Hướng dẫn học sinh phân tích chùm ca dao than thân mở đầu bằng từ "Thân em" theo đặc trưng thi pháp thể loại
Hướng dẫn học sinh phân tích chùm ca dao than thân mở đầu bằng từ "Thân em" theo đặc trưng thi pháp thể loại
Đề tài:
Hướng dẫn học sinh phân tích chùm ca daothan thân mở đầu bằng từ "Thân em" theo đặc trưng thi pháp thể loại.
Phần 1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Văn học dân gian là nguồn vốn quý giácủa VH dân tộc, đây cũng là nội dung văn học giữ vị trí quan trọng trong chươngtrình Ngữ văn được giảng dạy ở THPT. Vì vị trí đặc biệt quan trọng, nên vấn đềgiảng dạy Văn học dân gian luôn được coi trọng, thể hiện ở việc luôn có sự đổimới trong lựa chọn, thay đổi, điều chỉnh … trong việc đưa tác phẩm Văn học dângian vào giảng dạy ở trường THPT, trong việc các giáo viên luôn tích cực lựachọn các cách thiết kế, phương pháp dạy học tối ưu nhất để thực hiện thành côngviệc dạy và học phân môn này.
Cho đến nay, vấn đề Tìm hiểu tác phẩmvăn học dân gian theo đặc trưng thi pháp thể loại đã khẳng định được tính ưuviệt của nó đối với việc phân tích, chiếm lĩnh cái hay, cái đẹp, những nét đặcsắc tinh túy… của một tác phẩm Văn học dân gian nói chung.
Với thể loại ca dao, thể loại trữtình sớm hình thành và gắn liền với đời sống tinh thần của người dân lao độngViệt Nam có đặc trưng thi pháp thể loại riêng biệt, đặc sắc. Để thấy hết cáihay, cái đẹp của tác phẩm thuộc thể loại này, cách hữu hiệu nhất là đi từ đặctrưng thi pháp của thể loại Ca dao. Người viết xin được trình bày đề xuất cáchphân tích Chùm ca dao than thân mở đầu bằng từ "Thân em…" trong SGK lớp10 (NC) theo hướng đó.
Phần II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞLÍ LUẬN: Vấn đề Thi pháp và Thi pháp thểloại Văn học dân gian
1. Thi pháp
Thi pháp là toàn bộ hình thức nghệ thuậtđược nhà văn sáng tạo nhằm thể hiện nội dung tác phẩm bao gồm hệ thống nhữngnguyên tắc, cách thức xây dựng hình tượng, tổ chức tác phẩm, lựa chọn và sửdụng, tổ chức các phương tiện ngôn ngữ để làm nên tác phẩm văn học.
2. Thi pháp thểloại Văn học dân gian
Mỗithể loại, mỗi thời đại sáng tác có đặc trưng thi pháp riêng.
Mỗitác phẩm Văn học dân gian tồn tại dưới hình thức một thể loại.Mỗi thể loại cónhững đặc trưng thi pháp tạo nên tính khu biệt giữa các thể loại. Có những yếutố thuộc đặc điểm thi pháp là phù hợp khi tìm hiểu tác phẩm thuộc thể loại nàynhưng lại bất lực khi áp dụng để tìm hiểu một tác phẩm thuộc thể loại khác. Tachỉ có thể giải mà hoàn toàn một tác phẩm văn học dân gian khi đặt nó trên cáinền chung của thi pháp thể loại.
Từ những lí luận cơ sở trên, tôi sẽtrình bày hướng phân tích chùm ca dao than thân mở đầu bằng từ Thân em trong SGK Ngữ văn 10 theo đặc điểm thi pháp thể loại ca dao.
II. THỰCTRẠNG:
Đã có nhiều cách tiếp cận với các tácphẩm Văn học dân gian được đề cập đến từ trước tới nay, cũng có khá nhiều côngtrình của các học giả có nghiên cứu hoặc đề cập đến phương diện này, trong đó,nổi bật lên là các vấn đề:Tìm hiểu cáctác phẩm dân gian từ các đặc điểm thi pháp thể loại trong Những đặc điểm thi pháp thể loại Văn học dângian của Đỗ Bình Trị, Thi pháp Vănhọc dân gian của Lê Trường Phát, Thipháp ca dao của Nguyễn Xuân Kính, Mấyvấn đề phương pháp nghiên cứu, giảng dạy Văn học dân gian của Hoàng TiếnTựu… Nhưng trong thực tế giảng dạy Văn học dân gian trong nhà trường chưa có sựquan tâm thực sự đúng mức cho vấn đề này.
III. BIỆN PHÁP TIẾN HÀNHĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: Hướng hiệu quả nhất đối với việc phân tích hai bàica dao theo đặc điểm thi pháp của thể loại ca dao - dân ca.
Bài1:
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vàotay ai
Bài2:
Thân em như củ ấu gai
Ruột trong thì trắng, vỏngoài thì đen
Ai ơi nếm thử mà xem
Nếm ra mới biết rằng em ngọtbùi
Chùm ca dao trên mang khá đầy đủ cácđặc điểm thi pháp của thể loại ca dao, thể hiện ở các yếu tố: nhân vật trữtình, không gian- thời gian nghệ thuật, kết cấu, thể thơ, những thủ pháp nghệthuật chủ yếu… Ta sẽ tiến hành phân tích chùm ca dao từ những đặc trưng thipháp thể loại này.
1. Một đặc điểm quan trọng của ca daolà: dù cảm xúc được thể hiện trong bài ca dao mang màu sắc cá nhân rõ nét,nhưng đó chắc chắn không phải là tiếng nói của một cá nhân day nhất, riêngbiệt, khu biệt…mà bao giờ tiếng nói ấy cuãng là tâm sự, là xúc cảm của một cộngđồng, một tập thể hay một số người. Hai bài ca dao trên cũng vậy, nhân vật trữtình trong hai bài ca dao là người phụ nữ, là cô gái đang bộc bạch nỗi niềm. Đókhông phải là lời than của một cá nhân nào cụ thể mà là tiếng nói của biết baothân phận phụ nữ nhỏ bé phải chịu những bất công, ngang trái, những nghịch lítrong xã hội cũ.
"Nhân vật trữ tình của ca dao dù là chàngtrai, cô gái (…) hay người phụ nưa làm dâu, là vợ, làm mẹ (…) mỗi khi cất tiếngca hướng về cuộc đời mình chỉ thấy buồn, thấy khổ, thấy tủi. Và khi đó, tiếngca cất lên bằng tiếng hát than thân, phản kháng tràn ngập thứ tâm lí cảm xúcbuồn bã, đau thương, oán trách" (Thi pháp Văn học dân gian- Lê TrườngPhát, H. GD. 2000- Tr 230-231)
Đócũng chính là đặc điểm của nhân vật trữ tình trong hai bài ca dao trên.
Ngoàinhân vật trữ tình là người phụ nữ, hai bài ca dao còn nhắc đến những nhân vậtkhác, những đối tượng vắng mặt có thể nhận thấy được qua đại từ "ai".
Xácđịnh nhân vật trữ tình là bước đi cơ sở để tìm hiểu và phân tích một bài haymột chùm ca dao. Ở đây, nhân vật trữ tình cùng một kiểu, một tuyp, là tiếnglòng của cùng một đối tượng: Người phụ nữ trong xã hội cũ. Họ là nạn nhân củachế độ phong kiến bất công, thân phận bị lệ thuộc, bấp bênh dù mang những phẩmchất và giá trị đáng quý.
2. Hai bài ca dao đều kết cấu theo lốikể chuyện (trần thuật). Kể chuyện trong ca dao tuy có "truyện" nhưngrõ hơn cả là tâm trạng, là "tình" trong đó. Những bài ca dao này cũngthế. Chất "sự" ở đây là chuyện của những người con gái không có tựdo, số phận và giá trị bị định đoạt bởi kẻ khác. Nhưng nếu hiểu như vậy thôithì chưa đủ, chưa thể tri âm được với tác giả dân gian. Điều cốt yếu là qua đóta thấy được sự đau khổ, xót xa, nỗi niềm bi phẫn và tinh thần phản kháng củanhững thân phận "thấp cổ bé họng" vốn bị rẻ rúng, đành phải phó mặc.Chính điều này khơi gợi sự đồng cảm nơi người đọc, là chất "tình"được thể hiện qua những bài ca dao này. Từ đó, ta thấy sức sống tâm hồn, tìnhyêu tự do và khát vọng giải phóng, khát vọng khẳng định giá trị bản thân củanhững người phụ nữ, để thêm yêu quý và trân trọng họ…
3. Những câu ca dao than thân trênđược sáng tác theo thể thơ lục bát truyền thống- thể thơ thường gặp nhất trongca dao dân ca. Với ưu thế đặc biệt: giàu nhạc tính, dễ thuộc, dễ nhớ, dễ đi vàolòng người… những câu ca dao trên đã phát huy tối đa sự ưu việt của nó. Nhịpcủa câu 6 không còn giữ nhịp truyền thống (2/2/2) mà biến thể thành nhịp 2/4.Nhịp thơ thay đổi do nhu cầu diễn tả trạng thái cảm xúc của nhân vật trữ tình.Từ Thân em tách ra riêng lẻ, như nhấn mạnh thêm nỗi tủi cực, nhỏ nhoi của thânphận bé nhỏ trước những biến động. Câu 8 sử dụng nhịp 4/4, ngắt đôi dòng thơnhư nhân thêm nỗi bấp bênh vô định, đầy trắc trở may rủi… mà người con gái phảiđối mặt.
Có thể nói thể lục bát là một yếu tốthi pháp quan trọng tạo nên nét đặc sắc của chùm ca dao này.
4. Tác giả dân gian đã sử dụng một sốthủ pháp nghệ thuật truyền thống trong xây dựng hình ảnh của ca dao. Nổi bật lànghệ thuật so sánh và ẩn dụ.
Nóilên ý thức về bản thân và sự trớ trêu của số phận, có lẽ không thủ pháp nào có khả năng diễn tả hay và thấmthía hơn nghệ thuật so sánh ở những câu ca dao này:
- Thân em như tấm lụa đào
- Thân em như củ ấu gai
Tathấy trong những câu ca dao trên, phép so sánh trực tiếp với từ so sánh "như" được sử dụng nhằm khẳng địnhnét tương đồng của các sự vật. Trong đó vế sau ( đối tượng so sánh) làm nổi bậtvế trước (vế được so sánh)
Ởđây, vế được so sánh: thân em
Đối tượng so sánh: tấm lụa đào, củ ấu gai…
Đốitượng so sánh cho thấy sự "tự ý thức: của về được so sánh (thân em - nhân vật tữ tình) . Nhân vậttrữ tình rất có ý thức về mình, nhận thức được vẻ đẹp, sự quý giá, trong sángvà cả sự yếu đuối của mình: tấm lụa đàovừa đẹp vừa sang, vừa quý giá nhưng cũng mỏng manh mềm yếu. Củ ấu gai thì vỏ ngoài thô nhám mộc mạc,nhưng ẩn chứa bên trong là sự thuần khiết ngọt lành… Người phụ nữ ở đây đã ýthức về bản thân mình như thế, chắc hẳn đều không phải những cô gái tầm thường,hời hợt… mà phải là sự tự ý thức của những người phụ nữa sâu sắc, chín chắn,giàu trải nghiệm…, những con người xứng đáng có được hạnh phúc.
Nhưng thực chất số phận của họ lại khôngđược như vậy, tính chất bi kịch cũng vì thế mà đậm nét hơn rất nhiều. Ở một ngườibình thường, không hạnh phúc đã là lâm vào nghịch cảnh, không thể có niềm vui.Ở một người có đầy đủ những tư chất tốt đẹp, lại luôn tự ý thức được giá trịcủa mình mà lại vấp phải những éo le haykhông được biết đến những giá trị cao quý ấy thì còn đau khổ đến đâu! Ý nghĩacủa biện pháp so sánh chính là để làm nổi bật những trạng thái cảm xúc khổ đaubuồn tủi như thế của nhân vật trữ tình.
Bằngnhững hình ảnh so sánh khác nhau, mỗi câu ca dao nói lên một tình cảnh khácnhau, một tâm sự khác nhau của người phụ nữ. Đó là cô gái đang âu lo trước"xa tắp đời mình" - không biết tương lai rồi sẽ ra sao. Câu hỏi tu từ"biết vào tay ai" cho thấythế bị động, phụ thuộc của cô gái trước việc hôn nhân trọng đại của đời mình.Cô gái không có quyền lựa chọn mà hạnh phúc lại nằm trong tay kẻ khác, đượcđịnh đoạt bằng may rủi, ngẫu nhiên hay "duyên số" theo cách nói củangười xưa. Duyên dáng dịu dàng, quý giá là thế, nhưng liệu ai có biết, có nângniu. Vào tay kẻ hiền nhân quân tử biết trọng, biết tiếc cái đẹp hay kẻ phàm phutục tử sẵn sàng giày xéo lên cái đẹp vốn mong manh bấy yếu? Hạnh phúc hay khổđau, không phải chủ động kiếm tìm được mà đầy may rủi giữa cuộc đời này. Đó làsự khiêm nhường mà cũng là niềm kiêu hãnh của cô gái khi nói về bản thân mìnhqua một lối so sánh đầy bất ngờ, táo bạo: "thân em như củ ấu gai…" Đọc đến đây, người đọc ngỡ như cô gáiquá khiêm tốn, ví mình như củ ấu giấu mình trong bùn đất, bé nhỏ, thậm chí xấuxí và quá đỗi bình thường! Câu sau là lời miêu tả thật thà không có chút"đánh bóng", "làm hàng": Bên trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen… Nhưng càng đọc, mỗi câu cadao lại cho ta một phát hiện mới mẻ, thú vị: tâm hồn dịu dàng, đằm thắm thiếttha qua lời mời nhẹ nhàng tình tứ, để dẫn đến kết luận cuối cùng: "Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi".Điểm nhấn của bài ca dao, điều mà nhân vật trữ tình muốn nói nằm cả trong câucuối này: lời khẳng định một cách tự tin, kiêu hãnh về giá trị bản thân, ngượclại với những gì bên ngoài dễ dàng nhìn thấy thô nhám và giản đơn là sự tinhtúy, ngọt ngào đầy sức sống. Đọc lại, đằng sau lời mời ấy ta vẫn cảm nhận vịđắng của nỗi xót xa: liệu có mấy ai hiểu được chân giá trị, khám phá được cáiđẹp tiềm ẩn bên trong để mà biết nâng niu, yêu quý? Hay chỉ coi đó là những vậttầm thường không thèm đếm xỉa? Nên lời mời cất lên ai oán, xa xót…
* Hệ thống câu hỏi được sử dụng khi tiến hành phân tích chùmca dao than thân mở đầu bằng từ "Thânem…" theo đặc điểm thi pháp thể loại:
1. Nhân vật trữ tình trong hai bài ca dao trên là ai? Điểmgiống nhau về mặt văn bản ở đây là gì? Từ nhân vật trữ tình có thể suy rộng rađối tượng được nói tới ở đây là ai?
2. Có người cho rằng hai bài ca dao có kết cấu theo lối đốiđáp. Em có đồng ý với ý kiến đó không? Vì sao?
3. Nếu sử dụng một thể thơ khác , không phải thơ lục bát,chùm ca dao trên sẽ mất đi sắc thái gì?
4. Thủ pháp nào được sử dụng trong chùm ca dao? Chỉ rõ hiệuquả nghệ thuật?
5. Sưu tầm những câu ca dao có chung kết cấu mở đầu bằng từ"thân em…"
PHẦN III. KẾTLUẬN
Trongphần phân tích trên, chúng ta đã sử dụng thao tác phân tích tác phẩm văn họcdân gian theo đặc trưng thi pháp thể loại . Với việc áp dụng đặc trưng thi phápca dao để phân tích chùm ca dao trên, tôi tin đã có thể khai thác những nét đặcsắc cơ bản về cả phương diện nội dung và nghệ thuật. Nói cách khác, đi từ đặctrưng thi pháp của thể loại ca dao, ta đã có thể thấy được hoàn cảnh, trạngthái cảm xúc… của nhân vật trữ tình: sự tự ý thức về giá trị của bản thân, sốphận đầy bất trắc, bấp bênh trong chế độ nam quyền dưới thời phong kiến. Từ đókhẳng định chất hiện thực và giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc của hai bài cadao.
Trên đâylà những ý kiến của người viết về vấn đề phân tích một đơn vị kiến thức cụ thểtrong nội dung một bài học, nhằm nâng cao hiệu quả khai thác kiến thức cho họcsinh khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu một cách khoa học gắn liền với Lí luận vănhọc. Cách làm này chắc chắn sẽ có tác dụng nâng cao được hiệu quả giảng dạy.
HẾT
DANH MỤC TÀILIỆU THAM KHẢO
1. SGK Ngữ văn 10 Nâng cao - Nxb GD- 2012
2. Văn học dân gian Việt Nam- Hoàng Tiến Tựu- GD- 1999
3. Ca dao trữ tình Việt Nam - Vũ Dung - GD- 1994
4. Đặc điểm thi pháp các thể loại văn học dân gian Việt Nam- GD- 1999
5. Những thế giới nghệ thuật ca dao- Phạm Thu Yến - GD- 1999
6. Văn học dân gian Việt Nam - Lê Chí Quế - GD- 1999