Phong trào Cần vương (1885 - 1896) - Học kì II- Năm học 2018-2019 - Đặng Thị Hiền
MỞ ĐẦU
Cần vương
mang nghĩa “giúp vua”. Trong lịch sử Việt Nam, trước thời nhà Nguyễn từng có
những lực lượng nhân danh giúp nhà vua phát sinh như thời Lê sơ, các cánh quân
hưởng ứng lời kêu gọi của vua Lê Chiêu Tông chống lại quyền thần Mạc Đăng Dung.
Tuy nhiên phong trào này không để lại nhiều dấu ấn và khi nhắc tới Cần Vương
thường được hiểu là phong trào chống Pháp xâm lược.
Phong trào
Cần Vương nổ ra vào cuối thế kỷ XX do đại thần nhà Nguyễn là Tôn Thất Thuyết
nhân danh vị hoàng đế trẻ Hàm Nghi đề xướng trước nạn xâm lược của thực dân
Pháp.
Phong trào
thu hút được một số các quan lại trong triều đình và văn thân. Ngoài ra, phong
trào còn thu hút đông đảo các tầng lớp sĩ phu yêu nước thời bấy giờ. Phong trào
Cần vương thực chất đã trở thành một hệ thống các cuộc khởi nghĩa vũ trang trên
khắp cả nước, hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, kéo dài từ 1885 cho
đến 1896.
Do đó, việc tìm hiểu các cuộc khởi nghĩa trong phong trào
Cần vương có vai trò quan trọng trong chương trình ôn học sinh giỏi các cấp.
Đặc biệt, trong kì thi chọn học sinh giỏi THHV hè năm 2019, chuyên đề “Phong trào Cần vương (1885 – 1896)” là
một trong những chuyên đề quan trọng được lựa chọn.
Ngoài ra, việc tìm hiểu chuyên đề “Phong trào Cần vương (1885 – 1896)” còn cung cấp thêm cho chúng tôi những kiến
thức lịch sử phong kiến Việt Nam thời phong kiến, làm tư liệu để dạy bài 36:
Phong trào chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX
(Chương trình Lịch sử 11 Nâng cao). Bên cạnh đó, việc hiểu rõ phong trào này
giúp chúng ta rút ra bài học quý báu cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi quyết định lựa chọn đề
tài “Phong trào Cần vương (1885 – 1896)” làm đề tài bồi dưỡng chuyên môn của bản
thân trong năm học 2018 - 2019.
NỘI DUNG CHUYÊN
ĐỀ
A.Các nội dung chính của Phong trào Cần vương
(1885 - 1896)
I.
Hoàn cảnh bùng nổ phong trào
Đối với thực
dân Pháp, việc ký Hiệp ước Patơnôt ngày 6-6-1884 đã chấm dứt giai đoạn xâm lược
ngót 30 năm. Nhưng cuộc kháng chiến của nhân dân ta vẫn còn âm ỉ trong hoàn
cảnh mới. Vả lại, thực dân Pháp mới chỉ xác lập được quyền lực ở trung ương,
còn phần lớn các địa phương ở xứ Bắc và Trung Kỳ chúng chưa thể nắm được. Vì
thế, thực dân Pháp còn phải trải qua giai đoạn 12 năm mà chúng gọi là giai đoạn
bình định, đàn áp các phong trào vũ trang cuối cùng.
Trong triều, phe chủ chiến
dù khó khăn, vẫn không nản chí. Vấn đề trước mắt họ là phải tìm ra một nhân vật
mà phái chủ chiến có thể khống chế được để đưa lên ngôi.
Vua Hàm Nghi (húy là Ưng
Lịch), được đưa lên ngôi tháng 8-1884, sớm tỏ ra có khí phách ngay trước mặt
tên Trú sứ Rây na (Rheinart) và các sĩ quan Pháp có mặt trong buổi lễ đăng
quang của mình tại kinh thành Huế.
Đại biểu cho phe chủ chiến
trong triều là Phan Đình Phùng, Ông Ích Khiêm, Trần Xuân Soạn... đứng đầu là
Tôn Thất Thuyết (1835 - 1913). Mặc dù có những điểm bất đồng trong chuyện phế
lập, nhưng phái chủ chiến và đa số hoàng tộc đã nhanh chóng thông qua kế hoạch
táo bạo đánh úp quân Pháp ở đồn Mang Cá và toàn bộ khu vực Kinh thành của Tôn
Thất Thuyết.
Lực lượng quân Pháp ở Huế
có tới 2300 tên do tướng Đờ Cuốc xy chỉ huy nhằm tiêu diệt lực lượng chủ chiến
của Tôn Thất Thuyết.
Nhưng phe chủ chiến đã
nhanh tay hơn. Đêm 4 rạng 5-7-1885, Tôn Thất Thuyết và Trần Xuân Soạn nổ súng
đánh úp đồn Mang Cá. Quân Pháp mất 4 sĩ quan và trên 60 lính. Nhưng do sự chuẩn
bị chưa đủ nên khi quân Pháp phản công, quân ta bị động, thiệt hại rất lớn. Tôn
Thất Thuyết phải đưa xa giá vua Hàm Nghi rời kinh thành, đi ra Quảng Trị mà từ
lâu ông đã cho chuẩn bị cơ sở.
Khi tới Tân Sở (Quảng Trị),
quân sĩ chỉ còn 500 người. Ngày 13-7-1885, Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương lần
thứ nhất, nêu lại sự kiện "sự biến Kinh thành", hô hào dân chúng phò
Vua cứu nước. Ngày 19-9-1885, khi Pháp vội vã đưa Đồng Khánh lên làm Vua bù
nhìn ở Huế, Hàm Nghi xuống chiếu lần thứ hai, bóc trần âm mưu của Pháp, cảnh
cáo thế lực đầu hàng của Đồng Khánh và nêu cao tính chính thống, chính nghĩa
của mình.
Quân Pháp đánh chiếm Quảng
Bình tháng 7-1885, Nghệ An tháng 8-1885, Quảng Nam tháng 12-1885 để bao vây
chặt lực lượng chủ chiến. Mặt khác, chúng ra sức khủng bố, mua chuộc những
người có liên quan đến sự kiện còn ở Kinh thành, tăng cường lực lượng ngụy
binh, tô vẽ cho triều đình Đồng Khánh vừa dựng lên một cách vội vã.
Ngày
13 tháng 7 1885, Tôn Thất Thuyết thay
mặt vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương. Nội dung:
+ Tố cáo âm mưu xâm lược
của TD Pháp
+ Tố cáo sự phản bội của 1
số quan lại TĐ
+ Tố cáo sự bất hợp tác
của Đồng Khánh
=> kêu gọi văn thân, sỹ
phu và nhân dân cả nước đứng lên giúp vua cứu nước.
* Ý nghĩa: Chiếu Cần Vương
thổi bùng lên ngọn lửa yêu nước trong ND, tạo thành PT vũ tranh chống Pháp sôi
nổi; kéo dài hơn 10 năm mới kết thúc.
II. Hai giai đoạn phát triển của phong trào
Cần Vương
1. Giai đoạn thứ nhất (1885 - 1888)
Lúc đầu, "Triều đình
Hàm Nghi" với sự phò tá của 2 người con Tôn Thất Thuyết là Tôn Thất Đàm và
Tôn Thất Thiệp, Đề đốc Lê Trực, Tri phủ Nguyễn Phạm Tuân di chuyển và chiến đấu
ở vùng rừng núi Quảng Bình; sau phải vượt Trường Sơn, qua đất Hạ Lào về vùng
sơn phòng Ấu Sơn (Hà Tĩnh). Đây là trang sử vẻ vang hiếm có của một ông vua yêu
nước khi dòng họ mình nói chung đã hàng giặc. Để chiến đấu lâu dài, Tôn Thất
Thuyết và Trần Xuân Soạn quyết định vượt vòng vây đi xây dựng lực lượng kháng
chiến ở Thanh Hoá, rồi qua Trung Quốc.
Tháng 12-1886, theo lệnh
Toàn quyền Pôn Be (P. Bert), Đồng Khánh xuống 1 dụ kêu hàng, nhưng không một ai
trong "Triều đình Hàm Nghi" chịu buông súng.
Ngược lại, chưa bao giờ cả
nước ta lại có nhiều cuộc khởi nghĩa đến như thế dưới ngọn cờ Cần Vương. Trong
giai đoạn đầu này, phong trào Cần Vương trải rộng từ địa bàn trung tâm ra Bắc
và Nam Kỳ. Ở Trung Kỳ, trước hết là Quảng Bình với Lê Trực, Nguyễn Phạm Tuân ;
Quảng Nam là Trần Quang Dự, Nguyễn Hàm, Nguyễn Duy Hiệu ; Quảng Ngãi là Lê
Trung Đình ; Bình Định là Mai Xuân Thưởng . .
Bắc Kỳ cũng có nhiều cuộc khởi nghĩa quan trọng như Đốc
Tít ở Đông Triều, Cai Kinh ở Bắc Giang, Nguyễn Quang Bích ở Tây Bắc...Đặc biệt,
xứ Bắc Kỳ cũng đang hình thành những cuộc khởi nghĩa có sức chiến đấu mạnh mẽ,
có tiếng vang như Tạ Hiện ở Thái Bình, Nam Định; Nguyễn Thiện Thuật ở Hưng Yên,
Hải Dương; Phạm Bành, Đinh Công Tráng ở Thanh Hóa; Lê Ninh, Phan Đình Phùng ở
Đức Thọ, Hương Khê (Hà Tĩnh)...
2. Giai đoạn thứ hai (1888- 1896)
Đêm 1-11-1888, vua
Hàm Nghi bị giặc bắt do sự phản bội của Trương Quang Ngọc tại vùng núi Tuyên
Hóa (Quảng Bình). Ông bị đày đi Angiêri.
Trong điều kiện ngày càng
khó khăn, số lượng các cuộc khởi nghĩa có giảm bớt, nhưng lại tập trung thành
những trung tâm kháng chiến lớn.
Tại Thanh Hóa, cứ điểm Ba
Đình bị san phẳng sau cuộc tiến công dài ngày đầu tháng 1-1887 của 3000 quân
Pháp. Phạm Bành, Đinh Công Tráng mở đường máu về căn cứ Mã Cao (Yên Định) theo
kế hoạch đã định. Họ đã chiến đấu ở Mã Cao nhiều tháng trời, thắng nhiều trận
đáng kể và chỉ rút lui khi Mã Cao bị vỡ vào mùa thu 1887.
Nhưng dưới sự lãnh đạo của
Tống Duy Tân ở Vĩnh Lộc và sự trợ giúp của các thủ lĩnh người Thái là Cầm Bá
Thước, người Mường là Hà Văn Mao, ngọn lửa Ba Đình lại được thổi lên, gọi là
khởi nghĩa Hùng Lĩnh, kéo dài tới năm 1892.
Cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy của
Nguyễn Thiện Thuật nổ ra từ năm 1885, với lối đánh du kích, biến hóa phân tán,
dựa vào thiên nhiên của nghĩa quân Bãi Sậy, tuy không có những trận đánh lớn
như ở Ba Đình nhưng cũng gây cho quân Pháp nhiều tổn thất.
Cuộc khởi nghĩa lớn nhất,
kéo dài suốt thời Cần Vương là khởi nghĩa Hương Khê. Kế thừa cuộc khởi nghĩa
đầu tiên của Lê Ninh ở Đức Thọ, Hà Tĩnh, Tiến sĩ Phan Đình Phùng với sự trợ
giúp của Cao Thắng, Ngô Quảng, Cao Đạt, Hà Văn Mỹ, Nguyễn Chanh, Nguyễn
Trạch... đã đưa cuộc khởi nghĩa này lên tầm vóc lớn nhất, độc đáo nhất thời Cần
Vương.
Phan Đình Phùng đã chia địa
bàn 4 tỉnh: Thanh, Nghệ, Tĩnh, Bình thành 15 quân thứ, xây dựng những chiến
tuyến cố định, mạnh (Cồn Chùa, Thượng Bồng - Hạ Bồng, Trùng Khê - Trí Khê, Vụ
Quang) kết hợp lối đánh du kích với lối đánh lớn chiến tuyến cố định, cuộc khởi
nghĩa Hương Khê đã gây cho quân Pháp nhiều tổn thất. Phó tướng Cao Thắng, hy
sinh lúc mới 30 tuổi là người có tài chế súng theo kiểu năm 1874 của Pháp. Thực
dân Pháp phải huy động một lực lượng quân sự lớn, không kể cả 3000 ngụy quân
của Nguyễn Thân, vượt xa cả quân số, vũ khí khi chúng tấn công thành Ba Đình.
Những chiến thắng của Phan Đình Phùng như trận đánh úp thành Hà Tĩnh, bắt sống
Tri phủ Đinh Nho Quang 1892, trận Vạn Sơn tháng 3-1893, trận tập kích Hà Tĩnh
lần thứ hai năm 1894 và trận Vụ Quang tháng 10-1894 được là một thành tựu của
nghệ thuật quân sự Việt Nam lúc đó.
Phan Đình Phùng tạ thế ở
núi Quạt (Hà Tĩnh) ngày 28-12-1895 để lại bài thơ Tuyệt mệnh vào loại xuất sắc
trong văn học cận đại. 23 bộ tướng của ông cũng bị giặc Pháp bắt và xử tử tại
Huế. Đầu năm 1896, những tiếng súng cuối cùng của phong trào Cần Vương chấm
dứt.
Phong trào Cần Vương cuối
thế kỷ XIX là phong trào dân tộc, phong trào yêu nước chống chủ nghĩa thực dân
xâm lược kết hợp với chống triều đình phong kiến đầu hàng đã diễn ra sôi nổi,
rộng khắp. Phong trào tuy thất bại nhưng đã tô thắm thêm truyền thống anh hùng,
bất khuất của dân tộc Việt Nam.
III.
CÁC CUỘC KHỞI NGHĨA TIÊU BIỂU
1. Khởi Nghĩa Bãi Sậy
Là một trong các cuộc khởi nghĩa của phong trào Cần Vương cuối thế kỷ 19 của
nhân dân Việt Nam chống
lại ách đô hộ của thực dân Pháp, diễn ra vào năm 1883-1892 tại Bãi Sậy thuộc
huyện Văn Giang, Khoái Châu và Mỹ Hào thuộc
tỉnhHưng Yên[1] dưới
sự lãnh đạo của Nguyễn Thiện Thuật.
b. Trước chiếu Cần vương
Sau khi đánh chiếm Nam Kỳ, người Pháp tiến
quân ra bắc và tiếp tục đánh chiếm đượcBắc Kỳ của Việt Nam. Nhà Nguyễn hạ
lệnh các cánh quân chống Pháp hạ vũ khí, Nguyễn Thiện Thuật kháng lệnh triều
đình, quyết tâm đánh Pháp. Ông về Đông Triều mộ quân, hợp lực với tướng quân Cờ Đen là Lưu Vĩnh Phúc chống Pháp. Ông liên lạc với Đinh Gia
Quế phát triển lực
lượng ở vùng đồng bằng, tập hợp được nhiều tướng như Nguyễn Thiện Kế, Nguyễn
Thiện Dương (Lãnh Giang), Đốc Tít, Đốc Cọp, Đốc Sung, Đề Ban, Đội Văn, Đề Tính,
bà Đốc Huệ và các nhà nho Ngô Quang Huy, Nguyễn Hữu Đức tham gia.
Cuối năm 1883, sau khi ký Hiệp
ước Harmand, nhà Nguyễn ra lệnh bãi binh đợi chỉ dụ. Nguyễn Thiện
Thuật không nghe theo, mang quân lên Tuyên Quang cùng
với Nguyễn Quang Bích giữ thành. Sau khi các thành Hưng Hóa và Lạng
Sơn thất thủ, Nguyễn
Thiện Thuật chạy sang Long Châu (Trung Quốc) chuẩn bị lực lượng tiếp tục chiến
đấu.
c. Hưởng ứng chiếu Cần
vương
Sau cuộc tấn công ở kinh thành
Huế thất bại, Tôn Thất Thuyết mang vua Hàm Nghi chạy ra ngoài. Tháng
7 năm 1885, vua Hàm Nghi hạ
chiếu Cần Vương. Nguyễn Thiện Thuật trở về nước, thành lập căn cứ địa Bãi Sậy
do Đồng Quế trao lại. Vua Hàm Nghiphong cho ông làm Bắc Kỳ hiệp thống quân
vụ đại thần, gia trấn Trung tướng quân, nên nhân dân còn gọi ông là quan Hiệp
thống. Dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Thiện Thuật, khởi nghĩa Bãi Sậy lan ra khắp
tỉnh Hưng Yên và
một số tỉnh lân cận.
Tháng 9 năm 1885 nghĩa quân vượt sông Hồng sang
đánh phá các huyện Thanh Trì,Thường Tín, Phú Xuyên, Ứng Hòa[2]. Đêm 28 rạng ngày 29 tháng 9, quân Bãi
Sậy tấn công thành
Hải Dương, quân Pháp phải điều hai pháo hạm tuần tiễu trên sông Thái Bìnhđể
bảo vệ.
Tháng 10 năm
1885 Thống tướng Roussel
de Courcy giao cho
thiếu tướng François
de Négrier, trung tá Donnier cùng Hoàng Cao Khải mở cuộc càn quét lớn vào căn cứ Bãi
Sậy. Được tin, Nguyễn Thiện Thuật lệnh cho các tướng bí mật tấn công vào các
đồn địch, chặn đường địch hành quân. Sau đó, ông nhử địch vào sâu căn cứ nơi
đặt trận địa mai phục. Khi quân Pháp biết bị mắc lừa định rút lui thì quân Bãi
Sậy nổ súng và dùngđoản đao, mã tấu đánh
giáp lá cà. Nhiều quân Pháp bị giết, tướng Négrier chạy thoát.
Thống tướng De Coursy bị bãi chức, Charles-Auguste-Louis Warnet sang thay. Warnet thực hiện càn quét
quy mô lớn bằng chiến lược phân tán quân đội, lập các đồn nhỏ để dễ tuần tiễu,
đồng thời chuyển chế độ cai trị bằng quân sự sang dân sự, nhưng cũng không
thành công.
Ngày 9 tháng 2 năm 1888, em Nguyễn Thiện Thuật
là Nguyễn Thiện Dương bị tử trận trong cuộc đụng độ với quân Pháp do viên đội
Fillipe chỉ huy. Được tin em chết, ngay đêm đó Nguyễn Thiện Thuật lệnh cho Tuần
Vân, Đề Tính tấn công đồn Ghênh và đồn Bần Yên Nhân để trả thù, giết chết 21
quân địch.
Ngày 11 tháng 11 năm 1888, Hoàng Cao Khải cùng
giám binh Ney chỉ huy đồn Mỹ Hào đưa lính về gặt lúa ở Liêu Trung tổng Liêu Xá,
muốn buộc dân hết lương phải ra đầu thú, xa rời quân Bãi Sậy. Nguyễn Thiện
Thuật được tin, lệnh cho các tướng Nguyễn Thiện Kế, Nguyễn
Văn Sung, Vũ Văn
Đồng đem 800 quân
trong đó có 400 tay súng giả dạng phu gặt để phục kích. Quân Bãi Sậy nổ súng
giết chết 31 quân địch, trong đó có giám binh Ney, Bang tá Nguyễn Hữu Hào.
Hoàng Cao Khải trốn thoát về Mỹ Hào rồi nhờ giáo dân Kẻ Sặt đưa đường chạy về
Hải Dương.
Tháng 6 năm 1889, Thống
sứ Bắc Kỳ ra lệnh
thành lập đạo quân Tuần cảnh do Hoàng Cao Khải với chức Khâm
sai Bắc Kỳ làm Tư lệnh
trưởng, Muselier làm Cảnh sát sứ. Quân Bãi Sậy giao chiến quân Tuần cảnh suốt 8
tháng, gây cho địch khá nhiều thiệt hại. Trận Đông Nhu, quân Bãi Sậy giết viên
quản khố xanh Leglée; ngày 24 tháng 7 giết chết viên quản khố xanh Escot ở làng
Hoàng Vân. Ngày 18 tháng 10 Nguyễn Thiện Thuật bắn viên quản Montillon bị trọng
thương. Ngày 11/4/1891 quân của Hai Kế và Đề Vinh bị vây ở Mậu Duyệt,
hai bên bắn nhau, viên quản Desmot bị giết, giám binh Lambeet bị thương.
Nhiều lần không thắng được, người Pháp phải
tặng Nguyễn Thiện Thuật danh hiệu “Vua Bãi Sậy”.
d. Thoái trào
Từ sau khi vua Hàm Nghi bị bắt (1888) và lưu
đày ở châu Phi, phong trào Cần vương bắt đầu suy yếu. Sức mạnh của quân Bãi Sậy
cũng suy yếu dần. Quân Pháp thiết lập được nhiều đồn quanh căn cứ Bãi Sậy, các
tướng Lãnh Điều, Lãnh Lộ, Lãnh Ngữ, Đề Tính cùng một số tướng lĩnh khác tử
trận, số còn lại bị truy kích. Hoàng Cao Khải nhân danh vua Đồng Khánh chiêu dụ Nguyễn Thiện Thuật ra hàng và
hứa khôi phục chức tước. Ông đã viết vào tờ sớ dụ này 4 chữ “Bất khẳng thụ chỉ”
(Không chịu nhận chỉ). Sau đó, ông giao quyền cho em là Nguyễn Thiện Kế rồi
sang Trung Quốc mưu tính cuộc vận động mới.
Cuộc chiến đấu
của quân Bãi Sậy còn kéo dài đến năm 1892 mới chấm dứt. Những cuộc mưu tính của
Nguyễn Thiện Thuật ở Trung Quốc không thành, ông không tiếp tục được việc chống
Pháp tại Việt Nam. Sau đó ông lâm bệnh mất tại Trung Quốc năm 1926.
2. Khởi nghĩa Ba Đình
Lực
lượng: nghĩa quân Ba Đình gồm khoảng 300 người, tuyển từ ba làng và các
vùng Thanh Hóa, bao gồm cảngười Kinh, Thái, Mường. Nghĩa quân có 10 toán, mỗi
toán có một hiệp quản chỉ huy. Về vũ khí, nghĩa quân tựtrang bị bằng súng hỏa mai, giáo mác, cung nỏ.
Căn cứ:
a. Mô tả :
Căn cứ này
gọi là Ba Đình vì mỗi làng có một cái đình, từ làng này có thể nhìn thấy đình
của hai làng kia.Để chuẩn bị chiến đấu lâu
dài, Đinh Công Tráng đã cho bao bọc xung quanh căn cứ là lũy tre dày đặc và một
hệ thống hào rộng, cắm đầy chông tre. Ở trong là một lớp thành đất cao 3m, chân rộng 8 đến 10m.
Trên mặt thành, nghĩa quân đặt các rọ tre chứa đất nhào rơm xếp vững chắc có những khe hở làm lỗ châu mai sẵn sàng chiến đấu.Thành rộng 400 m, dài 1.200 m.
Phía trong thành có hệ thống giao thông hào dùng để vận chuyển lương thực vàvận động khi chiến đấu. Ở những nơi xung yếu đều có công sự
vững chắc. Các hầm chiến đấu được xây dựng theohình chữ “chi”, nhằm hạn chế
thương vong.Ở mỗi làng, tại vị trí ngôi đình
được xây dựng một đồn đóng quân. Ở Thượng Thọ có đồn Thượng, ở Mậu Thịnhcó
đồn Trung và ở Mỹ Khê có đồn Hạ. Ba đồn này có thể hỗ trợ tác chiến cho nhau
khi bị tấn công, đồng thời cũngcó thể chiến đấu độc lập. Có thể nói rằng căn cứ
Ba Đình có vị trí tiêu biểu nhất, là một chiến tuyến phòng ngự quy mô nhất thời kỳ Cần Vương cuối thế kỷ 19.
Ngoài Ba
Đình, còn có các căn cứ hỗ trợ: căn cứ Phi Lai của Tống Duy Tân và Cao Điển, căn cứ Quảng Hóa củaTrần Xuân Soạn, căn cứ Mã
Cao của Hà Văn Mao.Từ Ba Đình, nghĩa quân có thể tỏa đi các nơi,
kiểm soát các tuyến giao thông quan trọng trong vùng, tổ chức phụckích các đoàn xe vận tải của đối phương đi lại
trên con đường Bắc-Nam...Chính vì vậy, mà quân Pháp rất quyết tâm tiêu diệt
cuộc khởi nghĩa.
Vào mùa mưa, căn cứ này trông như một hòn đảo
nổi giữa cánh đồng nước mênh mông, tách biệt với các làng khác.
b. Điểm mạnh
Căn cứ xây dựng kiên cố, độc đáo, khó tiếp cận, có các vị trí thuận
lợi cho việc kiểm soát các tuyến giao thông.- Sức sáng tạo to lớn của nghĩa
quân trong lối đánh chiến tuyến (Chính Pháp phải thừa nhận: “Bên trong Ba Đình khiến chúng tôi hết sức ngạc nhiên và chứng tỏ
thành đã được xây dựng với một kĩ thuật cao. Đường công sự có thể đánh xiên
cạnh sườn bất cứ chỗ nào, và mỗi làng trong ba làng đều có công sự bố trí khéo để nếu hai làng bịchiếm thì làng kia vẫn là một pháo đài chiến đấu”)
b. Điểm yếu: dễ bị cô lập, dễ bị bao
vây, không thể dùng chiến thuật, chỉ có thể áp dụng lối đánh chiến tuyến mà thôi
c.Nguyên nhân thất bại:
Mặc dù nghĩa quân đã chiến đấu dũng cảm, nhưng khởi nghĩa thất bại
do còn thiếunhiều điều kiện: tổ chức chưa chu đáo, đường lối lãnh đạo chưa đúng
đắn, tương quan lực lượng chênh lệch.
d.Bài học kinh nghiệm:
Cần biết lợi dụng địa hình địa
vật, tránh thủ hiểm một nơi, thực hiện chiến tranh du kích, liên hệ với các
cuộc khởi nghĩa khác, mở rộng thành một cuộc kháng chiến toàn dân.
3. Khởi nghĩa Hương Khê
Khởi nghĩa hưởng ứng chiếu
Cần vương, có quy mô lớn, tổ chức chặt chẽ, do Phan Đình Phùng và Cao Thắng
lãnh đạo.
Đây là cuộc khởi nghĩa có
quy mô lớn nhất, độc đáo nhất và kéo dài nhất trong phong trào Cần Vương cuối
thế kỷ XIX. Cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng lãnh đạo với sự trợ giúp của Cao
Thắng, Ngô Quảng, Cao Đạt, Hà Văn Mỹ, Nguyễn Chanh, Nguyễn Trạch…
Địa bàn hoạt động của nghĩa
quân bao gồm 4 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, trong đó địa bàn
chính vẫn là Nghệ An - Hà Tĩnh.
Phan Đình Phùng đã chia địa
bàn 4 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình thành 15 quân thứ, xây dựng
những chiến tuyến cố định, mạnh kết hợp lối đánh du kích với lối đánh lớn
chuyến tuyến cố định, cuộc khởi nghĩa Hương Khê đã gây cho Pháp nhiều tổn thất
lớn. Những chiến thắng của Phan Đình Phùng như: trận đánh úp thành Hà Tĩnh, bắt
sống Tri phủ Đinh Nho Quang 1892, trận Vạn Sơn tháng 3-1893, trận tập kích Hà
Tĩnh lần thứ hai năm 1894 và trận Vụ Quang tháng 10-1894 được coi là một thành
tựu của nghệ thuật quân sự Việt Nam lúc đó.
Phó tướng Cao Thắng, là
người có tài chế súng theo kiểu năm 1874 của Pháp (Quân khởi nghĩa tự chế được
trên 500 súng hoả mai và súng trường) . Thực dân Pháp phải huy động một lực
lượng quân đội lớn, với nhiều vũ khí hiện đại chúng tấn công thành Ba Đình. Cao
Thắng hy sinh lúc mới 30 tuổi. Phan Đình Phùng tạ thế ở núi Quạt (Hà Tĩnh) ngày
28-12-1895. 23 bộ tướng của ông cũng bị giặc Pháp bắt và sử tử tại Huế.
Đầu năm 1896, những tiếng
súng cuối cùng của phong trào Cần Vương cũng kết thúc.
IV.
NGUYÊN NHÂN THẤT BẠI, Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CHỐNG PHÁP CUỐI
THẾ KỶ XIX
1. Nguyên nhân thất bại
Tính chất địa
phương: sự thất bại của phong trào Cần Vương có nguyên nhân từ sự kháng cự chỉ
có tính chất địa phương. Các phong trào chưa quy tụ, tập hợp thành một khối
thống nhất đủ mạnh để chống Pháp. Các lãnh tụ Cần Vương chỉ có uy tín tại nơi
họ xuất thân, tinh thần địa phương mạnh mẽ làm họ chống lại mọi sự thống nhất
phong trào trên quy mô lớn hơn. Khi các lãnh tụ bị bắt hay chết thì quân của họ
hoặc giải tán hay đầu hàng.
Quan hệ với
dân chúng: các đạo quân này không được lòng dân quê nhiều lắm bởi để có phương
tiện sống và duy trì chiến đấu, họ phải đi cướp phá dân chúng.
Mâu thuẫn với
tôn giáo: sự tàn sát vô cớ những người Công giáo của quân Cần Vương khiến giáo
dân phải tự vệ bằng cách thông báo tin tức cho phía Pháp. Những thống kê của
người Pháp cho biết có hơn 20.000 giáo dân đã bị quân Cần Vương giết hại.
Mâu thuẫn sắc
tộc: Chính sách sa thải các quan chức Việt và cho các dân tộc thiểu số được
quyền tự trị rộng rãi cũng làm cho các sắc dân này đứng về phía Pháp. Chính
người Thượng đã bắt Hàm Nghi, các bộ lạc Thái, Mán, Mèo, Nùng, Thổ đều đã cắt
đường liên lạc của quân Cần Vương với Trung Hoa làm cạn nguồn khí giới của họ.
Quen thuộc rừng núi, họ cũng giúp quân Pháp chiến tranh phản du kích đầy hiệu
quả.
Theo Đào Duy
Anh, ngoài việc thiếu liên kết và thống nhất về tổ chức (tương tự như
"tính chất địa phương" mà Nguyễn Thế Anh phản ánh), phong trào Cần
Vương còn có những nguyên nhân thất bại khác:
Nền sản xuất
lạc hậu, kém phát triển làm nền tảng, vì vậy vũ khí thô sơ không thể chống lại
vũ khí hiện đại của Pháp.
Lực lượng và
chiến thuật: các cuộc khởi nghĩa không đủ mạnh, chỉ có thể tấn công vào những
chỗ yếu, sơ hở của địch; không đủ khả năng thực hiện chiến tranh trực diện với
lực lượng chính quy của địch
Tinh thần
chiến đấu: Ngoại trừ một số thủ lĩnh có tinh thần chiến đấu đến cùng và chết vì
nước, không ít thủ lĩnh quân khởi nghĩa nhanh chóng buông vũ khí đầu hàng khi
tương quan lực lượng bắt đầu bất lợi cho quân khởi nghĩa, khiến phong trào
nhanh chóng suy yếu và tan rã.
2. Đánh giá phong trào Cần vương (đặc
điểm).
- Tính chất: Căn cứ vào
thành phần lãnh đạo, lực lượng tham gia, mục tiêu và hỡnh thức đấu tranh:
+ Lãnh
đạo chủ yếu là văn thân sĩ phu yêu nước, ngoài ra có một số là thổ hào,
nông dân;
+ Lực
lượng tham gia gồm đông đảo nông dân;
+ Mục
tiêu : chống thực dân Pháp xâm lược, chống giai cấp phong kiến đầu
hàng, lập lại chế độ phong kiến độc lập;
+ Hình
thức là khởi nghĩa vũ trang.
=> Đây
là phong trào yêu nước trên lập trường phong kiến.
3. Ý nghĩa lịch sử
Tiếp
nối truyền thống yêu nước của dân tộc. Chứng tỏ sự phá sản của con đường cứu
nước theo ngọn cờ phong kiến. Tạo tiền đề cho phong trào kháng Pháp
ở giai đoạn sau.
B.
MỘT SỐ CÂU HỎI LUYỆN TẬP
Câu 1: Hoàn cảnh dẫn đến sự bùng nổ của phong trào
Cần Vương? Theo em, chiếu Cần Vương đã ảnh hưởng như thế nào đến bộ phận văn
thân, sỹ phu yêu nước và nhân dân ta?
Trả lời:
a.Hoàn cảnh dẫn đến sự bùng nổ của phong trào Cần Vương:
-
Sau Hiệp ước Pa tơ nốt( 1884), nhân dân đấu tranh rất mạnh mẽ chống cả pháp lẫn
triều đình phong kiến đầu hàng. Thực dân Pháp tăng cường lực lượng, siết chặt
bộ máy kìm kẹp để ổn định tình hình,
triệt hạ các trung tâm kháng Pháp của
nhân dân ta.
-
Phái chủ chiến trong triều đứng đầu là Tôn Thất Thuyết ra sức chuẩn bị lực
lượng kháng chiến: phế bỏ những ông vua có khuynh hướng thân Pháp, đưa Ưng Lịch
lên làm vua hiệu là Hàm nghi; chuẩn bị lực lượng (bí mật liên kết với sĩ phu,
văn thân, hào kiệt các nơi, chuyển vũ khí, lương thực, vàng bạc lên các sơn
phòng dọc Trường Sơn.
-
Thực dân Pháp rất lo lắng, chúng khiêu khích và tìm cách trừ khử phe chủ
chiến.Tình thế cấp bách buộc Tôn Thất Thuyết phải hành động bằng cách tổ chức
cuộc phản công kinh thành Huế (đêm mùng
4 rạng ngày 5/7/1885), cuộc phản
công thất bại, Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi lên Tân Sở (Quảng Trị).
-
Ngày 13 tháng 7 1885, Tôn Thất Thuyết
thay mặt vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương kêu gọi văn thân,
sỹ phu và nhân dân cả nước đứng lên giúp vua cứu nước…
b.Chiếu Cần Vương đã ảnh hưởng đến giới văn thân và sỹ phu yêu nước là:
-
Đây là bộ phận trí thức phong kiến, nặng tư tưởng “trung quân ái quốc”, trước
khi có chiếu Cần Vương, họ bị giằng xé trong mối mẫu thuẫn giữa “trung quân” và
“ ái quốc”…
Khi
chiếu cần Vương ra đời, mâu thuẫn trong lòng họ được giải tỏa, lúc này yêu nước
đồng nghĩa với giúp vua cứu nước nên họ rất hăng hái tham gia phong trào…
-Với nhân dân:
Nhân dân không bị ràng buộc nhiều với tư tưởng
quan điểm phong kiến nhưng lòng yêu nước rất nồng nàn, họ sẵn sàng đứng lên đấu
tranh chống Pháp ngay cả khi triều đình không tổ chức, kêu gọi. Thậm chí, họ
còn “
chống cả Triều lẫn Tây” khi triều đình đầu hàng, nhưng khi có chiếu Cần
Vương, họ có điều kiện được tập hợp đông
đảo hơn, nên tham gia nhiệt tình hơn, sáng tạo hơn, sôi nổi hơn…
Câu 2: Nguyên
nhân bùng nổ, nguyên nhân thất bại, tính chất, ý nghĩa lịch sử của phong trào
Cần vương.
Trả lời:
a. Nguyên nhân bùng nổ.
- Tình hình thực
dân Pháp: Hoàn thành cơ bản cuộc xâm
lược Việt Nam. Khó khăn: sự kháng cự của một số quan lại, văn thân sĩ phu, nhân
dân... Hoạt động của phe chủ chiến…Âm mưu của thực dân Pháp tỡm cỏch loại phe
chủ chiến ra khỏi triều đỡnh.
- Đêm 4 rạng ngày
5-7 -1885, phe chủ chiến tấn công...sáng 5 -7, quân Pháp phản công...Tôn Thất
Thuyết đưa vua Hàm Nghi ra sơn phũng Tõn Sở, tại đây, ngày 13 - 7 - 1885, Tôn Thất Thuyết lấy danh nghĩa vua
Hàm Nghi xuống chiếu Cần vương kêu gọi văn thân sĩ phu và nhân dân cả nước đứng
lên vì vua mà kháng chiến.
Chiếu Cần vương đã giúp các văn
thân sĩ phu không còn mâu thuẫn trong tư tưởng giữa “ trung quân” và “ ái quốc”
nên họ hưởng ứng đông đảo,tập hợp nhân dân tạo thành phong trào đấu tranh vũ
trang chống Pháp mạnh mẽ, kéo dài hơn 10 năm cuối thế kỉ XIX.
b. Nguyên nhân thất bại : Bộ phận lãnh đạo do hạn chế về giai cấp và thời đại nên đã không quan
tâm bồi dưỡng lực lượng nông dân tạo sức mạnh chiến đấu lâu dài; chiến thuật
nặng về thủ hiểm, không có sự liên kết giữa các cuộc khởi nghĩa. Thực dân Pháp
đã củng cố được nền thống trị của chúng ở Việt Nam, tương quan lực lượng chênh
lệch.
c. Tính chất:
Căn cứ vào thành phần lãnh đạo,
lực lượng tham gia, mục tiêu và hình thức đấu tranh: Lãnh đạo chủ yếu là văn
thân sĩ phu yêu nước, lực lượng
tham gia gồm đông đảo nông dân; mục tiêu : chống thực dân Pháp xâm lược, chống
giai cấp phong kiến đầu hàng, lập lại chế độ phong kiến độc lập; hình thức là
khởi nghĩa vũ trang. Đây là phong trào yêu nước trên lập trường
phong kiến.
d. ý nghĩa:
Tiếp nối truyền thống yêu nước của dân tộc. Chứng tỏ sự phá sản của con đường
cứu nước theo ngọn cờ phong kiến. Tạo tiền đề cho phong trào kháng Pháp ở giai
đoạn sau.
Câu 3: Lập bảng so sánh 2 giai đoạn của
phong trào Cần vương
Trả lời:
Nội dung
|
Giai đoạn I - Cần vương
có vua (1885 - 1888).
|
Giai đoạn II - Cần vương
không vua (1888 - 1896).
|
Lãnh đạo
|
- Phong trào đặt dưới
sự chỉ huy thống nhất đến một trình độ
nhất định của triều đình kháng chiến.
- Văn thân, sĩ phu lãnh
đạo; có một số người tài giỏi xuất thân từ nông dân tham gia lãnh đạo.
|
- Không còn sự lãnh đạo
của triều đình kháng chiến.
- Văn thân, sĩ phu lãnh
đạo; có một số người tài giỏi xuất thân từ nông dân tham gia lãnh đạo.
|
Lực lượng
|
Nông dân miền xuôi và
đồng bào các dân tộc miền núi .
|
Nông dân miền xuôi và
đồng bào các dân tộc miền núi .
|
Địa bàn hoạt động
|
Rộng lớn: chủ yếu ở Bắc
Kỳ và Trung Kỳ
|
Phát triển theo chiều
sâu: thu hẹp ở miền đồng bằng, các trung tâm chuyển dần lên miền núi và trung
du, dựa vào địa thế hiểm trở để kháng cự lâu dài.
|
KN tiêu biểu
|
Mai Xuân Thưởng (Bình
Định), Hoàng Đình Kinh (Bắc Giang); Nguyễn Thiệt Thuật (Hưng Yên).
|
Tống Duy Tân. Cao Điển,
Phan Đình Phùng, Cao Thắng (Hà Tĩnh)
|
Diễn biến chính
|
- Giặc Pháp truy lùng, o
ép, Tôn Thất Thuyết phải đưa vua Hàm Nghi ra sơn phòng Phú Gia ( Hà Tĩnh).
- 11 - 1888, vua Hàm
Nghi bị
thực dân Pháp bắt và lưu
đày sang Angieri.
|
- Khởi nghĩa Hùng Lĩnh,
Hương Khê giành một số thắng lợi vang
dội.
- Đầu 1896, phong trào
bị dập tắt. PT coi như chấm dứt
|
Câu 4: Lập bảng các cuộc khởi nghĩa trong phong trào
Cần vương theo tiêu chí: Lãnh đạo, địa bàn, Diễn biến chính, Kết quả, nhận xét.
Trả lời:
Tên KN
|
Lãnh đạo
|
Địa bàn
|
Diễn biến chính
|
Kết quả
|
Nhận xét
|
KN Bãi Sậy (1883 - 1892)
|
Nguyễn Thiện Thuật
|
- Bãi Sậy (Hưng Yên)
- Hai Sông
|
- 1885 – 1887, XD căn cứ, bẻ gẫy nhiều đợt tấn công.
- 1888, cuộc chiến đấu quyết liệt, tiêu diệt một bộ phận sinh lực
địch; vận động binh lính về với gia đình.
|
- căn cứ Hai Sông bị bao vây. 1892, PT thất bại
|
- Điểm mạnh: thể hiện lòng yêu nước, có tính nhân dân sâu sắc,
lòng dũng cảm.
|
KN Ba Đình (1886 - 1887)
|
Phạm Bành, Đinh Công Tráng
|
Thanh Hoá
|
- XD căn cứ chính (Ba Đình)
- Chặn đánh các đoàn xe tải Pháp trên đường hành quân, gây nhiều
tiệt hại.
- Pháp tổ chức nhiều đợt tấn công nhưng thất bại.
|
1/1887, toàn bộ căn cứ Ba Đình bị Pháp chiếm.
|
- Điểm mạnh: thể hiện tính nhân dân sâu sắc, lòng yêu nước.
- Điểm yếu” thiên về thế bị động, không có sự liên kết.
|
KN Hương Khê (1885 -
1896)
|
Phan Đình Phùng
|
- Hương Khê (Hà Tĩnh) – 1 nơi hiểm
Sông Ngàn Phố, Ngàn Sâu. Phía Bắc ra được Thanh Hoá, HB.
Phía Nam ra Quảng Bình, Quảng Trị, TT Huế.
Phía Tây sang Lào và CPC.
Đại bản doanh ở Ngàn Trươi
|
- 1885 – 1888: XD LL cơ sở, chế tạo sung trường (1874).
- 1888 – 1896: chiến đấu quyết liệt. 1889, mở nhiều cuộc tập kích,
tiêu diệt nhiều sinh lực địch.
|
- 1892, Cao Thắng hi sinh.
- 1895, PĐP trúng đạn và thương nặng, hi sinh.
- 1896, thủ lĩnh cuối cùng bị Pháp bắt. KN thất bại.
|
- Điểm mạnh: địa bàn HĐ rộng lớn, chế tạo được sung trường, chủ
động tấn công quân Pháp, giành nhiều thắng lợi.
- Điểm yếu: chưa có sự liên kết LL với các cuộc KN khác chống
Pháp; hạn chế về đường lối, PP tổ chức và lãnh đạo.
|
Câu 5: Trình
bày một cuộc khởi nghĩa mà em cho là tiêu biểu nhất trong phong trào Cần Vương?
Ý nghĩa của phong trào đó?
Trả lời:
a. Cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất phong trào Cần Vương: KN Hương Khê (1885 - 1896).
* Căn cứ: Huyện Hương Khê - miền núi phía Tây tỉnh Hà Tĩnh;
giáp 4 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình.
* Lãnh đạo: Phan Đình Phùng xây dựng căn cứ ở vùng núi thuộc 2
huyện Hương Sơn, Hương Khê (Hà Tĩnh), sau đó ra Bắc, giao cho Cao Thắng tổ chức
và xây dựng phong trào ở Nghệ - Tĩnh.
* Hoạt động:
- Giai đoạn 1885 -> 1888: Chuẩn
bị, xây dựng lực lượng và cơ sở chiến đấu của nghĩa quân.
+ Đầu năm 1887, Phan Đình Phùng giao quyền chỉ huy cho Cao Thắng để ra Bắc
liên kết lực lượng...
+ Cao Thắng: Tuyển lựa, huấn luyện nghĩa quân, sắm sửa khí giới, xây dựng
công sự trong vùng rừng núi; chú trọng phối hợp với các toán nghĩa quân khác,
vận động nhân dân tham gia khởi nghĩa; chế tạo súng trường theo mẫu của Pháp.
- Giai đoạn 1888 - >1895: Thời kì
chiến đấu quyết liệt của nghĩa quân.
+ Cuối tháng 9/1889, Phan Đình Phùng trở về Hà Tĩnh, cùng Cao Thắng trực
tiếp lãnh đạo khởi nghĩa; mở rộng địa bàn hoạt động ra 4 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ
An, Hà Tĩnh, Quảng Bình.
+ Nghĩa quân chia thành 15 quân thứ (100 -> 500 nghĩa binh trên một quân
thứ). Đại bản doanh ở núi Vụ Quang (từ đây có thể theo đường núi vào Quảng
Bình, Quảng Trị, ra Nghệ An, Thanh Hóa hay có thể theo đường sông đi xuống đồng
bằng, có thể lánh sang Lào và các căn cứ khác).
+ Từ 1889 –> 1892, nghĩa quân đánh thắng nhiều trận càn của địch, tấn
công đồn trại Pháp.
+ Đầu năm 1892, Pháp mở cuộc tấn công càn quét lớn vào Ngàn Trươi. Nghĩa
quân một mặt bố trí lực lượng chống trả tại chỗ; một bộ phận luồn về hoạt động
ở vùng sau lưng địch, buộc chúng phải rút quân về, nghĩa quân tập kích thẳng
vào Hà Tĩnh. Trước tình hình đó Pháp đã tăng cường càn quét, tìm cách thu hẹp
địa bàn, phạm vi hoạt động của nghĩa quân, cắt đứt liên lạc giữa các quân
thứ, giữa nghĩa quân với nhân
dân.
+ Tháng 11/1893, Cao Thắng đem 1000 quân đánh đồn Nu (Thanh Chương, Nghệ
An), trên đường hành quân về giải phóng thành Vinh ông bị trúng đạn và hy sinh.
+ Trước những cuộc vây ráp của địch nghĩa quân đã cố gắng chống trả. Cuối
tháng 3/1894, sau trận tập kích vào Hà Tĩnh nghĩa quân đã rút lui rồi cố thủ ở
núi Quạt, núi Vụ Quang.
+ Ngày 17/10/1894, Phan Đình Phùng chỉ huy đánh thắng trận Vụ Quang. Pháp
cử Nguyễn Thân đem 3000 quân bao vây căn cứ Vụ Quang, Phan Đình Phùng hy sinh
28/12/1895. Đầu năm 1896, những thủ lĩnh cuối cùng của cuộc khởi nghĩa Hương
Khê bị Pháp bắt . Khởi nghĩa Hương Khê tan rã.
b. Ý nghĩa.
- Khởi nghĩa Hương Khê là đỉnh cao
nhất của phong trào Cần Vương cuối thế kỉ XIX, kéo dài 10 năm, có quy mô rộng
lớn, tổ chức tương đối chặt chẽ, lập nhiều chiến công, gây cho địch nhiều tổn
thất...
- Huy động được sự ủng hộ và tiềm năng to lớn của nhân dân.
- Biết sử dụng những phương thức tác chiến linh hoạt, chủ động sáng tạo
trong quá trình chuẩn bị và giao chiến với quân địch....
Câu 6: Việc Hàm Nghi xuất bôn, hạ chiếu Cần
Vương kêu gọi chống Pháp đã có tác động như thế nào đối với các văn
thân, sĩ phu yêu nước? Căn cứ vào đâu để khẳng định phong trào Cần
Vương (1885 – 1896) đã đánh dấu bước phát triển mới của cuộc đấu
tranh chống thực dân Pháp trong nửa sau thế kỉ XIX.
Trả lời:
a.
Tác động của chiếu Cần vương:
Văn
thân , sĩ phu là những quan lại tri thức, những người có học vấn
trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ, họ bị chi phối nặng nề bởi tư
tưởng nho giáo – tư tưởng “trung quân, ái quốc”. Tháng 7-1885,
chiếu Cần Vương ban ra, lập tức các sĩ phu, văn thân hưởng ứng sôi
nổi, nhiệt tình. Biểu hiện là họ đứng ra tập hợp nghĩa binh, xây
dựng căn cứ lãnh đạo nhân dân chống thực dân Pháp...
b.
Căn cứ:
Từ
1858 - 1884, phong trào đấu tranh chống Pháp diễn ra trong hoàn cảnh: Pháp
đang từng bước xâm lược nước ta, triều đình nhà Nguyễn chưa hoàn toàn
đầu hàng... Phong trào diễn ra theo tiến trình xâm lược của thực dân
Pháp, mang tính chất tự phát, cục bộ, thiếu sự lãnh đạo thống
nhất...
Phong
trào Cần Vương (1885 - 1896), đánh dấu bước phát triển của phong trào
yêu nước chống thực dân Pháp nửa sau thế kỉ XIX. Phong trào nổ ra trong
hoàn cảnh: thực dân Pháp cơ bản
hoàn thành quá trình xâm lược nước ta, triều đình nhà Nguyễn đầu
hàng và trở thành tay sai cho Pháp. Mục đích phong trào cao hơn giai
đoạn trước... Phong trào được chuẩn bị và khởi xướng bởi vua Hàm Nghi
và Tôn Thất Thuyết. Do đó, trong một chừng mực nhất định phong trào
được đặt dưới sự chỉ huy thống nhất (1885 - 1888)...
Phong
trào do các văn thân, sĩ phu yêu nước lãnh đạo diễn ra với qui mô rộng
lớn hơn trước, phong trào nổ ra cùng một lúc ở Bắc và Trung Kì, tồn
tại lâu dài (1885 - 1896)...
Phong
trào Cần vương có nhiều cuộc khởi nghĩa có quy mô lớn, trình độ tổ
chức, phương thức đấu tranh linh hoạt, có tính sáng tạo như: Khởi
nghĩa Bãi Sậy, Hùng Lĩnh, Hương Khê ... gây cho thực dân Pháp gặp nhiều khó khăn trong việc bình định
nước ta...
Câu 7: Tại sao khởi nghĩa Hương Khê được coi là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất
trong phong trào Cần Vương?
Trả lời:
a. Trước hết, khởi nghĩa Hương Khê mang đầy đủ
những đặc điểm chung của phong trào Cần Vương :
- Lãnh đạo là văn thân sĩ phu (Phan Đình Phùng),
chống Pháp dưới ngọn cờ phong kiến
- Lực lượng tham gia là đông đảo nông dân.
- Hình thức:
khởi nghĩa vũ trang. Sử dụng chiến thuật du kích.
- Chưa thể triển khai thành phong trào toàn quốc,
kết cục thất bại
b. Khởi nghĩa Hương Khê là cuộc khởi nghĩa lớn
nhất, có những ưu điểm nổi bật nhất trong phong trào Cần Vương:
- Thời gian dài nhất: 11 năm, lại được phân chia
thành 2 giai đoạn chuẩn bị và chiến đấu quyết liệt.
- Quy mô lớn nhất: 4 tỉnh
- Huy động đến mức cao nhất sự ủng hộ và tiềm năng
lớn của nhân dân
- Nhân vật lãnh đạo xuất sắc
- Tổ chức tương đối chặt chẽ: 15 quân thứ...
- Tự chế tạo được súng trường lợi hại
- Chủ động, linh hoạt trong triển khai tác chiến (HS
lấy ví dụ)
- Lập nhiều chiến công và gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề (HS lấy ví
dụ)
Câu 8:
Trình bày những điểm giống và
khác nhau giữa phong trào Cần vương và phong trào nông dân Yên Thế.Giải thích
vì sao có sự khác nhau đó.
Trả lời:
a.Giống nhau, khác nhau.
- Về lãnh đạo: phong trào Cần vương là các sĩ phu văn thân yêu
nước ( Tôn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật), một số là thổ
hào (Đinh Công Tráng)và nông dân ( Cao
Thắng, Cao Điền); phong trào Yên Thế lãnh đạo là nông dân ( Đề Nắm, Đề Thám, Cả
Trọng, Cả Dinh, Cả Huỳnh)
- Về mục đích: phong trào Cần vương nhằm chống thực dân Pháp, khôi phục quốc gia
phong kiến có chủ quyền,phong trào nông dân Yên Thế nhằm mục đích bảo vệ cuộc
sống của mình, chống chính sách cướp bóc và bình định quân sự của thực dân
Pháp.
- Về thời gian: phong trào
Cần vương kéo dài hơn 10 năm( từ 1885
đến 1896), phong trào nông dân Yên Thế
duy trì cuộc chiến đấu ngót 30 năm( từ 1884 đến 1913).
- Về quy mô: phong trào Cần vương
bao gồm hàng trăm cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ trên một phạm vi rộng nhất là
ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, phong trào nông
dân Yên Thế diễn ra trên một địa phương nhỏ hẹp phía tây bắc tỉnh Bắc Giang.
- Về lực lượng: Cả hai phong trào lực lượng chủ yếu đều là nông
dân, nhưng phong trào nông dân Yên Thế
đầu thế kỷ XX có nét mới : trở thành nơi tụ hội của những nghĩa sĩ yêu
nước từ khắp nơi kéo về, trong đó có những sĩ phu yêu nước tiến bộ như Phan Bội
Châu, Phan Châu Trinh, Kỳ Đồng Nguyễn Văn Cẩm; tham gia tích cực vào vụ “Hà
thành đầu độc” của binh lính người Việt
.
- Về hình thức đấu tranh: Cả hai phong trào đều tiến hành khởi nghĩa vũ trang.
* Cả phong trào Cần vương và
phong trào nông dân Yên Thế đều nằm
trong phạm trù phong kiến, đều thể hiện truyền thống đấu tranh bất
khuất, khả năng quật khởi của nông dân Việt Nam, nhưng đầu thế kỷ XX phong trào
nông dân Yên Thế đã có mối liên hệ nhất định với phong trào theo khuyng hướng
tư sản.
b.Vì sao có sự khác nhau .
Do thành phần lãnh đạo khác nhau. Có
một thời gian tồn tại song song với nhau nhưng phong trào nông dân Yên Thế
không quy tụ vào phong trào Cần vương, điều đó chứng tỏ chế độ phong kiến nước
ta đã quá khủng hoảng, lỗi thời, không còn sức hấp dẫn như xưa nữa.
KẾT LUẬN
Chuyên đề “Phong trào Cần vương (1885- 1896)” là
một chuyên đề quan trọng, là một trong những nội dung trọng tâm của các kì thi
Trại hè Hùng vương cũng như thi HSG Quốc gia môn Lịch sử. Phương pháp chủ yếu khi dạy chuyên đề này là
sử dụng sơ đồ tư duy hệ thống hóa kiến thức, luyện viết để rèn kĩ năng trình
bày; đặc biệt, học sinh phải nâng cao ý thức tự học.
Học tập nói chung và học tập lịch sử nói riêng là quá
trình tiếp thu kiến thức. Kiến thức lịch sử lại hết sức phong phú và tăng lên
với mức độ nhanh chóng mà trường chuyên cũng không sao truyền thụ hết được.
Trong khi đó khả năng hiểu biết và học tập trong cả cuộc đời là có hạn. Cho
nên, trong quá trình dạy học, càn thiết phải làm cho quá trình học tập của học
sinh trở thành quá trình chủ động học tập, tiến dần lên quá trình tự nghiên cứu
độc lập.
Do vậy, muốn nâng cao chất lượng của tư duy, người giáo
viên cần phải chú ý đến số bài tập rèn luyện tư duy và phải để học sinh chuyên
tiếp xúc với các loại, các dạng bài tập tư duy khác nhau.
Việc sử dụng bài tập trong dạy học lịch sử
ở trường THPT nói chung và trường chuyên nói riêng trong quá trình dạy học là rất
cần thiết và nó có tác dụng về nhiều mặt, đặc biệt là gây hứng thú học tập,
phát triển tư duy độc lập, sáng tạo và rèn kĩ năng thực hành bộ môn cho học
sinh.
Trên đây kinh
nghiệm giảng dạy chủ quan của bản thân khi giảng dạy chuyên đề “Phong trào Cần vương (1885- 1896)”. Trong
quá trình trình bày không tránh khỏi những sai sót, kính mong các thầy cô đồng
nghiệp rút kinh nghiệm và chia sẻ ý kiến!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa
Lịch sử (nâng cao) lớp 11
2. Giáo trình Lịch sử
Việt Nam tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2019.
3. Hướng dẫn ôn thi
bồi dưỡng HSG THPT Chuyên đề Lịch sử, Nxb Quốc gia Hà Nội, 2015.