CHUYÊN ĐỀ
RÈN
KĨ NĂNG LỰA CHỌN NGỮ LIỆU PHÂN TÍCH TRONG KIỂU BÀI LÍ LUẬN VĂN HỌC KHÔNG GIỚI
HẠN NGỮ LIỆU CHỨNG MINH CHO HỌC SINH CHUYÊN VĂN
A.
MỞ
ĐẦU
I. Lí do
chọn đề tài:
1. Trong công tác đào tạo, bồi
dưỡng học sinh giỏi văn, bên cạnh việc giảng dạy và cung cấp kiến thức văn học
cho học sinh thì rèn kĩ năng làm văn là một khâu quan trọng có ý nghĩa thực
tiễn không thể phủ nhận. Từ kiến thức học sinh lĩnh hội qua bài giảng của thầy
cô, qua các tài liệu tham khảo mà các em tự học đến một bài văn nghị luận hoàn
chỉnh là cả một quá trình rèn luyện công phu, nghiêm túc đòi hỏi sự cố gắng nỗ
lực của cả thầy lẫn trò. Vì vậy, việc rèn kĩ năng làm văn cho học sinh chuyên
văn là một công việc quan trọng với mỗi một giáo viên đặc biệt là giáo viên dạy
chuyên.
2. Xuất phát từ cấu trúc của đề thi học sinh giỏi quốc gia môn ngữ văn.
Trong đề phần NLVH dạng đề là nghị luận ý kiến bàn về văn học, vấn đề được đưa ra có
tính lí luận văn học sâu sắc. Để làm sáng tỏ các nhận định trên học sinh cần có
ngữ liệu phân tích là các tác phẩm văn học. Chúng tôi thấy rằng xu hướng ra đề
nhằm giúp phát huy sự sáng tạo, năng lực cảm thụ của học sinh người viết thường
không giới hạn ngữ liệu cần phân tích, hoặc định hướng có tính chất mở đòi hỏi
học sinh cần tinh nhạy trong việc chọn ngữ liệu phân tích làm nên màu sắc cho
bài văn của mình.
3. Để giải quyết yêu cầu của các đề thi chọn học sinh giỏi quốc gia môn
ngữ văn, học sinh phải vận dụng rất nhiều các thao tác lập luận trong văn nghị
luận, trong đó không thể không sử dụng thao tác phân tích, chứng minh để đảm
bảo tốt điều này cần có sự lựa chọn ngữ liệu phân tích tốt. Đây là một phần
chiếm dung lượng lớn về kiến thức trong
bài nhưng có vai trò định hướng quan trọng đối với việc triển khai và giải
quyết vấn đề ở phần bình luận, chứng minh. Nói cách khác, nếu chọn dẫn chứng,
ngữ liệu phân tích, chứng minh không đúng yêu cầu của đề, không tiêu biểu bài
viết sẽ dẫn đến lạc đề, xa đề hoặc sơ sài, không thuyết phục. Như vậy, vận dụng
tốt thao tác chọn ngữ liệu ở phần đầu tiên của phần phân tích chứng minh sẽ
giúp bài văn triển khai đúng hướng, bàn luận vấn đề một cách toàn diện.
3. Qua thực tế giảng dạy và quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường
THPT chuyên, chúng tôi nhận thấy vấn đề Rèn
kĩ năng chọn ngữ liệu phân tích trong bài viết LLVH không giới hạn ngữ liệu chứng minh cho học
sinh chuyên Văn là một vấn đề có ý nghĩa thực tiễn quan trọng, góp phần
củng cố và nâng cao kĩ năng viết phần phân tích, chứng minh trong bài làm của
học sinh, đáp ứng yêu cầu của kì thi học sinh giỏi các cấp. Vì vậy, chúng tôi
lựa chọn chuyên đề này góp phần đem đến cho các giáo viên và học sinh chuyên
văn một phương pháp rèn kĩ năng làm văn, từ đó vận dụng chuyên đề vào thực tế
dạy, học và làm văn sao cho có hiệu quả.
II. Mục đích của đề tài:
1. Xây dựng cách thức rèn kĩ năng
chọn ngữ liệu phân tích cho kiểu bài LLVH không giới hạn ngữ liệu chứng
minh trong đề thi học sinh giỏi quốc gia môn ngữ văn cho học sinh chuyên văn.
2. Vận dụng lí thuyết, hình thành và định hướng hệ thống đề luyện tập,
thực hành viết và sửa lỗi phần chọn ngữ liệu phân tích trong đề văn đáp ứng yêu
cầu thi học sinh giỏi cấp quốc gia.
B. NỘI DUNG
I. Phần phân tích chứng minh trong
bài văn nghị luận đáp ứng yêu cầu thi học sinh giỏi quốc gia môn ngữ văn
Cấu
trúc đề thi chọn học sinh giỏi quốc gia lớp 12 môn ngữ văn những năm gần đây
không thay đổi, gồm có hai câu hỏi, yêu cầu học sinh viết bài văn nghị luận xã
hội và nghị luận văn học theo định hướng trong đề bài. Ở đây chúng tôi chú
trọng đến câu hỏi 2: phần NLVH trong đề thi. Sau đây là một số đề bài thi chọn
học sinh giỏi quốc gia những năm gần đây:
Đề thi năm 2010:
Câu
2: (12,0 điểm)
“Tác phẩm văn học chân chính bao
giờ cũng là sự tôn vinh con người qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”.
Bằng việc phân tích một tác phẩm đã học, anh/chị hãy bình luận nhận định
trên.
Đề thi năm 2011:
Câu 2. (12,0 điểm)
Mỗi hình tượng nhân
vật phụ nữ thực sự thành công bao giờ cũng là kết quả của sự phát hiện sâu sắc
về nữ tính.
Bằng
việc phân tích một số nhân vật phụ nữ tiêu biểu trong các tác phẩm đã học từ
văn học dân gian đến văn học hiện đại, anh/chị hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
Đề thi năm 2012:
Câu 2. (12,0 điểm)
Các nhà văn, nhà
thơ nhân đạo lớn thường gửi vào sáng tác một cách nhìn sâu sắc về con người,
cách nhìn này hướng đến đời sống nội tâm và cảm xúc
Bằng
việc phân tích một vài tác phẩm trung đại và hiện đại đã học, anh (chị) hãy
bình luận ý kiến trên.
Đề thi năm 2013:
Câu 2. (12,0 điểm)
Trong tác phẩm văn học, sáng tạo nghệ
thuật quan trọng, đặc sắc nhất, nhiều khi không phải ở hình tượng con người mà
ở hình tượng đồ vật, sự vật: một thứ thuốc chữa bệnh quái lạ (Thuốc - Lỗ Tấn), một bức thư pháp đẹp và
quý (Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân),
một công trình kiến trúc kì vĩ, tinh xảo (Vũ
Như Tô - Nguyễn Huy Tưởng), một cây đàn huyền thoại (Đàn ghi ta của Lor-ca - Thanh Thảo),... Đó là những đồ vật, sự vật
mang ý nghĩa biểu trưng cho nhận thức, nhân cách, ý chí, khát vọng, số phận...
của con người.
Ý kiến của anh/ chị về nhận định trên?
Hãy phân tích hai trong những hình tượng đồ vật, sự vật đã nêu để làm sáng tỏ ý
kiến của mình.
Đề thi năm 2014:
Câu 2 (12,0 điểm):
Văn học chân chính ngay cả khi nói về
cái xấu, cái ác cũng chỉ nhằm thể hiện khát vọng về cái đẹp, cái thiện.
Suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến trên.
Đề thi năm 2015:
Câu 2 (12,0 điểm):
Hình tượng nhân vật được sinh ra từ
tâm trí của nhà văn nhưng chỉ thực sự sống bằng tâm trí của người đọc.
Bằng tri thức và trải nghiệm văn học
của mình, bạn hãy bình luận ý kiến trên.
Đề thi năm 2016:
Câu 2
(12,0 điểm)
Marcel Proust quan niệm: “Thế giới được tạo lập không phải một lần, mà
mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập”.
Tô Hoài cho rằng: “Mỗi trang văn đều soi
bóng thời đại mà nó ra đời”.
Bằng trải nghiệm văn học của bản thân,
anh/chị hãy bình luận những nhận định trên.
Đề thi năm 2017
Câu 2:
Nghị luận văn học (12,0 điểm)
Mỗi nhà
văn chân chính bước lên văn đàn, về thực chất, là sự cất tiếng bằng nghệ thuật
của một giá trị nhân văn nào đó được chưng cất từ những trải nghiệm sâu sắc
trong trường đời.
Bằng những
hiểu biết về văn học, anh/chị hãy bình luận ý kiến trên.
Đề thi năm 2018
Câu 2: Nghị luận văn học (12 điểm)
Chế Lan Viên viết trong bài thơ Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?: “Hãy biết ơn vị muối của đời cho thơ chất mặn!”
Trong bài Làm
thế nào để có tác phẩm tốt? Lưu Trọng Lư cho rằng: “sự sống phải được chắt lọc, phải được trau chuốt, phỉa được nâng lên,
phải được tập trung cao độ, nó mới biến thành nghệ thuật, cũng như dâu xanh
phải biến thành kén vàng, gạo trắng phải bốc thành men rượu. sự thực phải được
sáng tạo, phỉa được nâng cao lên đôi cánh của tư tưởng để lại tác động vào lòng
người còn sâu mạnh hơn cả sự sống”
Bằng những hiểu biết về văn học, anh/ chị
hãy bình luận những quan niệm trên.
Đề thi năm 2019.
Câu 2 (12 điểm): “Rồi đây, có thể xuất hiện những
cỗ máy biết viết văn, làm thơ. Lúc đó, sáng tạo văn học có còn là độc quyền của
con người"?
Bằng trải
nghiệm văn học, anh/chị hãy trình bày quan điểm của mình.
Từ việc khảo sát một loạt các đề thi chọn học sinh giỏi quốc gia môn ngữ
văn những năm gần đây, có thể nhận thấy, câu hỏi NLVH đều có hình thức đưa ra
nhận định và yêu cầu học sinh bình luận,
đặc biệt các đề đều không có yêu cầu cụ
thể , không hạn định về ngữ liệu phân tích, chứng minh. Các đề đều hướng đến
yêu cầu học sinh bằng trải nghiệm văn học, sự hiểu biết về các tác phẩm văn học
chọn dẫn chứng là các tác phẩm nhằm làm
sáng tỏ vấn đề. Muốn giải quyết yêu cầu này của đề, học sinh ngoài việc cần vận dụng thao tác giải thích để
xác định vấn LLVH được nêu ra việc học sinh cần lựa chọn đúng, hợp lí dẫn chứng
chứng minh là điều vô cùng cần thiết. Phần phân tích và chứng minh trong bài
văn nghị luận chiếm một vị trí quan trọng quyết định việc bài văn có được triển
khai đúng hướng vấn đề có được sáng rõ hay
không và khả năng cảm thụ văn chương của
học sinh như thế nào. Nhận thức được tầm quan trọng của việc lựa chọn dẫn
chứng, ngữ liệu phân tích, chứng minh trong bài văn sẽ khiến cả giáo viên và
học sinh có thái độ đúng đắn và dành thời gian thích đáng để rèn luyện kĩ năng
này.
II. Cách chọn dẫn chứng, ngữ liệu phân tích
1. Bước 1: Giải thích vấn đề nghị luận.
1.1 Các kiểu đề nghị luận văn học
trong đề thi HSG
a.Kiểu đề nghị luận về một ý
kiến bàn về văn học
Đây là dạng hỏi thường thấy trong các đề thi
học sinh giỏi. Đề thi bao gồm một ý kiến, một nhận định bàn về một phương diện
nào đó của văn học (chức năng văn học, phong cách văn học, thể loại, quy luật
sáng tạo và tiếp nhận...), yêu cầu học sinh bàn luận và chứng minh. Ví dụ như
các đề thi HSG quốc gia như sau:
1.Mỗi
hình tượng nhân vật phụ nữ thực sự thành công bao giờ cũng là kết quả của sự
phát hiện sâu sắc về nữ tính. Bằng việc phân
tích một số nhân vật phụ nữ tiêu biểu trong các tác phẩm đã học từ văn học dân
gian đến văn học hiện đại, anh/chị hãy làm sáng tỏ nhận định trên. (Năm 2011)
2.Văn học chân chính ngay cả khi nói về cái xấu, cái ác cũng chỉ nhằm thể
hiện khát vọng về cái đẹp, cái thiện. Suy nghĩ của anh/chị về ý kiến trên
(Năm 2014)
3.Hình
tượng nhân vật được sinh ra từ tâm trí của nhà văn nhưng chỉ thực sự sống bằng
tâm trí của người đọc. Bằng tri thức và trải nghiệm văn học của
mình, bạn hãy bình luận ý kiến trên (Năm 2015)
Yêu cầu đặt ra
với phần giải thích của dạng đề này là học sinh phải khám phá những từ ngữ quan
trọng trong nhận định, để từ đó nhận ra vấn đề cần nghị luận. Chẳng hạn với đề
thi năm 2011, học sinh cần giải thích cách hiểu của mình về khái niệm "nữ tính" và những biểu hiện của
nó trong văn học. Người viết cần hiểu được: nhận
định nêu trong đề bài nhấn mạnh việc phát hiện phương diện nữ tính của người
phụ nữ trong quá trình sáng tạo là nhân tố có ý nghĩa quyết định sự thành công
của hình tượng nhân vật phụ nữ trong tác phẩm. Đồng thời thấy được, nhận định
cũng gián tiếp đề cập đến một yêu cầu không thể thiếu đối với người nghệ sĩ
chân chính: gắn bó với đời sống, hiểu biết kĩ lưỡng về cuộc sống, về con người;
trong đó, có việc nhận thức thực sự sâu sắc về giới. Cần chỉ rõ: đây là một
nhận định đúng đắn, sâu sắc đề cập đến một trong những yêu cầu cao về chất
lượng đối với sáng tạo nghệ thuật.
b.Kiểu đề nghị
luận về nhiều ý kiến bàn về một vấn đề văn học
Đề thi năm 2016 xuất hiện hai ý kiến cùng
bàn về một vấn đề trong văn học:
Marcel Proust quan niệm: “Thế giới được tạo lập không phải một lần, mà
mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập”.
Tô Hoài cho rằng: “Mỗi trang văn đều soi
bóng thời đại mà nó ra đời”. Bằng trải nghiệm văn học của bản thân, anh/chị
hãy bình luận những nhận định trên.
Hai ý kiến khác nhau nhưng cùng bàn về sự
sáng tạo của người nghệ sĩ vừa mang dấu ấn cá nhân độc đáo, lại vừa in dấu ấn của
thời đại. Đó là quy luật của sáng tạo nghệ thuật.
Như vậy, với dạng đề này đòi hỏi học sinh phải
đi sâu khám phá, giải thích từng ý kiến, sau đó tổng hợp lại, rút ra mối quan hệ
giữa các ý kiến để làm sáng rõ vấn đề nghị luận. Điều quan trọng là các em cần
nhận thức rõ vấn đề cần bàn luận ấy thuộc lĩnh vực nào của lí luận văn học, để
từ đó có cơ sở lí luận vững chắc cho bài viết của mình được sáng rõ, thuyết phục.
1.2 Luyện kĩ
năng viết phần giải thích cho đề thi NLVH
Nếu phần giải
thích trong đề thi nghị luận xã hội đòi hỏi khả năng diễn giải, tổng hợp trên
cơ sở những nhận thức xã hội tốt, thì phần giải thích trong nghị luận văn học
đòi hỏi trước hết người viết phải nắm vững những kiến thức lí luận văn học, bởi
nó là nền tảng cho mọi sự giải thích, cắt nghĩa, lí giải. Tất cả các nhận định
được đưa ra bàn bạc trong đề thi đều hướng đến một vấn đề nào đó của lí luận
văn học. Chẳng hạn với nhận định "Văn
học chân chính ngay cả khi nói về cái xấu, cái ác cũng chỉ nhằm thể hiện khát vọng
về cái đẹp, cái thiện" (Trong đề thi HSG năm 2014) học sinh cần nhận
rõ vấn đề bàn về bản chất, ý nghĩa của việc sáng tạo nghệ thuật. Hoặc nhận định
của Đỗ Đức Hiểu: "Với
tư cách là một hiện tượng nghệ thuật độc đáo, giọng điệu bao giờ cũng được tổ
chức một cách công phu bởi nó là một cách nói, một phương diện bộc lộ chủ thể
tác giả nhà văn" bàn về một phương diện
biểu hiện phong cách nghệ thuật nhà văn là giọng điệu.
Đối
với một giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi, không chỉ trang bị những kiến thức
lí luận vững chắc, mà việc rèn kĩ năng viết cho phần học sinh cũng hết sức cần
thiết. Thông thường, phần giải thích trong bài nghị luận văn học gồm các bước
sau:
Bước
1: Giải thích từng ý trong nhận định
Bước
2: Khái quát nội dung nhận định, rút ra vấn đề cần bàn luận
Bước 3: Vận dụng cơ sở lí luận để làm rõ vấn
đề (Đi cùng với phần chứng minh)
Một
lưu ý là với bài thi học sinh giỏi, phần giải thích nhiều khi không tách bạch
hoàn toàn thành một phần riêng, mà nó có thể đan xen cùng với phần chứng minh,
bàn luận để tăng tính thuyết phục, cũng như làm cho bài viết linh hoạt, sinh động
hơn.
Bản
chất của văn nghị luận là dùng những lí lẽ, dẫn chứng để thuyết phục người đọc,
người nghe về một vấn đề nào đó, nên diễn đạt phải thấu tình đạt lí, có sức
truyền cảm. Vậy nên ngay trong phần giải thích, bên cạnh việc rèn tư duy, giáo
viên cũng cần chú ý đến cách diễn đạt của các em trong việc làm sáng tỏ vấn đề.
Muốn vậy, cần phải hướng dẫn các em ngay trong quá trình học tập, khi đứng trước
một đề văn phải tuân thủ các bước cơ bản như tìm hiểu đề, tìm ý, viết nháp và sửa
chữa. "Văn ôn võ luyện", được thực hành nhiều kiểu bài khác nhau, các
em sẽ nhuần nhuyễn hơn trong lối viết và cũng tự mình nhận ra cách viết phù hợp
cho từng dạng bài.
2. Bước 2: Lựa chọn
ngữ liệu phân tích để chứng minh.
Dựa trên những
hiểu biết, khi đã giải thích để xác định vấn đề nghị luận học sinh cần lựa chọn
ngữ liệu phân tích một cách phù hợp nhằm làm sáng tỏ vấn đề lí luận được đặt ra
trong đề.
2.1. Những căn cứ để chọn ngữ liệu phân tích.
a. Dựa chọn ngữ liệu phân tích dựa theo nội
dung, kiến thức ,vấn đề LLVH đặt ra trong ý kiến được nêu ra.
- Trong ý kiến
được nêu ra sẽ là những đánh giá về một hay vài mảng nội dung liên quan đến vấn
đề LLVH như: thể loại (thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch), chức năng văn học,
đặc trưng, mối quan hệ nhà văn và quá trình sáng tác…Học sinh phải xác định
chính xác những điều đó, nhận ra đâu là vấn đề chính, quan điểm của tác gia như
thế nào rồi lấy đó làm cơ sở để lựa chọn ngữ liệu phân tích.
Ví dụ:
Nhà văn
Pautôpxki quan niệm: “Sáng tác của nhà
văn là để cho cái đẹp của trái đất, cho lời kêu gọi đấu tranh vì hạnh phúc, cho
niềm vui và tự do, cho cái cao rộng của tâm hồn, cho sức mạnh của trí tuệ sẽ chiến thắng bóng tối, để chúng vĩnh viễn rực
rỡ như một mặt trời không bao giờ tắt”.
(trích Bông hồng vàng và bình minh mưa, Nxb
Văn học, 2010)
Anh/chị hiểu
như thế nào về quan niệm trên? Hãy làm sáng tỏ qua một vài tác phẩm tiêu biểu
trong chương trình Ngữ văn 11 THPT.
ð Vấn đề LLVH: Ý kiến bàn đến những chức năng đẹp đẽ của văn
học đối với con người và xã hội trong đó có chức năng thẩm mĩ và nhận thức,
giáo dục.
ð Dẫn chứng: Văn học dân
gian( ca dao), Văn học viết( truyện , thơ), văn học nước ngoài.
b. Lựa chọn ngữ
liệu phân tích chứng mình căn cứ theo một số hạn định được nêu trong yêu cầu của
đề bài (thể loại, nguồn gốc…)
- Có những đề
văn câu lệnh thông tin, định hướng cho người viết về cách chọn ngữ liệu song
không hạn định bắt buộc ngữ liệu chọn cụ thể. Với những dạng đề này học sinh cần
chú ý kĩ những gợi ý đó để chọn ngữ liệu sát nhất, đảm bảo nhất, giúp làm sáng
tỏ vấn đề LLVH.
- Ví
dụ 1: Alice Munro, bậc thầy truyện
ngắn đương đại được trao giải Nobel năm 2013, từng chia sẻ: "Khi viết truyện ngắn, bạn phải cẩn thận để không làm nó giống
thơ ca".
Anh / chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ qua một tác phẩm
truyện ngắn trong giai đoạn 1930-1945.
ð
Như vậy ngữ liệu cần lựa chọn:+ Vấn đề LLVH cần
làm sáng tỏ: đặc trưng của thể loại truyện ngắn.
+ Ngữ liệu thuộc thể loại truyện ngắn
+ Giai đoạn: 1930- 1945.
+ Các tác phẩm tiêu biểu có thể lựa chọn: Hai đúa trẻ( Thạch Lam), Chí
Phèo( Nam Cao), Chữ người tử tù( Nguyễn Tuân)
+ số lượng ngữ liệu: 1 tác phẩm.
Ví dụ 2: “Thơ
ca là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tinh thần, do đó không đơn
giản mà cũng không thần bí, thiêng liêng…Thơ ca chân chính phải là nguồn thức
ăn tinh thần, nuôi tâm hồn phát triển, nó không được là thứ thuốc phiện tinh thần
êm ái mà nhỏ nhen, độc hại…” (Phương
Lựu)
Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào?
Hãy làm sáng tỏ qua một số bài thơ trong phong trào Thơ Mới.
-
Hướng dẫn:
Học sinh tự lựa chọn một số bài thơ Mới (trong hoặc ngoài
chương trình) để chứng minh song yêu cầu tác phẩm phải tiêu biểu, phù hợp vấn đề
lý luận và biết thông qua tác phẩm để làm sáng tỏ vấn đề lý luận.
Gợi ý:
·
Vội vàng – Xuân Diệu
-
Vội vàng là tiếng hát của trái tim:
+ Bài thơ là những cung bậc cảm xúc mãnh liệt và tinh tế của
nhà thơ trước cuộc sống, là cái trào ra từ trái tim rung động mãnh liệt của người
nghệ sĩ
+ Đứng trước những hiện thực cuộc sống, cảm xúc của Xuân Diệu
trào dâng mãnh liệt và bùng nổ ra thành những lời thơ, những hình ảnh, những nhịp
điệu gấp gáp.
+ Những tiếng hát từ trái tim nhà thơ thể hiện trong bài thơ:
/ Sự sung sướng, háo hức tận
hưởng vẻ đẹp của vườn xuân
/ Sự nuối tiếc thời gian một đi không trở lại, nuối tiếc
tuổi xuân và tình yêu
/ Sự vội vàng, gấp gáp trong điệu sống
-
Vội vàng – không đơn giản mà cũng
không thần bí
+ Thế giới tràn đầy hương sắc
mà nhà thơ vẽ ra trong bài thơ vừa là một “thiên đường trên mặt đất”, là cảnh
“bồng lai” song nhìn rõ hơn, đó chính là cảnh tượng một khu vườn xuân ở ngay trên
mặt đất này với ong bướm, hoa lá, chim hót…
+ Có những sự thật, những vẻ
đẹp vẫn luôn tồn tại trong cuộc sống nhưng không phải ai cũng nhìn thấy, Xuân
Diệu bằng tâm hồn khát khao giao cảm với
đời đã nhận ra những quy luật trong cuộc sống và nâng nó lên thành những
quan niệm thẩm mĩ mới mẻ:
/ Cái nhìn thời gian tuyến
tính một đi không trở lại, cuộc đời và tuổi xuân con người ngắn ngủi, hữu hạn
/ Trong vũ trụ, tạo vật đẹp
nhất là con người – con người khi sống giữa tuổi trẻ và tình yêu
-
Vội
vàng nuôi dưỡng tâm hồn
người đọc
+ Bài thơ giúp mỗi chúng ta biết trân trọng sự sống, tận
hưởng hạnh phúc ngay trên mảnh đất trần gian, ngay trước mắt
+ Bài thơ rèn luyện cho mỗi chúng ta biết rung cảm, biết
khơi dậy các giác quan để tận hưởng, thưởng thức đến tận độ bức tranh thiên
nhiên
+ Bài thơ giúp mỗi người nhận ra giá trị quý giá của
thời gian, từ đó biết trân trọng từng giây phút mình đang sống sao cho có ý
nghĩa nhất
+ Bài thơ thúc đẩy mỗi người cần thức tỉnh chính mình,
sống vội vàng, gấp gáp, chạy đua với thời gian, sống có ý nghĩa.
c. Lựa chọn ngữ
liệu dựa theo hiểu biết của bản thân, sở trường của bản thân người viết.
- Sau khi
đã liệt kê tất cả các ngữ liệu đảm bảo tất
cả các yêu cầu về kiến thức LLVH về hạn định hướng hạn định của người ra đề, học
sinh lựa chọn những ngữ liệu dựa theo năng lực văn chương của bản thân. Lựa chọn
các tác phẩm, các tác giả, các vấn đề mà mình hiểu biết nhất, tâm đắc nhất, mới
mẻ nhất điều đó giúp học sinh thể hiện hết hiểu biết, khả năng cảm thụ và tạo
được sự sáng tạo nhất.
d. Lựa chọn dẫn
chứng mới mẻ phát huy tính sáng tạo.
- Với những đề
bài người ra đề muốn phát huy sự sáng tạo cao nhất của học sinh thường sẽ để “
đất” cho học sinh chọn dẫn chứng. Học sinh có thể chọn những ngữ liệu nằm ngoài
chương trình có tính tiêu biểu, ngữ liệu tiêu biểu điển hình của văn học đương
đại trong và ngoài nước. Điều này giúp bài viết của học sinh sâu sắc và mới lạ
có tính thời đại, thực tế cao hơn.
- Ví dụ:
“Rồi đây, có thể xuất hiện những cỗ máy biết viết văn, làm thơ. Lúc đó, sáng
tạo văn học có còn là độc quyền của con người"?
Bằng trải nghiệm văn học, anh/chị hãy trình
bày quan điểm của mình.
2.2. Một số yêu cầu đặt ra nhằm tránh những lỗi
trong việc chọn ngữ liệu phân tích chứng minh vấn đề LLVH của học sinh chuyên
văn.
-Thông thường, với những đề không giới hạn phạm
vi dẫn chứng, các em dễ chọn viết những điều mình thuận hơn là quan tâm đáp ứng
yêu cầu của đề. Có khi, các em do được cho thỏa sức vung bút nên ham diện rộng
mà quên đi vào chiều sâu. Tỉ dụ như, có
thể do mải đề cập đến nhiều phương diện của sáng tạo, của phong cách nhà văn mà
không tinh ý nhận ra là nên tập trung vào mặt tư tưởng của phong cách. Ngữ liệu
chứng minh được chọn không có tính điển hình, tiêu biểu. Ngữ liệu phân tích
hay, toàn diện nhưng lại không tập trung sáng tỏ được vấn đề LLVH được yêu cầu.
Dẫn chứng chọn lựa dàn trải, quá nhiều mà không được phân tích làm sáng tỏ vấn
đề LLVH. Dẫn chứng mở rộng lại được phân tích kĩ hơn dẫn chứng chính.
- Một số yêu cầu
đặt ra khi lựa chọn ngữ liệu:
+ Ngữ liệu
đúng với vấn đề LLVH được nêu ra.
+ Ngữ liệu có
tính điển hình, tiêu biểu.
+ Đa dạng
phong phú về thể loại,mới mẻ.
+ Có ngữ liệu
chính phụ trong quá trình phân tích chứng minh.
3. Đề và bài viết
tiêu biểu
Đề 1: Có ý kiến cho rằng: “Nam Cao là nhà văn của chủ nghĩa hiện thực
tâm lí, là một bậc thầy trong nghệ thuật miêu tả và phân tích tâm lí nhân vật.”
Qua “Chí Phèo”, anh chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
·
Hướng dẫn:
-
Vấn đề LLVH: Phong cách nhà văn Nam Cao, đặc điểm của phong
cách của Nam Cao: chủ nghĩa hiện thực tâm lí, miêu tả phân tích tâm lí của nhân
vật.
-
Ngữ liệu: Bắt buộc là tác phẩm Chí Phèo song vấn đề cần phân
tích chứng minh là nghệ thuật phân tích, miêu tả tâm lí nhân vật trong Chí
Phèo. Đó có thể là diễn biến tâm lí của Chí Phèo, của Bá Kiến, Thị Nở .
Bài làm
Nửa đầu thế kỉ XX, đặc biệt là giai đoạn 1930-1945, nền văn học Việt Nam
bắt đầu chuyển mình sang một trang mới - nền văn học hiện đại với sự xuất hiện
của hai khuynh hướng sáng tác đối lập hoàn toàn: Chủ nghĩa hiện thực và chủ
nghĩa lãng mạn. Khác với những vẻ đẹp mơ mộng, với những chàng, nàng, những mối
tình đầy cảm xúc của chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện thực là một trào lưu, một
phương pháp sáng tác đề cao tính khách quan theo nguyên tắc chân thực, lịch sử,
cụ thể là xây dựng những nhân vật điển hình với những tính cách điển hình và được
đặt trong hoàn cảnh điển hình. Nam Cao xuất hiện trên văn đàn khi trào lưu hiện
thực chủ nghĩa đã đạt được nhiều thành tựu xuất sắc, nhà văn ý thức sâu sắc về
việc tìm hướng đi riêng, “sáng tạo những gì chưa có”. Ông đã đi sâu vào thế giới
nội tâm của con người, coi đó là đối tượng để khắc họa và trở thành nhà văn của
“chủ nghĩa hiện thực tâm lí”. Vẫn là hiện thực, nhưng ngòi bút Nam Cao luôn hướng
đến việc khám phá, phát hiện “con người trong con người”, bằng nghệ thuật miêu
tả và phân tích tâm lí bậc thầy – đó là tất cả những yếu tố về hình thức nhà
văn sử dụng để thể hiện thế giới nội tâm của nhân vật. có thể nói, nhận định đã
khái quát được những đặc trưng cơ bản nhất của phong cách nghệ thuật Nam Cao ở hai
khía cạnh : Điểm nhìn và nghệ thuật.
Vì sao có thể khẳng định như vậy ? Trước hết, về đặc trưng và bản chất của
văn học, đối tượng của văn học là hiện thực cuộc sống mà trung tâm là con người
trong hoàn cảnh, trong các mối quan hệ. Con người ưu việt hơn hẳn các loài động
vật vì chúng ta có ý thức, có tư tưởng, có một thế giới nội tâm vô cùng phong
phú và phức tạp. Chính vì vậy, khắc họa con người thì tâm lí là một khía cạnh rất
sâu sắc mà nhà văn cần khai thác. Trong thời đại mà cây bút Nam Cao xuất hiện
đã có những Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, chính vì vậy các vấn đề lớn
lao của hiện thực đời sống hầu như đã được giải quyết. Hơn nữa, khi mặt trận
dân chủ kết thúc, những mâu thuẫn xã hội gay gắt không thể trở thành đề tài
sáng tác của văn học hợp pháp. Nam Cao đành phải chọn viết về những cái nhỏ nhặt
của đời sống, nâng nó lên tâm triết lí và đào sâu vào nội tâm con người. Đặc biệt,
phong cách của Nam Cao độc đáo bởi ông luôn nhìn hiện thực bằng cái nhìn từ bên
trong, chuyển điểm nhìn linh hoạt vào các nhân vật để miêu tả hiện thực. Nhà
văn luôn nhìn hiện thực bằng cái nhìn có chiều sâu, khám phá ra bản chất của
con người. Đọc văn Nam Cao, ta cứ ngỡ nhà văn vô cảm, lạnh lùng, nhưng thực chất,
ông luôn nhìn thấy bản chất tốt đẹp của con người, luôn yêu thương con người.
Đó chính là chũ nghĩa nhân đạo sâu sắc trong sáng tác của Nam Cao. Bên cạnh đó,
tài năng của nhà văn cũng trực tiếp thể hiện qua những hình thức nghệ thuật phù
hợp : viết truyện ngắn tâm lí, xây dựng kết câu cốt truyện tâm lí, khắc họa
chân dung tâm lí, ngôn ngữ đa thanh đa giọng,… Tất cả những yếu tố đó đã làm
nên một cây bút hiện thực tâm lí xuất sắc của nền văn học Việt Nam.
C. KẾT LUẬN
1. Chuyên đề đã giải quyết được cơ bản các mục đích đặt
ra. Chúng tôi đã xây dựng các bước rèn kĩ năng lựa chọn ngữ liệu trong đề thi học sinh
giỏi quốc gia môn ngữ văn cho học sinh chuyên văn . Đóng góp có ý nghĩa của
chuyên đề là đã vận dụng lí thuyết, hình thành và định hướng hệ thống đề luyện tập, thực
hành viết và sửa lỗi phần giải thích trong đề văn đáp ứng yêu cầu thi học sinh
giỏi cấp quốc gia. Chuyên đề cũng đưa ra một số đề luyện tập phục vụ cho việc ôn thi học
sinh giỏi các cấp. Đây cũng là những đóng góp bước đầu nhằm nâng cao hiệu quả dạy
học của môn Ngữ Văn tại các trường THPT chuyên.
2. Muốn đạt hiệu quả trong công tác đào tạo
học sinh giỏi, giáo viên cần phải lập kế hoạch cụ thể, bên cạnh việc bồi dưỡng
kiến thức cần chú trọng những kĩ năng thực hành cho các em học sinh. Để việc
rèn kĩ năng lựa chọn dẫn chứng cho đề thi học sinh giỏi có hiệu quả, chúng tôi
xin đề xuất những cách làm sau đây:
Tăng cường cho học sinh thực hành lập dàn ý và viết phần chứng
minh. Mỗi chuyên đề bên cạnh những tiết lí thuyết cần chú trọng các tiết thực
hành với những dạng đề khác nhau.
Tổ chức lớp thành những nhóm học tập, ra vấn đề cho mỗi
nhóm để các em tự bồi dưỡng nâng cao kiến thức, tự tìm những dạng đề có liên
quan, thực hành chứng minh thông qua việc chọn ngữ liệu; sau đó thuyết trình
trước lớp dưới sự tổ chức của giáo viên, các em sẽ tích cực, chủ động, sáng tạo,
cũng như hứng thú trong việc trình bày, diễn giải về một vấn đề.
3. Vấn đề
nghiên cứu đòi hỏi kinh nghiệm già dặn trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi
văn mà tôi tự nhận thấy kinh nghiệm tích lũy còn rất nhiều hạn chế. Rất mong nhận
được ý kiến đóng góp của các bạn đồng nghiệp để tôi hoàn thiện chuyên đề, đưa
chuyên đề vào thực tế giảng dạy đạt hiệu quả cao nhất.