
Trong cao
trào kháng Nhật cứu nước: Mặt trận Việt Minh
tổ chức khởi nghĩa từng phần ở một số địa phương, ngoài ra còn các hình
thức đấu tranh khác: biểu tình, tuần hành, căng biểu ngữ, rải truyền đơn, phá
kho thóc của Nhật, các đội danh dự của Việt Minh đã trừ khử những tên tay sai
gian ác... tập dượt cho quần chúng, tạo tiền đề cho Cách mạng tháng Tám.
* Với TKN: Mặt trận Việt Minh triệu tập,
tiến hành thành công Đại hội Quốc dân ở Tân Trào; huy động toàn dân tham gia
Tổng khởi nghĩa thành công.
- Sau Cách mạng tháng Tám :
Mặt
trận Việt Minh tiếp tục củng cố khối
đoàn kết toàn dân trong mặt trận để xây dựng và bảo vệ chế độ mới: diệt giặc
đói, diệt giặc dốt, củng cố chính quyền nhân dân, chống thù trong giặc ngoài,
chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Pháp.
- Trong kháng chiến chống Pháp:
+ Mặt trận
Việt Minh và Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam đã đoàn kết toàn dân cả miền xuôi
và miền núi, cả vùng tự do và vùng tạm chiếm. Mặt trận đã là một trong những
trụ cột của nhà nước dân chủ nhân dân, là sức mạnh của cuộc kháng chiến kiến
quốc, là áo giáp vững bền của Đảng, góp phần đập tan âm mưu chia rẽ phá hoại
của kẻ thù.
+ Ngày 3 -
3- 1951, Mặt trận Việt Minh thống nhất
với Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam
thành Mặt trận Liên - Việt nhằm
củng cố thêm khối đoàn kết toàn dân.
Mặt trận Việt Minh đã hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ, vai trò lịch sử của mình, có đóng góp to lớn trong xây dựng khối đoàn
kết dân tộc.
Câu 4. Trình bày quá trình chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám.
ĐÁP ÁN.
Chuẩn bị gồm 5 nội dung:
- Chuẩn bị về chủ trương đường lối.
- Xây dựng lực lượng cách mạng.
- Xây dựng căn cứ cách mạng.
- Chuẩn bị cho quần chúng tập dượt đấu tranh.
- Chuẩn bị bộ máy lãnh đạo.
Nội dung cụ thể.
1. Chuẩn bị về chủ trương đường lối.
a. Các Hội nghị trung ương Đảng về
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng.
- Hội nghị Trung ương lần thứ 6 ( 11 - 1939).
- Hội nghị Trung ương lần thứ 7 ( 11 - 1940).
- Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (
5 - 1941).
b. Nội dung chuyển hướng.
- Nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng là giải phóng dân tộc.Tạm gác khẩu hiệu cách
mạng ruộng đất, giảm tô, giảm thuế, thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản
bội quyền lợi dân tộc chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng công tiến tới thực
hiện người cày có ruộng.
- Mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất ( Mặt trận Thống nhất dân tộc phản
đế Đông Dương, Mặt trận Việt Minh).
- Chuẩn
bị điều kiện tiến tới vũ trang khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng ,
toàn dân. Hình thái: từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa.
c.Ý nghĩa. Sự chuẩn bị về chủ trương
đường lối là sự chuẩn bị tiên quyết
đối với thành công của Cách mạng tháng Tám.
2. Xây dựng lực lượng cách mạng.
a. Xây dựng lực lượng chính trị.
19 - 5 - 1941,Mặt trận Việt
Minh thành lập với thành phần rộng rãi,
gồm nhiều tổ chức quần chúng lấy tên là hội Cứu quốc. Mặt trận Việt Minh là cầu nối giữa đảng và quần chúng. Mặt trận
Việt Minh đã củng cố khối đoàn kết toàn
dân, xây dựng lực lượng chính trị hùng hậu cho cách mạng.
b. Xây dựng lực lượng vũ trang.
- Du kích Bắc Sơn cùng một số đội du kích ở Thái Nguyên phát triển thành
Cứu quốc quân ( từ tháng 2- 1941 đến tháng 2 - 1944 phát triển thành 3 trung
đội).
- Cuối năm
1941, Nguyễn Ái Quốc quyết định thành lập đội tự vệ vũ trang để chuẩm bị cho việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân
dân. Người còn tổ chức các lớp huấn luyện chính trị, quân sự, biên soạn các tài liệu về cách đánh du
kích...
- 22 - 12
- 1941, theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
được thành lập nhằm kết hợp đấu tranh quân sự với chính trị. Đội đã hạ các đồn
Phay Khắt, Nà Ngần.
- Hội nghị
quân sự cách mạng Bắc Kì : thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt
Nam giải phóng quân. Lập Uỷ ban Quân sự cách mạng Bắc Kì để chỉ huy các chiến
khu miền Bắc và giúp dỡ toàn quốc về quân sự.
c.Ý nghĩa.
Với lực lượng chính trị và vũ trang, Đảng kết hợp lực lượng chính trị với vũ
trang để tiến hành Tổng khởi nghĩa.
3. Xây dựng căn cứ địa cách mạng.
a. Tầm quan trọng.
Căn cứ địa là nơi đứng chân của cách mạng, nơi cung cấp sức người, sức
của; nơi xuất phát để đánh địch, nơi rút lui để tự bảo vệ.
b. Quá trình xây dựng.
- Vùng Bắc Sơn - Vũ Nhai được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 11
- 1940 chủ trương xây dựng thành căn cứ địa cách mạng. Năm 1941, sau khi về
nước, Nguyễn Ái Quốc chọn Cao Bằng để
xây dựng căn cứ địa. Đó là hai căn cứ đầu tiên của cách mạng nước ta. Năm 1943,
ta nối liền hai căn cứ địa để phát triển lực lượng xuống các tỉnh miền xuôi
- Tháng 6 - 1945, khu giải phóng Việt Bắc thành lập gồm 6 tỉnh thượng du
( Cao - Bắc - Lạng - Hà - Tuyên - Thái) và một số vùng thuộc các tỉnh lân cận. Đó là căn cứ địa
chính của cách mạng cả nước, là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới.
- Trong cao trào kháng Nhật cứu nước, nhiều căn cứ địa xuất hiện: Ba Tơ,
Nghĩa Lộ...
4. Chuẩn bị cho quần chúng tập dượt đấu
tranh.
a.Tầm quan trọng.
Cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng, song quần chúng phải được giác ngộ, tổ chức, tập dượt đấu tranh mới tạo
thành sức mạnh cách mạng.
b.Quá trình tập dượt.
Diễn ra rất lâu dài qua các phong trào đấu tranh thời kì : phong trào
cách mạng 1930 - 1931, cuộc vận động dân
chủ 1935 - 1939, cuộc vận động giải
phóng dân tộc 1939 - 1945, đặc biệt là cao trào tiền khởi nghĩa. Quần chúng
được tập hợp thành tổ chức,được rèn
luyện từ các hình thức đấu tranh mức độ thấp ( bãi công, bãi thị, bãi
khoá, biểu tình, mít tinh, căng biểu ngữ, rải truyền đơn, phá phách, bất hợp
tác...) đến hình thức cao như chiến tranh du kích, khởi nghĩa từng phần. Quần
chúng đã sẵn sàng đứng lên tổng nhởi nghĩa khi có thời cơ.
5. Chuẩn bị bộ máy lãnh đạo.
- Ngày 13 tháng 8 - 1945, khi nhận được những thông tin về việc Nhật Bản
sắp đầu hàng Đồng minh, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh lập tức thành lập
Uỷ ban Khởi nghĩa toàn quốc để lãnh đạo ...
- Từ ngày14 đến ngày15 - 8, Hội nghị của Đảng thông qua kế hoạch lãnh đạo
toàn dân Tổng khởi nghĩa và quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách
đối nội, đối ngoại sau khi giành được chính quyền.
- - Từ ngày16 đến ngày17 - 8, Đại hội Quốc dân triệu tập ở Tân trào. Đại hội tán thành chủ
trương Tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách của Việt Minh, cử ra
Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Đại hội đã
chuẩn bị những công việc cuối cùng cho Tổng khởi nghĩa.
Câu 5. Tại sao nói : Cách mạng
tháng Tám nổ ra đúng thời cơ và Đảng ta đã kiên quyết hành động đưa cách mạng
đến thắng lợi ?
ĐÁP ÁN.
a.
Cơ sở lí luận.
Cách mạng muốn thắng
lợi phải có sự chuẩn bị lực lượng và nổ ra đúng thời cơ. Thời cơ gồm 3 điều
kiện sau :
- Đảng ( đội tiên phong ) đã sẵn sàng.
- Quần chúng nhân dân không cam chịu bị thống
trị như cũ nữa và thể hiện rõ tính tích cực cách mạng của mình.
- Kẻ thù không thể thống trị bình thường như
cũ nữa mà lâm vào khủng hoảng trầm trọng.
Khi thời cơ xuất hiện, phải nhận thức đúng
thời cơ và kiên quyết hành động đưa cách mạng đến thắng lợi.
b.
Biểu
hiện trong Cách mạng tháng Tám .
- Nổ ra đúng thời cơ
+ Đảng
Cộng sản Đông Dương đã sẵn sàng lãnh đạo cách mạng thể hiện ở các Hội nghị
Trung ương 11- 1939, 11 - 1940, 5 - 1941, Hội nghị mở rộng Ban Thường vụ Trung
ương từ đêm 9 đến ngày 12 - 3 - 1945, kịp thời vạch ra đường lối đúng đắn cho
cách mạng.
+ Quần chúng
nung nấu căm thù đối với giặc Nhật và tay sai, đã vùng lên đấu tranh quyết liệt, nhất là
trong cao trào tiền khởi nghĩa.
+ Phát xít Đức bị tiêu diệt. Phát xít Nhật bị
cô lập, thất bại liên tiếp. Ngày 8 tháng
8 - 1945, Liên xô tuyên chiến với Nhật
Bản. Ngày 9 tháng 8, quân đội Xô viết mở màn chiến dịch tổng công kích đạo quân
Quan Đông của Nhật B.ản ở Đông Bắc Trung
Quốc. Trưa ngày 15 tháng 8 - 1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng Đồng
minh không điều kiện
Quân
Nhật ở Đông Dương rệu rã. Chính phủ thân Nhật Trần Trọng Kim hoang mang. Quân
Đồng minh chưa kịp vào Đông Dương. Điều kiện khách quan thuận lợi cho tổng khởi
nghĩa đã đến.
- Đảng ta nắm bắt được thời cơ
đã kiên quyết hành động : Ngày 13
tháng 8 - 1945, khi nhận được những thông tin về việc Nhật Bản sắp đầu hàng
Đồng minh, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh lập tức thành lập Uỷ ban Khởi
nghĩa toàn quốc, đêm 13 - 8, Uỷ ban Khởi nghĩa ra ”Quõn lệnh
số 1 ”, chớnh thức phỏt lẹnh Tổng khởi nghĩa trong cả nước. Hội nghị toàn quốc
của Đảng và Đại hội Quốc dân đã quyết định phát động toàn dân vùng lên Tổng
khởi nghĩa.
”Lúc này, thời cơ thuận lợi của cách mạng đã đến, dù có hy sinh đến đâu,
dù có phải thiêu cháy cả dãy Trường Sơn
cũng quyết giành độc lập tự do” ( Hồ Chớ Minh).
Câu 6. Những biểu hiện nào chứng tỏ Cách mạng tháng Tám ở
nước ta đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
trong cả nước ?
a. Chủ trương về khởi nghĩa vũ trang của Đảng ta trong
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 ( 5 - 1941 ) .
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương
Đảng lần thứ 8 ( 10 đến 19 tháng 5 năm 1941) xác định khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của
toàn Đảng, toàn dân “ với lực lượng sẵn có, ta có thể tiến hành một cuộc khởi
nghĩa từng phần ở từng địa phương, cũng có thể giành thắng lợi mà tiến lên một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn”.
Điểm nổi bật trong chủ trương
khởi nghĩa vũ trang của Hội nghị 8 là đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng
khởi nghĩa.
b. Chủ trương đó được vận dụng trong cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền ở nước ta
năm 1945 .
- Khởi nghĩa từng phần ( từ giữa tháng 3 đến trước
Tổng khởi nghĩa):
+
Khi Nhật đảo chính Pháp, Hội nghị
mở rộng Ban Thường vụ Trung ương Đảng thông qua chỉ thị “ Nhật - Pháp bắn nhau
và hành động của chúng ta”. Bản chỉ thị đã chỉ rõ cuộc đảo chính tạo ra khủng
hoảng chính trị nhưng thời cơ tổng khởi nghĩa chưa chín muồi, kẻ thù cụ thể
trước mắt, khấu hiệu cách mạng, phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa với
hình thức đấu tranh từ bãi công, phá phách ... đến hình thức cao nhất là chiến
tranh du kích, khởi nghĩa từng phần.
+ Một số cuộc khởi nghĩa từng phần ở địa phương đã nổ ra : ở Cao -Bắc- Lạng, đội
Việt Nam tuyên truyền giải phóng
quân và Cứu quốc quân đã phối hợp với lực lượng chính trị
của quần chúng giải phóng hàng loạt xã, châu, huyện và thành lập chính quyền
nhân dân ở đó. ở Quảng Ngãi, tù chính trị nhà lao Ba Tơ đã nổi dậy, chiếm đồn
binh giặc, thành lập chính quyền cách mạng và đội du kích Ba Tơ.
-
Tổng khởi nghĩa.
Khi phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh
không điều kiện, bọn Nhật và tay sai ở
Đông Dương hoang mang, rệu rã, thời cơ vô cùng thuận lợi xuất hiện. Chớp thời
cơ, Đảng ta họp Hội nghị toàn quốc quyết định phát động Tổng khởi nghĩa giành
chính quyền trong toàn quốc trước khi quân Đồng minh vào.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, và các Uỷ
ban Việt Minh, nhân dân cả nước nhất tề vùng lên Tổng khởi nghĩa từ ngày 14
tháng 8 đến ngày 28 tháng 8, giành được chính quyền trong cả nước, trong đó
thắng lợi ở Hà Nội ( 19 - 8 ), Huế ( 23 - 8 ), Sài Gòn ( 25 - 8 ) có ý nghĩa
quyết định. Ngày 2 - 9- 1945, thay mặt Chính phủ trung ương lâm thời, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà.
c.Nhận xét: Đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên
Tổng khởi nghĩa là một đặc điểm nổi bật, là sự sáng tạo lớn của Đảng ta trong Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Câu 7. VềqQuá
trình khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền trong toàn quốc của nhân dân Việt
Nam năm 1945:
-
Nêu đặc điểm nổi bật.
-Trình bày những nét chính về diễn biến của quá trình đó ?
ĐÁP ÁN.
a. Đặc điểm nổi
bật.
- Thời gian: Cuộc
khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền trong toàn quốc của nhân dân Việt Nam năm
1945 bắt đầu từ sau khi có chỉ thị “ Nhật- Pháp bắn nhau và hành động của chúng
ta”của Ban thường vụ Trung ương Đảng (
12 tháng 3) với cao trào kháng Nhật cứu nước, kết thúc ngày 28- 8- 1945.
-Đặc điểm:Cuộc
khởi nghĩa vũ trang có nhiều đặc điểm, trong đó đặc điểm nổi bật nhất là đi từ
khởi nghĩa từng phần tiến lên Tổng khởi nghĩa.
b.Những nét chính về diễn biến của quá trình khởi nghĩa vũ trang
giành chính quyền.
- Khởi nghĩa từng phần trong
cao trào “ Kháng Nhật cứu nước”:
+ Bối cảnh:
Ngày 9/ 3/ 1945, Nhật đảo
chính Pháp gây nên cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc trong hàng ngũ kẻ thù.Ban
thường vụ Trung ương Đảng chủ trương phát động cao trào kháng Nhật cứu nước,
làm tiền dề cho Tổng khởi nghĩa và sẵn sàng chuyển sang Tổng khởi nghĩa khi có
đủ điều kiện.
+ Đặc điểm của cao trào “
Kháng Nhật cứu nước”: diễn ra mạnh mẽ trên cả nước, phong phú, đa
dạng về nội dung, hình thức, kết hợp hỗ trợ lẫn nhau, trong đó nổi bật là chiến
tranh du kích, khởi nghĩa từng phần lập chính quyền bộ phận:
* Cao- Bắc- Lạng: Đội Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân phối hợp với nhân dân nổi dậy
giải phóng hàng loạt xã, châu, huyện. Quân cách mạng đã mở rộng công tác vũ
trang tuyên truyền, thành lập chính quyền nhân dân, củng cố các tổ chức Cứu
quốc.
* Ngày 4/ 6 / 1945, khu giải
phóng Việt Bắc được thành lập ( Cao- Bắc- Lạng- Hà- Tuyên- Thái).Uỷ ban
Việt Minh lâm thời khu giải phóng đã thi hành 10 chính sách củaViệt Minh đem
lại quyền lợi cho nhân dân. Khu giải phóng là hình ảnh thu nhỏ của nước Vịêt
Nam mới.
* Khởi nghĩa từng phần nổ ra trong
nhiều địa phương: 12/3 tù chính trị nhà lao Ba Tơ nổi dậy, chiếm đồn
binh giặc, thành lập chính quyền cách mạng và đội du kích Ba Tơ.Các cuộc khởi
nghĩa từng phần dẫn tới sự ra đời nhiều chiến khu trên cả nước.
* Ngoài ra, trong cao trào tiền
khởi nghĩa còn có các phong trào phá kho thóc của Nhật để
giải quyết nạn đói, tuyên truyền xung phong…
+ Ý nghĩa: Cao
trào là cuộc tổng diễn tập của cách mạng,tạo tiền đề cho Tổng khởi nghĩa tháng
Tám.
- Tổng khởi nghĩa tháng Tám
1945.
+ Điều kiện khởi nghĩa chín
muồi:
* Cao trào kháng Nhật cứu nước đã đưa hàng triệu nhân dân lên trận
tuyến dấu tranh, sẵn sàng đứng lên Tổng khởi nghĩa.
* Ngày 14/8/1945, phát xít Nhật
đầu hàng Đồng minh không điều kiện, bọn Nhật và chính quyền bù nhìn
Trần Trọng Kim hoang mang, tan rã.
* Đảng Cộng sản Đông Dương quyết
tâm lãnh đạo toàn dân đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền: Hội nghị
toàn quốc của Đảng ( 13/ 8/1945), Đại hội quốc dân Tân Trào ( 16/ 8/1945) quyết
định phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trog toàn quốc.
+ Nét chính Tổng khởi nghĩa:
* Chớp thời cơ, từ 14/8 à 28/8, nhân dân
cả nước đã nhất tề nổi dậy giành chính quyền, trong đó thắng lợi khởi nghĩa ở
Hà Nội (19/8), Huế (23/8), Sài Gòn(25/8) có ý nghĩa quyết định.
* Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945
là cuộc khởi nghĩa vũ trang nổ ra trong thời cơ lịch sử ngàn năm có một.
* Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh thay mặt Chính phủ Trung ương lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai
sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà,mở ra kỉ nguyên mới trong lịch sử dân
tộc.
Câu 8. Chủ trương về khởi nghĩa
vũ trang của Đảng ta trong Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 ( 5 - 1941 ) ? Chủ trương đó được vận dụng
trong cuộc khởi nghĩa vũ trang giành
chính quyền ở nước ta năm 1945 như thế nào ?
ĐÁP ÁN.
a. Chủ trương về khởi nghĩa vũ trang của Đảng ta trong Hội nghị Ban chấp
hành Trung ương Đảng lần thứ 8 ( 5 - 1941 ) .
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương
Đảng lần thứ 8 ( 10 đến 19 tháng 5 năm 1941) xác định khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của
toàn Đảng, toàn dân “ với lực lượng sẵn có, ta có thể tiến hành một cuộc khởi
nghĩa từng phần ở từng địa phương, cũng có thể giành thắng lợi mà tiến lên một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn”.
Điểm nổi bật trong chủ trương
khởi nghĩa vũ trang của Hội nghị 8 là đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng
khởi nghĩa.
b. Chủ trương đó được vận dụng trong cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền ở nước ta
năm 1945 .
- Khởi nghĩa từng phần ( từ giữa tháng 3 đến trước Tổng khởi nghĩa):
+
Khi Nhật đảo chính Pháp, Hội nghị
mở rộng Ban Thường vụ Trung ương Đảng thông qua chỉ thị “ Nhật - Pháp bắn nhau
và hành động của chúng ta”. Bản chỉ thị đã chỉ rõ cuộc đảo chính tạo ra khủng
hoảng chính trị nhưng thời cơ tổng khởi nghĩa chưa chín muồi, kẻ thù cụ thể
trước mắt, khấu hiệu cách mạng, phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa với
hình thức đấu tranh từ bãi công, phá phách ... đến hình thức cao nhất là chiến
tranh du kích, khởi nghĩa từng phần.
+ Một số cuộc khởi nghĩa từng
phần ở địa phương đã nổ ra : ở Cao -Bắc-
Lạng, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng
quân và Cứu quốc quân đã phối hợp với lực lượng chính trị của quần
chúng giải phóng hàng loạt xã, châu, huyện và thành lập chính quyền nhân dân ở
đó. ở Quảng Ngãi, tù chính trị nhà lao Ba Tơ đã nổi dậy, chiếm đồn binh giặc,
thành lập chính quyền cách mạng và đội du kích Ba Tơ.
- Tổng khởi nghĩa.
Khi phát xít Nhật đầu hàng
Đồng minh không điều kiện, bọn Nhật và
tay sai ở Đông Dương hoang mang, rệu rã, thời cơ vô cùng thuận lợi xuất hiện.
Chớp thời cơ, Đảng ta họp Hội nghị toàn quốc quyết định phát động Tổng khởi
nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc trước khi quân Đồng minh vào.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, và
các Uỷ ban Việt Minh, nhân dân cả nước nhất tề vùng lên Tổng khởi nghĩa từ ngày
14 tháng 8 đến ngày 28 tháng 8, giành được chính quyền trong cả nước, trong đó
thắng lợi ở Hà Nội ( 19 - 8 ), Huế ( 23 - 8 ), Sài Gòn ( 25 - 8 ) có ý nghĩa
quyết định. Ngày 2 - 9- 1945, thay mặt Chính phủ trung ương lâm thời, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà.
c.Nhận xét: Đi từ khởi
nghĩa từng phần tiến lên Tổng khởi nghĩa là một đặc điểm nổi bật, là sự sáng
tạo lớn của Đảng ta trong Cách mạng
tháng Tám năm 1945.
Câu 9. Nêu hoàn cảnh ra đời, vai trò của các mặt trận dân
tộc thống nhất đối với cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.
ĐÁP ÁN.
a. Tầm quan trọng của mặt trận.
Trong lịch sử dân tộc, đoàn kết là
một truyền thống quý báu, là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi.Kế
thừa và phát huy trền thống đó, Đảng ta chủ trương xây dựng khối liên minh công
nông vững chắc, làm nòng cốt để tập hợp các giai cấp, tầng lớp yêu nước trong
mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi.
b. Các mặt trận dân tộc thống nhất
ởViệt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.
- Thời kì 1930 - 1935.
+ Cuối năm 1930, khi phong trào
cách mạng dâng cao, quyết liệt, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương ra chỉ thị lập “ Hội phản đế đồng minh Đông Dương”
với tư tưởng: lấy công nông làm động lực chính để đoàn kết toàn dân thành một
tổ chức lực lượng thật rộng rãi, coi đó
là điều kiện quyết định thắng lợi của
cách mạng giải phóng dân tộc.
+ Phong trào cách mạng 1930 - 1931
sớm bị đàn áp và từ 1932 - 1935 chúng ta phải đấu tranh phục hồi phong trào,
chưa thành lập được mặt trận nhưng đã xây dựng được khối liên minh công nông
làm cơ sở cho mặt trận hình thành ở giai đoạn sau.
- Thời kì 1936 - 1939.
+ Trước chuyển biến của tình hình
thế giới và trong nước, tháng 7 - 1936 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Đông Dương chủ trương thành lập Mặt trận Thống nhất nhân dân phản đế Đông
Dương nhằm đoàn kết rộng rãi các lực lượng chống bọn thực dân phản động
thuộc địa và tay sai, đòi các quyền dân sinh dân chủ trước mắt. Đến tháng 3 -
1938, Đảng ta đổi tên mặt trận thành Mặt trận Thống nhất dân chủ Đông Dương.
+ Thông qua mặt trận, Đảng ta đã
động viên, tập hợp tổ chức được đội quân chính trị quần chúng gồm hàng triệu
người, đưa họ lên trận tuyến đấu tranh, chuẩn bị cho thời kì cách mạng sau.
- Thời kì 1939 - 1945.
+
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Nhật lăm le nhảy vào Đông Dương.
Thực dân Pháp phát xít hoá bộ máy thống trị, ra sức bóc lột phục vụ nhu cầu
chiến tranh. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ( 11 -
1939 ) chủ trương thành lập Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông
Dương gồm các Hội phản đế nhằm đoàn kết mọi lực lượng chống kẻ thù chủ
yếu trước mắt là bọn đế quốc và tay sai.
+ Tháng 5 - 1941, Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 8 chủ trương nêu cao hơn nữa vấn đề
dân tộc, tập trung mọi lực lượng của dân tộc thực hiện cho kì được yêu cầu cấp
bách là giải phóng dân tộc nên đã thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng
minh ( Việt Minh ) gồm các hội Cứu quốc.
+ Hai mặt trận trên đã xây dựng
được lực lượng chính trị hùng hậu cho cách mạng, quần chúng được rèn luyện
trong các hình thức đấu tranh từ thấp đến cao, trên nền tảng đó mà xây dựng lực
lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng, chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám 1945.
c. Kết luận.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng từ 1930 -
1945, Đảng ta luôn coi trọng việc xây dựng khối đoàn kết toàn dân thông
qua Mặt trận và các tổ chức quần chúng.
Hình thức tổ chức mặt trận được thay đổi linh hoạt qua từng thời kì nhằm đáp
ứng được yêu cầu của cách mạng.
Câu 10. Nêu vai trò của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đối
với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 ?
Vai
trò vĩ đại của của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với thắng lợi của Cách mạng tháng
Tám năm 1945.
|
-
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (9/1939), nước Pháp bị phát xít Đức
chiếm đóng (6/1940)..., với tầm nhìn sâu rộng và sự nhạy bén thời cuộc,
Nguyễn Ái Quốc nhận định thời cơ cho cách mạng Việt Nam đang đến gần... Ngày
28/01/1941, Người về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
|
-
- Tại Hội nghị lần thứ 8 BCHTƯ Đảng (5/1941) do Nguyễn Ái
Quốc triệu tập và chủ trì, Người đã cùng với Trung ương Đảng hoàn chỉnh việc
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược được đề ra từ Hội nghị Trung ương tháng
11/1939, nhằm giải quyết mục tiêu số 1 của cách mạng là độc lập dân tộc và đề
ra nhiều chủ trương sáng tạo thực hiện mục tiêu ấy...
|
Nghị
quyết của Hội nghị lần thứ 8 BCHTƯ Đảng có ý nghĩa quyết định thắng lợi của
Cách mạng tháng Tám sau này.
|
-
Người đã trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng ở Cao- Bắc– Lạng, xây dựng
vùng này thành căn cứ địa cách mạng cho cả nước và làm cơ sở liên lạc với
phong trào cách mạng thế giới...
|
-
Ngày 19/05/1941, Người thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh(gọi tắt
là Việt Minh), nhằm tập hợp hết thảy các lực lượng yêu nước đấu tranh giành
độc lập dân tộc. Mặt trận Việt Minh có vai trò hết sức to lớn trong việc
chuẩn bị cũng như trong tiến hành khởi nghĩa...
|
-
Đi đôi với việc xây dựng lực lượng chính trị, Người chú trọng xây dựng lực
lượng quân sự(tổ chức các lớp huấn luyện chính trị, quân sự, biên soạn tài
liệu về chiến thuật du kích, chỉ thị tổ chức “Nam tiến”..., thành lập Đội
Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (22/12/1944)...). Người là cha đẻ của
lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam. Lực lượng vũ trang phối hợp với lực
lượng chính trị thúc đẩy cách mạng phát triển...
|
-
Sau ngày Nhật đảo chính, hất cẳng Pháp, độc chiếm Đông Dương(sự kiện mà Hồ
Chí Minh và Trung ương Đảng đã dự kiến từ trước), Người cùng Trung ương Đảng
phát động cao trào “Kháng Nhật cứu nước” làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi
nghĩa...
|
-
Người còn chỉ thị thành lập Khu giải phóng Việt Bắc (6/1945), đề ra 10 chính
sách xây dung Khu giải phóng thành căn cứ địa cách mạng cho cả nước. Người
trực tiếp lãnh đạo Khu giải phóng, mầm mống của nước Việt Nam mới đang hình
thành...
|
- Nhận được tin Nhật Bản sắp đầu hàng, Người
cùng Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập “Uỷ ban khởi nghĩa toàn
quốc”, ra “Quân lệnh số 1”...phát lệnh Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền
trong cả nước trước khi quân Đồng minh kéo vào Đông Dương...
|
+
Tại Hội nghị toàn quốc của Đảng (14-15/08/1945, tại Tân Trào- Tuyên Quang),
Người cùng Trung ương Đảng vạch ra những phương châm, nguyên tắc tiến hành
khởi nghĩa và quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội, đối
ngoại sau khi giành được chính quyền...
|
+
Người chủ toạ Đại hội quốc dân (16-17/08/1945, tại Tân Trào- Tuyên Quang),
tranh thủ được sự nhất trí hoàn toàn của Đại hội đối với chủ trương Tổng khởi
nghĩa của Đảng và Mặt trận Việt Minh. Người đảm nhận trọng trách lãnh đạo Uỷ
ban Dân tộc giải phóng Việt Nam mà Đại hội quốc dân đã uỷ thác...
|
+
Người gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước đứng lên Tổng khởi nghĩa giành chính
quyền. Người cùng Trung ương Đảng lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa thắng
lợi nhanh chóng và ít đổ máu ...
|
-
Ngày 02/09/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), thay mặt Chính phủ lâm
thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập do Người thảo ra, trịnh
trọng tuyên bố với toàn thể quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà thành lập, đánh dấu thắng lợi hoàn toàn của Cách mạng tháng Tám 1945.
|
Câu 11. Qua việc phân tich những bài học kinh nghiệm của Cách mạng tháng
Tám, hãy làm rõ tính đúng đắn, sáng tạo của Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn
tắt của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc.
a.Đặt vấn đề: Cách mạng
tháng Tám để lại nhiều bài học kinh nghiệm phong phú, quý báu; trong đó có hai bài học kinh nghiệm liên
quan đến hai điểm sáng tạo của Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Nguyễn
Ái Quốc soạn thảo: Vấn đề xác định nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền, lực
lượng cách mạng tư sản dân quyền.
b. Nội dung :
- Bài học thứ nhất của
Cách mạng tháng Tám: Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, kết hợp đúng đắn, sáng tạo nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, đưa nhiệm vụ
chống đế quốc và tay sai lên hàng đầu, nhằm tập trung lực lượng để thực hiện
cho kì được yêu cầu cấp bách của cách mạng là giải phóng dân tộc, giành độc lập
tự do cho Tổ quốc.
- Chính cương
vắn tắt, Sách lược vắn tắt: Đánh đổ bọn đế quốc Pháp, bọn phong
kiến và tư sản phản cách mạng, làm cho nước Việt Nam được độc lập...tịch thu
ruộng đất của bọn đế quốc và bọn phản cách mạng chia cho dân cày nghèo, tiến
hành cách mạng ruộng đất, đem lại ruộng đất cho nông dân.
Các nội dung đó bao hàm cả nội dung dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và
chống phong kiến, nhưng nhiệm vụ hàng đầu là chống đế quốc và tay sai giành độc
lập tự do cho toàn thể dân tộc.
Chính cương vắn tắt, Sách lược
vắn tắt đã xác định dúng hai mâu thuẫn
cơ bản của xã hội Việt Nam là mâu thuẫn
giữa toàn thể dân tộc ta với bọn đế quốc Pháp và tay sai nên nêu được hai nhiệm
vụ cơ bản , trong đó mâu thuẫn chủ yếu
là mâu thuẫn dân tộc nên nhấn mạnh nhiệm
vụ hàng đầu là giải phóng dân tộc.
- Bài học thứ hai của Cách mạng tháng Tám: Đánh gía
đúng và biết tập hợp , tổ chức lực lượng các giai cấp cách mạng, trong đó công nông là đội quân chủ lực.
trên cơ sở liên minh công nông, biết khơi dậy tinh thần dân tộc trong mọi tầng lớp nhân dân, tập hợp mọi lực lượng
yêu nước và tiến bộ trong mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, phân hoá và cô
lập cao độ kẻ thù rồi tiến lên đánh đổ chúng.
- Chính
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt: Lực lượng để
đánh đổ đế quốc và phong kiến là công
nông, tiểu tư sản; với phú nông, trung,
tiểu địa chủ và tư bản An Nam chưa ra mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít
ra cũng làm cho họ trung lập.
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn
tắt đã đánh giá đúng khả năng cách mạng của mỗi giai cấp, tầng lớp của Việt
Nam, vì thế mở rộng tối đa lực lượng cách mạng, cô lập cao độ kẻ thù.
c.Nhận xét:
Những bài học kinh nghiệm của
Cách mạng tháng Tám là minh chứng cho
tính đúng đắn, sáng tạo của Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt.
Những bài học đó sẽ được Đảng ta tiếp tục vận dụng sáng tạo trong kháng chiến
chống Pháp, chống Mĩ
Câu 12. Tại sao ngày 9 - 3 - 1945, Nhật đảo
chính
Pháp trên toàn cõi Đông Dương
? Nêu chủ trương của Ban Thường vụ Trung ương
Đảng Cộng sản Đông Dương đề ra trong chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.
a) Tại sao Nhật đảo chính Pháp ?
-
Ngày 22 - 9 - 1940, Nhật chính thức nhảy vào Đông Dương, thực dânPháp đã câu kết với Nhật để đàn áp nhân dân Đông Dương nhưng sự cấu kết này chỉ là tạm thời. Càng về sau mâu thuẫn Nhật – Pháp càng sâu sắc vì hai tên đế quốc không thể ăn chung một miếng mồi béo bở.
-
Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc, phe phát xít liên tiếp thất bại trên các chiến trường, thủ đô Pari của Pháp được giải phóng, chính qu yền Đờ Gôn lên cầm quyền. Ở mặt trận Thái Bình Dương, Nhật bị khốn đốn. Ở Đông Dương,
thực dân Pháp muốn nhân cơ hội đó ngóc đầu dậy.
- Nhật bị tấn
công liên tiếp, chỉ còn con đường duy nhất đi xuống các căn cứ phía Nam là qua
Đông Dương nên phải giữ nơi này.
Để
trừ hậu họa về sau, Nhật bất ngờ làm cuộc
đảo
chính vào đêm 9 - 3 - 1945.
-
Tối 9 - 3 - 1945, Nhật đảo chính Pháp, Pháp đầu hàng. Nhật tuyên bố : “giúp các dân tộc Đông Dương xây dựng nền độc lập”, dựng Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim, đưa Bảo Đại làm “Quốc trưởng”. Thực chất là độc chiếm Đông Dương, tăng cường vơ vét, bóc lột và đàn áp dã man
những người cách mạng.
b)
Chủ trương của Ban Thường vụ Trung ương Đảng…
-
Nhật đảo chính Pháp tạo nên cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc. Tình hình đó rất thuận lợi cho các mạng Đông Dương phát triển nhanh chóng,
mạnh mẽ hơn nữa. Chiến tranh thế giới lại đang đi vào giai
đoạn kết thúc. Thời cơ tổng khởi nghĩa nhất định nhanh chóng đi đến chín muồi.
-
Nắm vững tình hình trên, ngày 12 - 3 - 1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản
Đông Dương ra chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, nhận định :
+ Kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương: phát xít Nhật.
+ Khẩu hiệu: “Đánh đuổi phát xít Nhật”.
+
Hình thức đấu tranh: từ bất hợp tác bãi công, bãi thị đến biểu tình, thị uy, vũ trang du kích và sẵn sàng chuyển qua tổng khởi nghĩa khi có điều kiện.
+
Chủ trương “Phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa”.
- Bản chỉ thị này đã thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết, kịp thời của Đảng Cộng sản Đông Dương, là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và Mặt trận Việt Minh trong cao trào kháng Nhật cứu nước, trực tiếp dẫn đến thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945.
Câu 13. Hãy phân tích bài học kinh nghiệm
về bạo lực cách mạng và khởi
nghĩa vũ trang trong cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945.
-
Thấu suốt tư tưởng cách mạng bạo lực của chủ nghĩa Mác – Lênin, coi bạo lực cách mạng là bạo lực của quần chúng, ra sức xây
dựng lực lượng
chính trị quần chúng làm cơ sở, đến một giai đoạn cần
thiết khéo kết hợp xây
dựng
lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang.
-
Trong quá trình xây dựng lực lượng, kết hợp giữa đấu tranh chính trị với vũ trang ở mức độ thích hợp, kết hợp với
phong trào ở nông thôn và phong trào ở thành thị; khi có điều kiện thì tiến hành khởi nghĩa từng phần, tiến lên tổng khởi nghĩa.
-
Bạo lực trong cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 chính là bạo lực của quân đội chính trị hùng hậu của quần chúng, có lực lượng vũ trang làm nòng cốt xung kích, đã đập tan bộ máy thống trị, giành được thắng lợi cho cách mạng.
- Trên cơ sở chuẩn bị lực lượng chu đáo, nắm vững và vận
dụng sáng tạo quan điểm bạo lực cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, chủ động nắm bắt thời
cơ, Đảng Cộng sản Đông Dương đã kịp thời hạ quyết tâm chính xác, lãnh đạo toàn dân nổi dậy giành chính quyền. Sức mạnh tổng hợp của việc kết hợp lực lượng chính trị
quần chúng với lực lượng vũ trang, trong đó lực lượng của đạo quân chính trị quần chúng là lực lượng to lớn nhất, đã đưa cách mạng đến thắng lợi.
Câu 14. Trình bày
và nhận xét về chủ trương tập hợp lực lượng và chủ trương chuẩn
bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền
được
đề ra tại Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (5 – 1941).
a) Chủ trương tập hợp lực lượng :
- Chủ trương thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, đổi tên các Hội Phản đế thành Hội Cứu quốc, nhằm tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp, giai cấp và cá nhân yêu nước.
- Nhận xét : Chủ trương trên đã huy động đến mức cao nhất lực lượng toàn dân tộc thực hiện nhiệm vụ số một là giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do. Khắc phục hạn chế của Luận cương chính trị tháng 10 - 1930 và khẳng định chủ trương đúng đắn trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, góp phần trực tiếp đưa Cách mạng tháng Tám đến thành công. b) Chủ trương khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền :
-
Hội nghị xác định hình thái của cuộc khởi ở nước ta là đi
từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa và kết luận : chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân trong giai đoạn hiện tại.
-
Nhận xét : Đây là một chủ trương đúng đắn, sáng tạo phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam, nhằm giải quyết mục tiêu số một của cách mạng là giải phóng dân tộc, góp phần trực tiếp đưa Cách mạng tháng Tám đến thành công.
-
Mục tiêu đấu tranh: tạm gác các khẩu hiệu “độc lập dân tộc” và “cách
mạng ruộng đất”, chỉ đòi các quyền tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình. Nhưng đó cũng là
quyền lợi của dân tộc.
-
Về lực lượng: hết sức rộng rãi, bao gồm mọi lực lượng dân chủ, kể cả một bộ phận những người Pháp có xu hướng chống phát xít, nhưng lực lượng đông đảo nhất vẫn là lực lượng dân tộc.
- Phong trào dân chủ là một giai đoạn chuẩn bị cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc sau này.
Vì
những lý do trên, phong trào 1936 – 1939 là một cuộc vận động dân chủ, nhưng vẫn
mang tính chất dân tộc.
Câu 19. Lợi dụng mâu
thuẫn trong hàng
ngũ kẻ thù, tập hợp mọi tầng lớp
yêu nước xây dựng khối đoàn kết toàn dân
trong các Mặt
trận dân tộc thống
nhất,
đã được
Đảng Cộng sản
Đông Dương
xúc tiến
như thế nào
trong những
năm 1936 - 1945?
Để phát huy sức mạnh của đông đảo toàn dân, lợi dụng mâu thuẫn trong
hàng ngũ kẻ thù, trong quá trình lãnh đạo cách mạng từ năm 1936 đến
1945, Đảng Cộng sản Đông Dương đã tập hợp mọi tầng lớp yêu nước xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân trong các Mặt trận dân tộc thống
nhất phù hợp theo từng thời kì.
a) Thời kì 1936 - 1939 :
- Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập “Mặt trận Thống nhất Nhân dân Phản đế” rộng rãi
bao gồm các giai cấp, các đảng phái, các đoàn thể chính trị tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, các dân tộc ở xứ Đông Dương
để cùng nhau tranh đấu đòi quyền lợi hàng ngày cho toàn dân, chống chế độ thuộc địa vô nhân đạo...
- Tháng 3 - 1938, Đảng đổi tên “Mặt trận Thống nhất Nhân dân Phản đế” thành “Mặt trận Dân chủ Đông Dương ” với các hình thức tổ chức và đấu tranh linh hoạt nhằm động viên hàng triệu quần chúng vào trận tuyến đấu tranh đòi các quyền dân chủ, dân sinh, chuẩn bị đưa quần
chúng tiến lên trận chiến cao hơn.
b) Thời kì 1939 - 1945 :
- Hội
nghị
Ban Chấp
hành
Trung
ương Đảng tháng 11
- 1939 chủ trương thành lập “Mặt trận Thống nhất Dân tộc phản đế
Đông Dương”
thay cho mặt trận Dân chủ Đông Dương không còn phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới ; xác định giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu và cấp bách của cách mạng Đông Dương ;
tạm
gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, chỉ đề ra khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của để quốc và lập và địa chủ phản bội quyền lợi
dân tộc, chống tô cao, lãi nặng. Khẩu hiệu lập chính quyền xô viết công, nông, bình
được
thay thế bằng khẩu hiệu lập chính quyền dân chủ cộng hoà.
- Tháng 5 - 1941, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương nhận định : vì quyền lợi sinh tồn của cả dân tộc, Đảng phải nêu cao ngọn cờ dân tộc, khơi dậy mạnh mẽ chí khí cách mạng, tinh thần yêu nước trong mọi tầng lớp nhân dân, tập trung mọi lực lượng dân tộc thể hiện cho được nhiệm vụ cốt yếu là giải phóng dân
tộc,
cứu tổ quốc. Ngày 19 - 5 - 1941, “Việt Nam độc lập đồng minh hội” gọi tắt là Mặt trận Việt Minh ra đời... Các giới quần chúng được tổ chức và tập hợp trong các hội cứu quốc : Công
nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, thanh niên cứu quốc, phụ nữ cứu quốc... Năm tháng sau, Tuyên
ngôn,
Chương trình, Điều lệ của Việt Minh được công bố chính thức. Chương
trình cứu nước của Việt Minh được đông đảo các tầng lớp nhân dân ủng hộ- Sau khi ra đời, Việt Minh đã thiết lập các tổ chức khắp nông thôn, thành thị có hệ thống từ trung ương đến cơ sở. Một số tổ chức chính trị yêu nước ra đời và tham gia làm thành viên Mặt trận Việt Minh như Đảng Dân chủ Việt Nam (tháng 6 - 1944). Lực lượng chính trị quần
chúng ngày càng đông đảo và được rèn luyện trong đấu tranh chống Pháp - Nhật theo khẩu hiệu của mặt trận Việt Minh
Câu 20. Nêu những bài học kinh nghiệm của Cách mạng tháng Tám năm
1945 ở Việt Nam.
Suy nghĩ của em về việc vận dụng những
bài học kinh nghiệm đó trong công cuộc
bảo vệ Tổ quốc và toàn vẹn lãnh thổ nước ta
hiện nay.
a. Bài học
kinh nghiệm:
- Đảng phải có đường
lối
đúng đắn, trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lê nin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam; nắm bắt tình hình thế giới và trong nước để đề ra chủ trương, biện pháp cách mạng phù hợp.
-
Đảng tập hợp, tổ chức các lực lượng yêu nước rộng rãi trong mặt trận dân tộc thống
nhất – Mặt trận Việt Minh, trên cơ sở khối liên minh công – nông; phân hóa
và cô lập kẻ thù để tiến lên đánh bại hoàn toàn chúng.
-
Trong chỉ đạo khởi nghĩa, Đảng linh hoạt kết hợp đấu tranh chính trị với đấu
tranh vũ trang, tiến hành khởi
nghĩa từng phần, dự đoán và chớp thời cơ Tổng khởi nghĩa trong cả nước.
b. Suy nghĩ của em…
Học sinh cơ bản trình bày các ý sau:
- Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, kiên trì đường lối độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ.
- Tập hợp và đoàn
kết toàn dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của dân tộc và thời
đại, kiên trì đường lối hòa bình, phát huy sức mạnh toàn diện trên tất cả các mặt
trận, từ kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa, giáo dục.
-
Đồng thời, bài học chớp thời cơ của Cách
mạng tháng Tám cũng đòi hỏi chúng ta
vận dụng, tận dụng được những điều
kiện
hội nhập, mở cửa tranh thủ cơ hội từ bên ngoài để phát triển đất
nước, kết hợp sức mạnh của dân tộc với tăng cường đoàn kết quốc tế.
Câu 21. Trong tình hình lịch sử nào của thời kỳ 1939-1945,
Đảng Cộng sản Đông Dương đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu? Phân
tích ý nghĩa của chủ trương này. Chủ trương này có mâu thuẩn với mục tiêu chống
đế quốc và chống phong kiến được đề ra trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng năm 1930 không? Vì sao?
1-
Tình hình lịch sử... (1,5
điểm)
a- Tháng 9-1939 chiến tranh thế giới
thứ hai bùng nổ Phát xít Đức lần lượt xâm chiếm các nước Châu Âu. Pháp thất bại
(6-1940), LX tham gia chiến tranh (6-1941). Ở Viễn Đông, Nhật tiến hành
xâm chiếm các nước, gây ra cuộc chiến
tranh ở châu Á- Thái Bình Dương (12-1941).
b- Ở Đông Dương, thực dân Pháp thi
hành chính sách thời chiến, phát xít hóa bộ máy thống trị, đàn áp phong trào CM
của nhân dân ta, chĩa mũi nhọn vào Đảng CSDD.... Tiếp đó, từ tháng 9-1940, Pháp
đã cấu kết với Nhật đàn áp và bóc lột nhân dân ta, làm cho mâu thuẩn giữa dân
tộc VN với đế quốc PX trở nên gay gắt hơn lúc nào hết.
c-
Đảng ta trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và trong nước, đã thực hiện sự
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và sách lược, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc
lên hàng đầu. Chủ trương đó được thể hiện trong nghị quyết Trung ương 6
(11-1939), NQTW7 (11-1940) và NQTW8 (5-1841)
2- Ý nghĩa của chủ trương trên: (2
điểm)
a- Giải quyết đúng đắn mối quan hệ
đúng đắn giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ của cách mạng nước ta, khẳng định
nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
b- Làm phân hóa hàng ngũ kẻ thù, lôi
kéo được một bộ phận giai cấp địa chủ phong kiến yêu nước đi theo CM.
c- Khơi dậy được tinh thần dân tộc,
tinh thần yêu nước của đông đảo giai cấp, tầng lớp XH, nhằm đoàn kết tập hợp
những người yêu nước trong một Mặt trận thống nhất để chĩa mũi nhọn vào đế quốc
PX, giải phóng dân tộc.
3- Chủ trương có mâu thuẩn..... (1,5 điểm)
a- Chủ trương đặt nhiệm vụ giải phóng
dân tộc lên hàng đầu không mâu thuẩn với mục tiêu chống đế quốc và chống PK
được đề ra trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng.
b- Vì chủ truương này phù hợp với mục
tiêu nhiệm vụ do Cương lĩnh đầu tiên đề ra, bao hàm cả nhiệm vụ chống đế quốc
và chống PK nhưng nổi bật là nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai phản động, giành
độc lập tự do cho toàn thể dân tộc.
Câu 22. Trong
"Tuyên ngôn độc lập" (2-9-1945) có đoạn viết: " Nước Việt Nam có
quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc
lập". Căn cứ vào những cơ sở nào mà Hồ Chí Minh đã khẳng định như vậy?
1- Ngày 2-9-1945, trong lể tuyên bố độc lập, Hồ Chí Minh đã
nói: “nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã trở thành một
nước tự do và độc lập ". Lời khẳng định đó có cơ sở pháp lý quốc tế và lịch sử của nó
2- Tự do, độc lập, bình đẳng, mưu cầu hạnh phúc là quyền
thiêng liêng của tất cả các dân tộc trên thế giới. Chân lý đó được thể hiện
trong bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ (1776) và bản Tuyên ngôn nhân quyền và
dân quyền của nước Pháp (1781) đã được toàn thể nhân loại trên thế giới thừa
nhận: “ Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".; " người ta sinh ra tự do và
bình đẳng về quyền lợi " do đó, dân tộc Việt Nam cũng có quyền hưởng tự do
và độc lập.
3- Từ ngày thực dân Pháp xâm lược (1858) đến khi cách mạng
tháng Tám thành công (1945), dân tộc Việt Nam đã trải qua hơn 80 năm đấu tranh
gian khổ chống Pháp rồi chống Nhật với các phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng
phong kiến, theo khuynh hướng dân chủ tư sản, và cuối cùng là phong trào cách
mạng vô sản. Đặc biệt trong thời kỳ 1939- 1945, Đảng ta, dân tộc ta đã kịp thời
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, tích cực chuẩn bị về mọi mặt và kịp thời chớp
lấy thời cơ, tự mình giành độc lập từ tay Nhật, tự mình giải phóng cho mình.
Do đó, nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và sự thật đã trở
thành một nước tự do và độc lập vào cuối tháng 8-1945. Bản tuyên ngôn độc lập
(2-9-1945) chính là thành quả phấn đấu, hy sinh của nhiều thế hệ người Việt Nam
yêu nước mới có được.
Câu 23. Hãy trình bày ngắn gọn
hai sự kiện thể hiện rõ nhất về mối quan hệ giữa lịch sử thế giới với lịch sử
Việt Nam trong thời gian từ tháng 3 đến tháng 8 năm 1945.
Trình bày 2 sự kiện thể hiện rõ nhất
mối quan hệ…..
-Sự kiện 1: Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương
và Hội nghị Ban Thường vụ TƯ Đảng……
*Trước
nguy cơ bị tấn công từ nhiều phía, đêm 9-3-1945 phát xít Nhật đã đảo chính Pháp
trên toàn ĐD và quân Pháp thất bại nhanh chóng. ĐD trở thành thuộc địa độc
chiếm của Nhật………..
*Ngay đêm
9-3-1945, Thường vụ TƯ Đảng đã họp tại Đình Bảng(Từ Sơn-BN) và ngày 12-3-1945
ra chỉ thị “ Nhật- Pháp bắn nhau……..”….
-Sự kiện
2:
Nhật đầu hàng Đồng minh và Hội nghị toàn quốc của Đảng:
*Đầu tháng
8-1945, Đồng minh tấn công mạnh mẽ FX Nhật; ngày 6 và 9-8 Mĩ ném hai quả
bom……..ngày 8-8-1945 Liên Xô tuyên chiến……..đến ngày 15-8-1945 Nhật tuyên bố
đầu hàng……làm quân Nhật ở ĐD rệu rã, chính quyền tay sai hoang mang…
*Khi nghe tin Nhật chuẩn bị đầu hàng, ngày 14,15-8-1945 Hội nghị Toàn
quốc
Câu 24. Nhiệm vụ trung tâm của thời
kì cách mạng 1939-1945 là gì? Nêu nội
dung sự kiện đã đánh dấu sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của cách mạng Việt
Nam trong giai đoạn này?
a.Nhiệm vụ trung tâm của thời kì cách mạng
1939-1945 là đấu tranh giải phóng
dân tộc.
b.Sự kiện đã đánh dấu sự chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn này là Hội nghị BCH
TƯ Đảng cộng sản Đông Dương tháng 11/1939, được tổ chức tại Bà Điểm – Hóc Môn
(Gia Định), do đồng chí Nguyễn Văn Cừ chủ trì.
- Nội dung
+ Xác định
nhiệm vụ, mục tiêu trước mắt là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng các dân
tộc Đông Dương làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập.
+ Tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất,
đề ra khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và bọn địa chủ phản bội
quyền lợi dân tộc chống địa tô cao, lãi nặng.
+ Thành lập chính quyền dân chủ
cộng hoà thay cho chính quyền xô viết công, nông, binh.
+ Chuyển từ đấu tranh đòi quyền lợi dân
sinh dân chủ sang đòi lật đổ chính quyền
đế quốc và tay sai, từ đấu tranh công khai, hợp pháp, nửa hợp pháp sang đấu
tranh bí mật, bất hợp pháp.
+ Thành lập Mặt trận Thống nhất dân tộc
phản đế Đông Dương.
- Ý nghĩa: đánh dấu bước chuyển hướng quan trọng, đưa nhiệm vụ
giải phóng dân tộc lên hàng đầu, mọi nhiệm vụ
khác phải phục vụ cho nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
Câu 25. Đảng
Cộng sản Đông Dương đã có chủ trương gì để tập hợp lực lượng cách mạng trong
những năm 1939 - 1945? Chủ trương đó được kế thừa như thế nào trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay? Phát biểu suy nghĩ của em về vai trò của
việc đoàn kết dân tộc.
|
Chủ trương tập hợp lực lượng của
Đảng Cộng sản Đông Dương từ 1939 - 1945
|
- Taị hội nghị BCH TW Đảng tháng
11/1939:
Để
thực hiện nhiệm vụ chống đế quốc, phong kiến tay sai, giải phóng dân tộc, làm
cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Đảng chủ trương thành lập mặt trận “Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương”
(gọi tắt là Mặt trận phản đế Đông Dương) thay cho mặt trận dân chủ Đông
Dương…
|
- Tại hội nghị BCHTW Đảng tháng
5/1941:
+ Đầu năm 1941, tình hình thế giới
và trong nước có những chuyển biến mau lẹ. Đứng trước yêu cầu giải phóng dân
tộc ngày càng cấp thiết, hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 5/1941
được triệu tập, hội nghị đã xác định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng
là giải phóng dân tộc…Hội nghị quyết
định thành lập mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh)
thay cho Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương, thay tên các hội
phản đế thành các hội Cứu quốc và giúp đỡ việc thành lập mặt trận ở Lào,
Campuchia.
|
+ Đảng chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc
trong khuôn khổ từng nước Đông Dương. Đây là chủ trương sáng tạo nhằm phát huy sức mạnh tự lực mỗi nước
Đông Dương, nâng cao hơn nữa ý thức đoàn kết và sức mạnh dân tộc.
|
-
Từ sau hội nghị BCHTW tháng 5 - 1941, Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương xây
dựng, phát triển lực lượng cách mạng toàn diện bao gồm lực lượng chính trị và
lực lượng vũ trang. Đến trước cách mạng tháng 8 năm 1945, Đảng đã tập hợp
được lực lượng cách mạng hùng hậu: hầu khắp cả nước đều có tổ chức của Việt
Minh, các lực lượng vũ trang được hợp nhất thành Việt Nam giải phóng quân...
|
-
Trong tháng Tám năm 1945, khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, thời cơ cách mạng đã
chín muồi. Để phát động lệnh tổng khởi nghĩa trên cả nước, Đảng đã triệu tập
Đại hội quốc dân tại Tân Trào - Sơn Dương - Tuyên Quang (ngày 16 và 17 tháng
8 năm 1945),…thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh đứng
đầu. Nhờ đó, toàn quân, toàn dân ta đoàn kết, quyết tâm đứng lên tổng khởi
nghĩa, giành chính quyền thắng lợi.
|
Chủ
trương đó được kế thừa như thế nào trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất
nước hiện nay?
|
-
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay, Đảng ta luôn chú trọng
xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết toàn dân trong Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam.
-
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đóng vai trò thiết thực, đoàn kết nhân dân thực
hiện các quyền làm chủ của nhân dân, góp phần giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc
gia,… từng bước thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước…
|
Phát biểu suy nghĩ về vai trò của việc đoàn kết dân tộc:
|
Học
sinh phát biểu suy nghĩ cá nhân, nhưng cần nêu được: đoàn kết là cội nguồn
tạo nên sức mạnh của dân tộc…
|
Câu 26:Tóm tắt sự bùng nổ và
lan rộng của cuộc chiến tranh thế giới ll (1939-1941) và nêu ảnh hưởng của nó đối
với Việt Nam.
a) Chiến
tranh thế giới ll bùng nổ:
·
Tóm tắt sự kiện:
-
Ngày 1/9/1939, Đức tấn công Ba Lan. Ngày 3/9/1939, Anh, Pháp tuyên chiến với Đức.
Ở
Viễn Đông, Nhật mở rộng xâm lược Trung Quốc, tiến sát biên giới Việt-Trung, uy
hiếp Đông Dương. Cuối năm 1941, Nhật gây chiến tranh Thái Bình Dương, tiến công
hạm đội Mĩ ở cảng Trân Châu rồi chiếm các thuộc địa của Mĩ và Anh ở trên biển
và trong đất liền.
-
Chính phủ Pháp ngả dần
sang phái hữu -> phản động Pháp ở Đông Dương ngóc đầu dậy chống phá cách mạng,
đàn áp phong trào dân chủ, đặt Đảng Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật. Chúng thi
hành chính sách kinh tế chỉ huy nhằm vơ vét tiền của để bỏ vào cuộc chiến tranh
đế quốc mà nước Pháp cũng tham gia.
·
Ảnh hưởng: Khả năng hoạt
động hợp pháp công khai không còn nữa, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế
quốc tay sai phát triển gay gắt. Đảng rút vào hoạt động bí mật, trung ương Đảng
họp hội nghị tháng 11/1939 quyết định đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng
đầu, tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc
phản đế Đông Dương, đưa nhân dân bước vào cuộc vận động trực tiếp giải phóng
dân tộc.
b) Chiến
tranh thế giới ll lan rộng:
·
Tóm tắt sự kiện:
-
Tháng 6/1940, Đức chiếm
nước Pháp, chính phủ Đờ-gôn bỏ chạy, chính phủ phản động Pê-tanh lên cầm quyền.
Đức chuyển hướng tấn công về phía Đông chiếm các nước Đông Âu và Nam Âu, biến tất
cả các quốc gia này thành thuộc địa của chúng. Tháng 6/1941, Đức huy động lực
lượng lớn 2 triệu quân, 2000 xe tăng, 2000 đại bác ồ ạt tiến công vào Liên Xô.
Lúc đầu hồng quân Liên Xô buộc phải rút lui.
-
Ở châu Á, Nhật gây sức
ép buộc Pháp ở Đông Dương phải nhượng bộ:
o
Phải đóng cửa biên giới
Việt-Trung.
o
Thừa nhận, chấp nhận có
những đặc quyền đặc biệt ở Đông Dương.
o
Cho Nhật đưa quân vào
phía Bắc sông Hồng và sử dụng sân bay ở Bắc Kì (9/1940).
o
Tháng 9/1940, Nhật vào
Đông Dương. Tháng 8/1941, Nhật-Pháp kí hiệp ước phòng thủ chung Đông Dương, cam
kết hợp tác với Nhật trên mọi phương diện.
·
Ảnh hưởng: Những điều
này khiến nhân dân Đông Dương phải chịu cảnh “1 cổ 2 tròng”, mâu thuẫn giữa dân
tộc với đế quốc Pháp, phát xít Nhật và tay sai vô cùng gay gắt.
KẾT LUẬN
Cuộc vận động giải phóng
dân tộc 1939-1945 với kết quả là sự thành công của Cách mạng tháng Tám là một
phần của lịch sử cuộc đấu tranh oanh liệt của nhân dân Việt Nam dưới
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương và Chủ tịch Hồ Chí Minh
để giành lại nền độc lập dân tộc, thiết lập một chính quyền mới, đưa người dân
lao động lên nắm quyền làm chủ vận mệnh đất nước. Cuộc Cách mạng này là kết quả
cuẩ cuộc đấu tranh đầy gian khổ, là sự tiếp nối của truyền thống yêu nước quật
cường, tinh thần đoàn kết của dân tộc; thể hiện nhãn quan chính trị nhạy bén,
sự sáng tạo của Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh. Các nhân tố ấy
cùng với những điều kiện khách quan thuận lợi đã làm nên chiến tích vĩ đại mở
ra bước ngoặt vĩ đại của lịch sử dân tộc.
Quá trình vận động giải phóng dân tộc
1939-1945 với thành quả là cuộc Cách mạng tháng Tám đã để lại cho cách mạng Việt Nam nhiều bài học kinh nghiệm quý báu.
Tinh thần bất diệt ấy cần được phát huy trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc hiện nay: Kiên định mục tiêu, lí tưởng
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội dựa trên nền tảng chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn
sàng đập tan mọi âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực thù địch, bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc; tiếp tục
xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân; tranh thủ thời cơ thuận lợi, chủ động khắc phục khó khăn, đẩy
nhanh phát triển kinh tế - xã hội, đưa đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng.
Với kinh nghiệm nhỏ mà tôi tích lũy
được trong quá trình trực tiếp giảng dạy tại trường phổ thông tôi đã
mạnh dạn viết chuyên đề " Cuộc vận động giải phóng dân tộc 1939-1945"
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, tuy nhiên chuyên đề " Cuộc vận động giải
phóng dân tộc 1939-1945" là một vấn đề khó, phức tạp, kiến thức của
bản thân còn hạn hẹp nên chuyên đề còn một số hạn chế. Với tinh thần cầu
thị và học hỏi tôi rất mong nhận được sự đóng góp của các đồng
nghiệp để chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM
KHẢO
1. Giáo trình lịch sử Việt Nam, NxbGD 2000.
2. Hồ
Chí Minh: Toàn tập,Nxb sự thật, 2002.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
4. Tài liệu ôn thi HSG môn Lịch
sử, NxbGD,2016
5. Một số nội dung khó môn Lịch
sử, NxbGD,2017