PHẦN I: MỞ ĐẦU
Trung đại là một thời đại văn hoá lớn trong lịch sử nhân
loại. Đó là thời đại ra đời những quốc gia châu Âu, những nhà nước hiện đại.
Những ngôn ngữ hiện đại mà các nước châu Âu đang sử dụng cũng hình thành vào
thời trung đại. Có thể nói, nhiều giá trị văn hoá làm nền tảng cho văn minh
hiện đại cũng bắt nguồn từ thời trung đại. Với nhiều đặc điểm loại
hình, khái niệm thời trung đại cũng được vận dụng vào lịch sử phương Đông, có
tính đến những nét đặc thù ở từng quốc gia cũng như trong toàn khu vực.
Thời trung đại Việt Nam không phải là “đêm trường trung
cổ” như quan niệm của sử gia châu Âu, mà là thời đại phát triển rực rỡ của dân
tộc. Đây là thời kỳ mà hầu hết các truyền thống quý báu của dân tộc đều hình
thành. Văn học, ngôn ngữ đã phát triển và đạt tới đỉnh cao. Tâm hồn Việt Nam, nhân cách Việt Nam được khẳng định và được biểu
hiện thành văn. Không thể hiểu được văn hoá, văn học, con người Việt Nam hiện đại mà
không nghiên cứu kỹ lưỡng thời kỳ văn học này.
Suốt mười thế kỉ trung đại, văn học Việt Nam đã kết tinh nhiều giá trị thâm
sâu, trở thành niềm tự hào cho hậu thế. Văn học trung đại Việt Nam
đến nay vẫn là một sức hút mãnh liệt đối những nhà nghiên cứu học thuật trong
và ngoài nước, là nơi thể nghiệm và đạt được nhiều thành tựu của nhiều hệ thống
lí thuyết nghiên cứu văn học. Qua việc nghiên
cứu, tìm hiểu di sản này, chúng ta càng thêm gắn bó với truyền thống cao đẹp
của dân tộc. Bởi lẽ “Mỗi tác
giả với thiên tài của mình và giới hạn của thời đại, phản ánh một thời kì lịch
sử, đánh dấu một bước tiến của văn học, làm giàu thêm cho tư tưởng, tình
cảm và tiếng nói Việt Nam”(Phạm Văn Đồng).
Chúng ta có thể tìm thấy trong di sản
này những điều giúp tìm lại quá khứ vinh quang nhưng không ít phần gian khó của
dân tộc, để rồi từ đó có thể nhìn lại hiện tại một cách thấu đáo hơn và hướng
về tương lai một cách tin tưởng hơn. Đối với nhà trường THPT, di sản này đóng
một vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm,
đạo đức, quan điểm, lí tưởng thẩm mĩ... cho học sinh, thông qua những thành quả
nổi bật của người xưa trong lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật ngôn từ, kết tinh
trong các tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu.
Chương trình Ngữ văn THPT có một
số lượng tương đối lớn các văn bản thuộc thể loại thơ trữ tình trung đại. Đó là các văn bản nghệ thuật được các nhà thơ
Việt Nam sáng tác trong thời kì phong kiến. Các tác giả thơ trữ tình trung đại
phần nhiều là những thi nhân nổi tiếng, tâm hồn nặng những nỗi đời. Làm thơ với
họ là mượn cảnh, mượn việc để kí thác tâm sự, bày tỏ nỗi lòng nhân thế theo
quan điểm thời đại “thi dĩ ngôn chí, văn dĩ tải đạo”.
Qua thực tế
giảng dạy thơ trữ tình trung đại Việt Nam ở trường THPT có thể nhận thấy: Đây
là thể loại văn học tương đối khó, hơn nữa các tác phẩm văn học trung đại được
tính từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX đã cách chúng ta hơn mười thế kỉ, đến với thế
hệ trẻ dưới mái trường phổ thông thế kỉ XXI đã có khoảng cách rất xa về thời
gian. Vì thế, người giảng dạy gặp khó khăn trong soạn giảng, nhiều học sinh ít
hứng thú, không tích cực trong giờ học những bài văn học cổ. Vấn đề đặt ra là
phải có những biện pháp tối ưu nhằm giúp giáo viên và học sinh đạt hiệu quả cao
trong giảng dạy và học tập thơ trữ tình trung đại Việt Nam.
PHẦN II: NỘI DUNG
Dạy đọc hiểu thơ trữ tình, đặc biệt thơ trữ tình
trung đại đòi hỏi một cách tiếp cận riêng khác với dạy các văn bản tự sự, miêu
tả hay nghị luận. Văn học Trung đại là
bộ phận văn học đồng hành với sự phát
triển của xã hội phong kiến. Các tác phẩm VHTĐ đều viết bằng chữ Hán hay chữ Nôm có phần
xa lạ với ngôn ngữ Tiếng Việt hiện đại ngày nay; các điển tích, điển cố của văn
học trung đại phức tạp và đa nghĩa. Vì vậy tìm hiểu, phân tích một tác phẩm Văn
học Trung đại là việc làm không hề dễ
dàng.
Cho nên, trước khi dạy, người giáo viên cần nắm
được hệ thống các văn bản thơ trữ tình trung đại trong chương trình Ngữ văn
THPT để từ đó có định hướng, cách khai thác riêng cho từng cụm bài, từng bài. Từ
các bài thơ trữ tình trung đại trong chương trình, ta có thể thấy phần lớn các bài thơ trữ tình trung đại Việt Nam chịu ảnh
hưởng mạnh mẽ của thơ Đường luật (Trung Quốc). Chính vì vậy, trong quá trình dạy, cần bám sát đặc trưng thể loại, các
tín hiệu nghệ thuật (đặc trưng của thơ Đường luật: thể thơ, ngôn ngữ, hình ảnh
thơ, bút pháp…) để trên cơ sở đó, dẫn dắt HS đi tìm cái hay, cái đẹp trong tư tưởng,
nghệ thuật của tác phẩm.
Trong
khuôn khổ của chuyên đề này, người viết xin đề cập tới một số nét khái quát về
đặc trưng thi pháp của thơ trữ tình trung đại Việt Nam và một số đặc điểm hình
thức cần lưu ý khi phân tích thơ Trung đại để làm cơ sở cho việc dạy học đọc –
hiểu thơ trữ tình trung đại trong chương trình.
I. Một số nét khái quát về đặc trưng thi pháp của thơ trữ tình trung
đại Việt Nam
Văn học trung đại Việt Nam nói chung và thơ trữ tình trung
đại nói riêng được ra đời trong bối cảnh
xã hội phong kiến phát triển. Nó phản ánh thực tế lịch sử xã hội phong kiến từ thế
kỷ X đến hết thế kỷ XIX, đặc biệt là những biến động của xã hội và thân phận
con người. Cảm hứng xuyên suốt như sợi chỉ đỏ của thơ trung đại Việt Nam là cảm hứng
yêu nước và cảm hứng nhân đạo. Các tác giả thơ trung đại Việt Nam chủ yếu là
những người có địa vị xã hội, có học thức cao, có những ảnh hưởng quan trọng
cho sự phát triển của xã hội… Bởi vậy khi phân tích, dạy học đọc – hiểu thơ trữ
tình trung đại Việt Nam cần bám sát đặc trưng thi pháp.
1. Quan niệm văn chương nghệ thuật, tư duy nguyên hợp và vấn đề “văn sử triết bất phân” thời
trung đại
Tư duy của con người thời cổ đại, trung đại kém phát triển
về khả năng phân tích mà thiên về tổng hợp trực cảm. Vì thế, về mặt thể loại
văn học, chưa có ý thức tách bạch dứt khoát. Khái niệm văn, thơ còn bao hầm một
nghĩa rất rộng, bao gồm cả văn học thuật, văn hành chính.
Có thể
dễ dàng nhận thấy, tư tưởng kinh điển và tôn giáo đã cung
cấp cảm hứng, đề tài, chủ đề và gợi ý các thể loại văn học trung đại. Các tôn
giáo và học thuyết Phật, Nho, Đạo đã ảnh hưởng và tạo nên những nét đặc thù
trong quan niệm của người trung đại về bản chất vũ trụ, không gian và thời
gian, thiên nhiên, con người. Tư tưởng tôn giáo và kinh điển còn đem lại hệ quả
quan trọng như: phân biệt văn học linh thiêng và phàm tục; hạn chế sự biểu hiện
cá nhân và ý thức cá nhân; mặt khác đem đến việc đề cao nội dung đạo đức và
tính chất giáo huấn, văn học có mối quan hệ trực tiếp với tư tưởng. Những quan
điểm này có quan hệ đến việc hình thành những đặc trưng về nội dung và hình
thức nghệ thuật của văn chương trung đại.
Người
ta thường nói đến hiện trạng văn sử triết bất phân trong văn học trung đại. Hiện tượng “văn – sử - triết bất phân” là một hiện tượng đặc trưng và
phổ biến của văn học trung đại, liên quan đến quy luật văn hóa, trạng thái tư
duy nghệ thuật, quan niệm văn chương thời trung đại. Nó thể hiện trong hệ thống
thể loại văn học và trong cơ chế nghệ thuật ở mỗi tác phẩm văn học, cụ thể. Văn
– sử - triết bất phân “vốn là sản phẩm của một trình độ tư duy nghệ thuật mà
trong đó sự phân hóa giữa hai hình thái tư duy: luận lí (gọi là khái niệm,
logic) và hình tượng chưa tách bạch nhau mà có sự đan xen. Đó là trạng thái
trong sáng tác văn chương, tư duy hình tượng chưa lấn át hoàn toàn tư duy luân
lí. Các ý tưởng, các khái niệm mang tính chất triết học, nói chung vẫn tồn tại
trong các tác phẩm một cách trực hiện bằng tư duy lý luận (trong khi với văn
học hiện đại chúng tồn tại theo một kiểu gián tiếp, tan biến vào trong hình
tượng). Vì vậy trong quan niệm văn học trung đại, nổi nên chủ đạo như mọi người
đã thừa nhận là quan niệm “văn dĩ tải đạo” “văn dĩ minh đạo” “văn dĩ quán
đạo”…
Hiện tượng văn – sử - triết bất phân được thể hiện trong hệ
thống thể loại của văn học trung đại, gồm hai loại hình chính là : văn vần
(thơ) và văn xuôi, thể hiện trong phạm vi văn xuôi rõ nét hơn văn vần. trong
loại hình văn xuôi, các thể loại của nó có thể chia làm hai bộ phận: bộ phận
thứ nhất là những thể loại thuộc văn chính luận được viết bằng tư duy khái niệm
là chủ yếu thì hiện tượng văn – sử - triết bất phân trở thành đặc trưng thể
loại. Bộ phận thứ hai là những thể loại văn xuôi tự sự như truyện truyền kỳ,
tiểu thuyết chương hồi…cũng là sản phẩm của quy luật này, tuy nó không thể hiện
đậm nét bằng văn xuôi chính luận. Chẳng hạn: “Đại cáo bình Ngô” của Nguyễn
Trãi là một kiệt tác văn chương kết tinh trên cơ sở của quy luật văn – sử -
triết bất phân. Về triết đó là lí tưởng nhân nghĩa trực tiếp sáng rực lên
trong lời mở đầu và tiếp tục chói lọi ở cuối tác phẩm Về sử: đó là một bản
tổng kết tài tình cô đúc đầy đủ về lịch sử khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh
đạo Về văn, đó là một nguồn cảm xúc trữ tình mang đậm âm hưởng hào hùng,
bề thế tới mức đời sau mệnh danh là thiên cổ hùng văn.
2. Tính ước lệ
Văn học nghệ thuật bao giờ cũng có ước lệ nhất định bởi văn
học không phải là đời sống thực tại. Ước lệ là một thứ quy ước của một cộng
đồng người, nó là một tín hiệu riêng của cộng đồng ấy. Trong văn học nghệ
thuật, nó là ước lệ thẩm mĩ của một cộng đồng giới văn nghệ. Mỗi thời đại văn
học có một cộng đồng văn học riêng gồm những người viết văn và những người đọc
văn. Cộng đồng văn học ở thời trung đại thu hẹp ở những trí thức Hán học.
Trong văn học thời trung đại, ước lệ được sử dụng một cách
phổ biến, nghiêm ngặt và phức tạp, trở thành một đặc trưng thi pháp. Điều này
đáp ứng nhu cầu thẩm mĩ thời trung đại, cụ thể là những trí thức Hán học tài
hoa, họ đem đến cho giới văn học thời đó khoái cảm thẩm mĩ thật sự.
Tính ước lệ trong văn học trung đại bao gồm ba tính chất:
- Tính uyên bác và cách điệu hóa cao độ
- Tính sùng cổ
- Tính phi ngã
a. Tính uyên bác và cách điệu hóa cao độ:
Văn học chính thống thời phong kiến được gọi là văn chương bác học. Gọi như thế bởi văn chương mang trong mình tính bác
học. Giới văn học thời trung đại rất hẹp, chỉ quanh quẩn trong tầng lớp trí
thức Hán học tài hoa, tao nhân mặc khách, chỉ những người như thế mới
hiểu, mới cảm, mới chia sẻ thú vui văn chương với nhau được mà thôi. Bởi thế,
độc giả của Nguyễn Khuyến chỉ có thể là Dương Lâm hay Dương Khuê, cho nên khi
Dương Khuê mất thì Nguyễn Khuyến chẳng muốn sáng tác làm gì nữa:
Thơ muốn viết đắn đo chẳng viết
Viết đưa ai, ai biết mà đưa ?
Sáng tác trong môi trường ấy, tất nhiên uyên bác có ý
nghĩa thẩm mỹ. Người sáng tác cũng như người tiếp nhận đều phải thông
thuộc kinh sử, điển cố, điển tích; tường tận những thi liệu, văn liệu từ những
áng văn bất hủ của người xưa. Văn chương càng uyên bác càng có sức hấp dẫn
lớn, có tính nghệ thuật cao. Họ cảm thấy thú vị khi đọc những câu thơ vận dụng
tài tình những thi liệu cũ:
Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoái còn cười gió Đông
(Nguyễn Du)
Hay:
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương.
(Nguyễn Trãi)
Văn chương của tao nhân mặc khách nên có khuynh hướng
lý tưởng hóa, “văn chương hóa”, họ phải tạo ra một thế giới nghệ thuật
riêng khác với thế giới đời thường. Vì thế, cái có thật đi vào thế giới ấy
phải được cách điệu hóa cao độ. Hình tượng nghệ thuật càng cách điệu hóa
càng đẹp.
Con người trong văn chương phải đẹp một cách lý tưởng:
tóc mây, mày liễu, mặt hoa, tay tiên, gót sen, vóc hạc,… Cử chỉ, đi đứng,
ăn nói tựa như đang sống trong thế giới của nghệ thuật sân khấu:
Hài văn lần bước dặm xanh
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao
Chàng Vương quen mặt ra chào
Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa
(Nguyễn Du)
Cây cối đi vào văn chương cũng phải thật sang quý và
đẹp như mai, cúc, tùng, bách, liễu,…
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
(Bà Huyện Thanh Quan)
Nhìn chung, văn chương thời trung đại không chú ý tả
thực. Tả thực nếu có, chỉ dùng cho những nhân vật phản diện phàm tục như
Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Tú Bà; Bùi Kiệm, Trịnh Hâm:
Thoắt trông nhờn nhợt màu da
Ăn chi cao lớn đẫy đà làm sao ?
(Nguyễn Du)
Quan niệm của con người thời ấy không gì hoàn thiện, hoàn mĩ
bằng tạo hóa, không gì tài hoa bằng hóa công. Vì thế, những gì cần lý tưởng hóa
đều phải được so sánh với thiên nhiên, thiên nhiên trở thành chuẩn mực cho
cái đẹp của con người. Con những tiểu nhân chỉ có thể so sánh với xác của
chúng, mới tả thực.
b. Tính sùng
cổ:
Do quan niệm thời gian phi tuyến tính nên trong văn học
trung đại, các tác giả luôn có xu hướng tìm về quá khứ. Thời gian không đi
mất mà quay trở lại gốc nguồn. Họ lấy quá khứ làm chuẩn mực cho cái đẹp, lẽ
phải, đạo đức. Chân lý quá khứ là chân lý có sức sáng tỏa muôn đời. Vì
thế, văn chương thường lấy tiền đề là lý lẽ và kinh nghiệm của cổ nhân,
của lịch sử xa xưa.
Văn học trung đại vì vậy mà đầy rẫy những điển tích, điển
cố. Mẫu mực của văn chương cũng như vậy. Thơ ca không ai có thể vượt qua
những thi thánh, thi thần như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị,… Lặp lại
chuyện cũ, mô phỏng văn chương xưa, “tập
cổ” vay mượn văn liệu, thi tứ, hình ảnh nghệ thuật của các nhà thơ, nhà
văn đời trước chẳng những không bị chê trách mà còn là một cách tạo thêm giá
trị cho sáng tác của mình.
c. Tính
phi ngã:
Thời phong kiến, ý thức cá nhân, cá thể chưa có điều
kiện phát triển. Con người chưa bao giờ “sống là mình”. Con người chỉ sống
với không gian mà không sống cùng thời gian. Con người được nhìn nhận,
đánh giá trên cơ sở của tầng lớp, giai cấp, dòng tộc, địa vị xã hội. Con
người chỉ phân thành hai loại: quân tử và tiểu nhân. Chính điều kiện xã
hội ấy đã sinh ra hệ thống ước lệ trong văn chương, một ước lệ nghệ thuật
có tính phi ngã. Nhà thơ cảm thụ và diễn tả thiên nhiên không bằng cái
nhìn hữu ngã và bằng ngôn từ, hình ảnh, nhịp điệu do cá nhân mình sáng tạo.
Tranh vẽ, thơ vịnh cảnh đều có sự quy định sẵn theo công
thức: tứ quý, xuân lan, thu cúc, hoa điểu, tùng hạc, liên áp, tiêu tương, sơn
thủy; nhân vật thì ngư, tiều, canh, mục; cảnh trăng khuya thì có thuyền gối
bãi, thuyền chở trăng… Người sáng tác phải có một kho điển cố, kho thi liệu,
văn liệu chung cũng là những hình ảnh, những ngôn từ ước lệ phi ngã.
Tuy nhiên, nói văn học trung đại có tính phi ngã không
có nghĩa trong tác phẩm văn chương không có dấu ấn bản ngã của người nghệ
sĩ. Lao động nghệ thuật là một hoạt động
sáng tạo; văn học chân chính không chấp nhận công thức, phi ngã. Trong văn
học thời trung đại của dân tộc ta, các cây bút lớn đều khẳng định tư
tưởng, cá tính và tài nghệ độc đáo của họ. Tiến trình văn học đã khẳng
định điều đó. Chúng ta không thể phủ nhận cá tính sáng tạo của Nguyễn Du,
Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương,
Tản Đà,… Chỉ có điều, do tính qui phạm nghệ thuật nên sự khác biệt trong
tư tưởng và phong cách nghệ thuật của các cây bút ấy chỉ là những biến
thức khác nhau của sự vận dụng những chuẩn mực chung của cộng đồng VH bấy
giờ mà thôi.
3. Thiên nhiên trong văn thơ trung đại
Trong sáng tác của các nhà thơ, nhà văn trung đại dường
như không thể vắng bóng thiên nhiên. Thiên nhiên làm nên diện mạo, linh
hồn của tác phẩm. Thiên nhiên biểu hiện cảm quan vũ trụ, mỹ cảm và tư
tưởng triết học phương Đông của các tác giả thời kì trung đại. Hiện tượng này
có thể bắt nguồn từ xã hội kinh tế nông nghiệp thô sơ của thời trung đại.
Thời ấy con người sống giữa thiên nhiên. Con người trực tiếp khai thác
thiên nhiên bằng bàn tay lao động của mình. Thiên nhiên là nguồn
nuôi dưỡng tinh thần và vật chất cho con người. Thiên nhiên có mặt trong
cuộc sống gia đình, xã hội của cư dân của nền văn hóa thảo mộc, nền văn
minh lúa nước. Thiên nhiên trong văn thơ trung đại có một số đặc điểm cơ bản
sau đây.
a. Thiên
nhiên không tách khỏi con người như một khách thể trong văn chương:
Con người cảm thụ thiên nhiên như là một chủ thể. Con
người đã gán cho thiên nhiên những phẩm chất, thuộc tính của chính mình.
Thiên nhiên chưa được khám phá với những giá trị tự thân, chưa thực sự là
đối tượng hiện thực của văn học. Người ta tìm đến với thiên nhiên và
xem thiên nhiên như là một tư liệu để để ngụ tình hay giáo huấn đạo đức
một cách không tự giác, như trong bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm – triết lý
sống nhàn được nhà thơ gửi gắm qua mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với thiên nhiên,
cuộc sống hòa mình vào thiên nhiên:
Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao
(Nguyễn Bỉnh Khiêm
Điều này khác với văn chương hiện đại. Văn chương hiện đại
tôn trọng sự sống riêng của tạo vật thiên nhiên. Thiên nhiên được miêu tả
như là một khách thể, là đối tượng cảm nhận của con người.
b. Thiên
nhiên được miêu tả theo một bút pháp đặc
biệt:
Thiên
nhiên trong văn thơ trung đại được miêu tả theo một bút pháp đặc biệt: không tả hình xác mà gợi tả linh hồn của thiên nhiên. Thiên
nhiên trở thành ý niệm tượng trưng, dấu hiệu tượng trưng, chứa đựng những
cảm giác, cái không thấy của con người. Thiên nhiên là nơi gởi gắm những
tư tưởng, tình cảm hay triết lý của con người.
Xuân đến trăm hoa nở
Xuân đi trăm hoa rụng
…
Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một nhành mai
(Mãn Giác Thiền sư)
Thiên nhiên có linh hồn nên cũng sang hèn, quân tử tiểu nhân
như con người. Bầu bạn hay tri âm tri kỉ với nhà thơ phải là thứ thiên nhiên
tao nhã, sang trọng như “Sơn thủy yên hoa tuyết nguyệt phong” (Hồ Chí
Minh). Họ tự ví mình như cốt cách của “Mai, lan, cúc, trúc” hay “Tùng,
cúc, trúc, mai”.
Quét trúc bước
qua lòng suối
Thưởng mai về đạp bóng trăng
(Nguyễn Trãi)
Hay:
Nghêu ngao vui thú yên hà
Mai là bạn cũ hạc là người thân
(Nguyễn Du)
Họ đối lập thiên nhiên tao nhã với thiên nhiên phàm
tục, tầm thường cũng là để đối lập họ với những kẻ tiểu nhân, phàm phu đắc
thế:
Phượng những
tiếc cao diều hãy lượn
Hoa thường hay héo cỏ thường tươi
Hoặc:
Đến trường đào
mận ngạt chăn thông
Quê cũ ưa làm chủ trúc thông
(Nguyễn Trãi)
c. Thiên nhiên trong
thơ trung đại có hai đặc tính:
Thiên nhiên được cảm nhận và tái hiện một cách tinh vi
như muốn khám phá linh hồn ẩn kín, bí mật của tạo vật.
Thụy khởi khải song phi
Bất tri xuân dĩ quy
Nhất song bạch hồ điệp
Phách phách sấn hoa phi
dịch thơ:
Ngủ dậy ngó song mây
Xuân về vẫn chửa hay
Song song đôi bướm trắng
Phấp phới sấn hoa bay.
(Xuân hiểu - Trần Nhân Tông)
Thiên nhiên trong thơ thường
được phối màu thanh đạm, đường nét thanh tao; nhưng thấm chất sống ngồn
ngộn tươi rói như thiên nhiên trong cuộc sống đời thường.
Đồng bằng nhô núi biếc
Hình thế tựa diều bay
Cầu vắt qua khe nước
Chùa nằm tít đỉnh mây
(Đề núi cánh diều - Lê Quý Đôn)
Trăng giục chèo khua sóng
Thanh vắng hứng càng say
Sương đầm hoa tươi tốt
Thu nhuộm núi hao gầy…
(Dạ nguyệt hành chu - Lê Hữu Trác)
Thiên nhiên luôn được tái hiện bằng cảm xúc dạt dào,
tình cảm lắng sâu của người làm thơ. Đọc những vần thơ của Trần Nhân Tông, Lê
Quý Đôn, Lê Hữu Trác, ta như nghe thấy hơi thở nhịp điệu tâm hồn của các
thi nhân ấy. Thơ của các thi nhân ấy là tâm hồn sáng láng, nhân cách cao cả,
phong thái tự tại của chính họ giữa chốn đời bụi bặm này.
4. Thế giới nghệ thuật phi thời gian trong văn học
trung đại
Con
người thời cổ đại và trung đại chưa xem thời gian và không gian như những
phạm trù trừu tượng. Người ta cảm nhận thời gian bằng sự
trực cảm, bằng những tín hiệu không gian, bằng sự vận động của thiên nhiên
và sự sống của con người. Bước đi của thời gian được theo dõi bằng
thời tiết bốn mùa, bằng thời vụ nông tang, bằng sen tàn, cúc nở, bằng oanh
vàng liễu biếc hay tiếng Đỗ quyên kêu.
Thuở đăng đồ mai chưa dạn gió
Hỏi ngày về chỉ độ đào bông.
Hay:
Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu
Hỏi ngày về ước nẻo quyên ca.
(Chinh phụ ngâm – Đặng Trần Côn)
Từ kinh nghiệm trực
cảm, người xưa có hai nhận thức về thời gian:
– Quan sát cận cảnh
hằng ngày, nhận thức thời gian tuyến tính một đi không trở lại. Thời gian
tuyến tính vận động mau lẹ, đầy hình ảnh, đầy màu sắc cụ thể và giàu chất
sống. Thời gian tuyến tính là thời gian của thế giới phàm tục.
– Quan sát thế giới từ
xa, nhận thức thời gian tuần hoàn qua sự
tuần hoàn của vũ trụ. Đây là quan niệm thời gian chu kì, thời gian quay
tròn không đi mất, động mà tĩnh, ngưng đọng, phi thời gian. Thời gian chu
kì là thời gian của cõi trời, cõi tiên, của thế giới thanh cao bất tử.
Trong hai quan niệm thời gian này, người xưa chủ yếu
hướng về thời gian chu kì, họ cho rằng thời gian tuyến tính phục tùng thời
gian chu kì. Vì vậy, cảnh trong thơ xưa nhìn chung là cảnh ngưng đọng, phi
thời gian, màu sắc đạm bạc giàu ý nghĩa biểu tượng triết lý hơn là hiện thực.
Trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, thời gian chu kì ngưng đọng
biểu đạt lối sống nhàn tản, bất hòa với cõi nhân gian thế thái:
Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao
Hoặc:
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người
khôn người đến chốn lao xao
Trong thơ Nguyễn Khuyến, thời gian hầu như tĩnh tại đồng
hiện, con người như đóng khung trong thời gian lắm sắc màu lòe lọet, nhịp
điệu trì trệ ấy mà cảm nghe sự bất lực của một kẻ sĩ vong
quốc:
Năm gian
nhà cỏ thấp le te
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe
Lưng giậu phất phơ màu
khói nhạt
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe
(Thu ẩm)
5. Con người trong văn chương trung đại
a. Con
người vũ trụ:
Thời trung đại, con người và thiên nhiên tạo vật
được nhìn nhận là một khối thống nhất. Con người là một tiểu vũ trụ luôn tìm về
hội nhập cùng đại vũ trụ. Con người vì thế luôn quan hệ với
vũ trụ. Chính quan niệm này đã chi phối quan niệm nghệ thuật về con
người trong văn chương: con người vũ trụ. Con người vũ trụ thể hiện
qua một thi đề phổ biến của thơ trữ tình: con người giao cảm, đối diện đàm
tâm với tạo vật vũ trụ, có kích thước vũ trụ.
Con người khi gặp oan khuất, chỉ có trời đất thấu hiểu.
Xanh kia thăm thẳm từng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi
này
(Chinh phụ ngâm-Đặng Trần Côn)
Khi thề nguyền keo sơn gắn bó thì núi sông chứng
giám lòng thành thủy chung. Khi xử thế lánh đục tìm trong, vong bần lạc
đạo, con người tìm về chốn lâm tuyền, cùng bầu bạn với gió trăng. Khi nhập
thế thì rồng mây gặp hội. Tầm vóc con người được đo theo chiều kích sông
núi:
Hoành sóc giang sơn cáp kỉ thu
Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu
(Thuật hoài - Phạm Ngũ
Lão)
Hay:
Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc
Nợ
tang bồng vay trả trả vay
Chí
làm trai nam bắc đông tây
Cho
phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể
(Nguyễn Công Trứ)
Người đẹp là người sánh ngang với sự hoàn mỹ của
vũ trụ và khiến trời đất cũng ghét ghen:
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém
xanh
(Kiều– Nguyễn Du)
Hoặc:
Chìm đáy nước cá lờ đờ lặn
Lửng lưng trời nhạn ngẩn ngơ sa
(Cung
oán ngâm– Nguyễn
Gia Thiều)
Con người vũ trụ luôn ứng xử theo quy luật tuần
hoàn của vũ trụ, âm dương tiêu trưởng. Tư tưởng đó là thiên mệnh. Thấm
nhuần tư tưởng trên, nên người quân tử “xuất xử”, “hành tàng” một cách ung
dung thanh thản: gặp tai biến không lo sợ sầu não, gặp vận may không vui
mừng đắc chí. Họ luôn sống theo khái niệm “Thời”, theo qui luật: bĩ tắc
thái, cùng tắc thông. Trong văn chương xưa, ta thường thấy hình ảnh
con người sống theo đạo trời, bước đi cùng tạo hóa. Họ khoan thai, ung
dung, hòa mình vào thiên nhiên; thậm chí muốn nhập hẳn vào vũ trụ:
Trên đồi có thông
Muôn dặm biếc mông lung
Ta thảnh thơi nằm ngủ bên trong
(Nguyễn Trãi)
Thời trung đại, con người chủ yếu sống bằng nông
nghiệp. Thế nên con người thường dựa vào tự nhiên, khai thác tự nhiên để sống.
Do vậy con người trung đại tin ở sự thống nhất trong thế giới. Thiên nhiên là
bạn tri âm tri kỷ của con người. Người phương Đông xưa quan niệm: thiên nhiên
có mối giao hòa giao cảm với con người bởi con người là một "tiểu vũ trụ" có quan
hệ tương thông tương cảm với "đại vũ trụ"- thiên nhiên ngoại giới (Thiên nhân tương cảm, thiên nhân tương dữ, thiên nhân tương chi, thiên
nhân hợp nhất). Con người là
một yếu tố trong mô hình vũ trụ: Thiên - Địa - Nhân hợp thành "Tam Tài". Con người
sống trong vòng "Thiên phú địa tái" (Trời che, đất chở).
Thế đứng của con người trong vũ trụ là "Đỉnh thiên lập địa" (Đầu đội
trời chân đạp đất). Do quan niệm con người và thiên nhiên có mối giao cảm đặc
biệt như thế nên thiên nhiên cũng là thiên nhiên hữu linh, hữu tâm, hữu
tình "Vạn vật hữu linh". b. Con người đạo
đức:
Thời cổ-trung đại, Người ta chưa phân biệt được
tâm và vật. người ta gán tâm cho vật. Vạn vật khách quan đều có tính chủ thể.
Thời gian, không gian đều có xấu tốt, độc lành. Toàn bộ xã hội được nhìn
nhận trong một hệ thống tôn giáo – đạo đức nhất định tùy theo từng khu vực
văn hóa.
Văn chương theo đấy mà phản ánh xã hội không phải
ở bình diện khách quan mà chủ yếu theo quan niệm đạo đức, luân lý. Nhân
loại phân hóa thành hai cực đạo đức và phi đạo đức. Nhân vật trong tiểu
thuyết cũng phân hóa thành hai tuyến: thiện và ác, chính và tà, trung và
nịnh, quân tử và tiểu nhân. Chủ đề đạo đức, khuynh hướng giáo huấn có tính
phổ biến đối với các loại tiểu thuyết, cổ tích thời trung đại:
Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình.
(Nguyễn Đình Chiểu)
Văn chương không nhằm mục đích nhận thức hiện thực
mà chỉ để chuyên chở đạo lý, đấu tranh cho đạo lý. Chức năng giáo dục của
văn học được đặt lên hàng đầu. Vì vậy, Các truyện Nôm đều kết thúc có hậu.
Văn chương gần như minh họa cho đạo đức, khẳng định triết lý: Ở hiền gặp
lành, ở ác gặp dữ; khuyên con người tích thiện, hành thiện.
Ai ơi lẳng lặng mà nghe
Dữ răn việc
trước, lành dè thân sau
(Nguyễn Đình Chiểu)
Hay:
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới
bằng ba chữ tài
(Nguyễn
Du)
Nhìn chung, con người trung đại quan niệm thế giới
có tính chất lưỡng nguyên. Họ cho rằng, cõi trần gian tội lỗi và cõi trời
cao cả thánh thiện. Hướng về cao cả, thánh thiện; nên văn chương thường
thiên về cái đẹp phi vật chất, phi tính dục, phi thân xác. Hình tượng văn
học chủ yếu được xây dựng bằng thị giác, thính gíác. Hình tượng vị giác,
nhất là xúc giác bị xem là thô tục, phi mỹ học.
Người Việt Nam từ xưa đến nay có truyền thống trọng
đạo, trọng văn. Thấu hiểu điều đó, các nhà văn Việt Nam, đặc biệt là các nhà
văn thời kì Trung đại đã biến truyền thống thành thế mạnh, đưa vấn đề đạo làm
người vào trong các áng thơ văn của mình như một điểm sáng để tìm kiếm tri âm.
Đặc biệt, thời kì văn học trung đại lớn lên trên nền xã hội phong kiến nên văn
chương trở thành một công cụ đắc lực để bảo vệ và duy trì trật tự xã hội. Chức
năng cơ bản của văn học thời kì này là “ văn dĩ tải đạo”. Các nhà văn, nhà thơ
đều là vua quan, quý tộc, kẻ sĩ, đều xuất thân từ cửa Khổng sân Trình nên họ
sáng tác văn chương là để đề cao đạo đức phong kiến. Đạo ở đây chủ yếu là các
vấn đề cơ bản của Nho giáo, là những lời răn dạy của đức Khổng – Mạnh. Tuy
nhiên, trong các sáng tác của mình, các nhà văn trung đại không chỉ phản ánh
một cách cứng nhắc, khiên cưỡng, đơn thuần tính quan phương mà còn lên tiếng
khuyến thiện trừ gian. Nguyễn Trãi có câu thơ:
Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược
Có nhân, có chí có anh hùng.
Ở đây, Nguyễn Trãi vừa cổ vũ cho quan niệm đạo đức phong
kiến, nhưng đồng thời thơ ông còn thể hiện tư tưởng: người quân tử phải luôn
hành đạo giúp đời, phải diệt trừ cái xấu, cái ác để “yên dân”. Sáng tác thơ văn không chỉ để chở đạo đức, đạo lý mà
còn làm ra thứ vũ khí để chiến đấu với kẻ gian tà, độc ác trong xã hội. Đó là
chính đạo trong văn chương.
Trong thời kì văn học trung đại, các nhà văn, nhà thơ
thể hiện lòng yêu thương con người với tất cả những gì nhân bản nhất. Nhiều tác
phẩm lên tiếng ca ngợi vẻ đẹp của con người, sẻ chia với nỗi thống khổ của
những con người bất hạnh, lên tiếng tố cáo các thế lực chà đạp lên giá trị của
con người và bênh vực quyền sống của con người. Các tác phẩm tiêu biểu là :
Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ, Sở kiến hành, Truyện Kiều, Văn tế thập loại
chúng sinh, Long Thành cầm giả ca của Nguyễn Du, Văn tế Trương Quỳnh Như của
Phạm Thái.... Mỗi tác phẩm là một khúc là một hồi chuông kêu cứu thống thiết
cất lên tự đáy lòng của nhà văn trước những mảnh đời bất hạnh, đặc biệt là
người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Lòng nhân thể hiện đầy đủ, hàm súc qua
hai câu mở đầu Truyện Kiều:
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trong thấy mà đau đớn lòng.
Tương tự chữ Nhân, Nghĩa cũng là một trong 5 điều quan
trọng mà đức Khổng Tử cho là hết sức cần thiết của mỗi người quân tử.
Nghĩa là ân nghĩa, ân tình, nghĩa khí, tri ân (trả ơn), thi ân (làm ơn,
phước) có tình nghĩa và cư xử tử tế với mọi người. Chế độ phong kiến đã cố định
hóa những nội dung này trong một số tư tưởng, mối quan hệ mang tính chính trị -
xã hội như: nhân nghĩa, nghĩa vua tôi, nghĩa tào khang.... Chữ Nghĩa ở
đây cũng ít nhiều mang tư tưởng giai cấp như chữ Nhân. Điều này thể hiện khá rõ
qua thơ văn Nguyễn Trãi.
c. Con
người phi cá nhân:
Trong văn học thời trung đại, con người cá nhân
chưa được quan niệm rạch ròi và xây dựng thành một hình tượng nghệ thuật. Đây
là một vấn đề có cơ sở xã hội của nó. Xã hội phong kiến, về phương diện
kinh tế, không dựa trên nền tảng cá nhân. Do vậy, con người chưa được nhìn
nhận như một cá nhân cá thể ý thức. Giá trị cá nhân không được xem xét từ
bản thân phẩm chất cá nhân mà ở vai trò của cá nhân trong mối quan hệ giai
tầng. Chính vì thế, trong văn chương, từ ứng xử đến tâm tư; từ tình yêu
đôi lứa đến tình yêu nước,… tất cả đều theo một chuẩn mực chung của đẳng
cấp.
Trong Thiền
uyển tập anh, hình tượng các
thiền sư được xây dựng là những con người đắc pháp thâm sâu, là những bậc minh
sư đạt đến lẽ huyền vi của Phật đạo. Do vậy, đó cũng chính là những con người
vô ngã giữa nhân gian.
Khi thấy được bản lai diện mục của mỗi người đều là vô
ngã, con người sẽ vô chấp, không còn bị chi phối bởi những dục vọng mê mờ vốn
làm điên đảo nhân sinh. Đó chính là lời kệ mà thiền sư Viên Chiếu căn dặn đệ tử
trước lúc thị tịch:
“Thân
như tường vách đã lung lay
Lật đật người đời những xót thay
Nếu được “lòng không” không sắc tướng
“Sắc” “không” ẩn hiện mặc vần xoay”
Hiểu được thân người cũng như “tường vách đã lung lay”,
có nghĩa xác thân này vốn do duyên mà kết thành, hết duyên thì tán rã, vậy sao
phải chấp vào thân xác, vào cái ngã của riêng ta? Hiểu được “tánh không” của
vạn pháp sẽ đem lại cho con người sự tự do tự tại giữa dòng phù thế, các lưỡng
cực “sắc”, “không” không còn chi phối người đạt đạo.
Cũng chính từ tư tưởng vô ngã, “vạn pháp giai không”
đó, thiền sư Bản Tịnh đã trao truyền tâm pháp cho đệ tử trước lúc thị tịch:
“Huyễn thân bản tự không tịch sinh
Do
như kính trung xuất hình tượng
Hình
tượng giác liễu nhất thiết không
Huyễn
thân tu du chứng thực tướng”
(Thân
huyễn vốn từ không tịch sanh
Dường
tựa trong gương hiện bóng hình
Hiển
rành hình tượng là không huyễn
Thân
huyễn phút giây chứng thực tướng)
Khi trực nhận được tất cả chỉ là “mộng huyễn bào ảnh”,
ngay cả thân ta cũng chỉ là huyễn mộng, thiền sư đạt đến cảnh giới “vô chấp”
vào vạn hữu, và ngay lúc đó, đã tìm thấy niết bàn ở chính cuộc trầm luân.
Con người trong Thiền
uyển tập anh không phải là
những người bình thường, những kẻ đang ngụp lặn giữa trầm luân, mà đó là những
bậc thiện tri thức đã giác ngộ viên mãn. Do vậy, hình ảnh con người liễu tri
sâu sắc về cuộc đời và nhân thế là nét nổi bật của quan niệm nghệ thuật về con
người trong Thiền
uyển tập anh.
Ngay những chuyện như sinh tử là đại sự ở đời, thiền sư
vẫn có cái nhìn về nó với cái tâm bình thường, có nghĩa là thiền sư đã vượt
thoát sinh tử ngay giữa vòng sinh tử:
“Hữu tử tất hữu sinh
Hữu
sinh tất hữu tử
Tử
vi thế sở bi
Sinh
vi thế sở hỉ
Bi,
hỉ lưởng vô cùng
Hốt
nhiên thành bỉ thử
Ư
chư sinh tử bất quan hoài
Úm
tô rô, úm tô rô tất rị”
(Thiền
sư Trì Bát)
(Có tử
thì có sinh - Có sinh thì có tử - Tử, người đời buồn rầu - Sinh, người đời mừng
rỡ - Buồn vui đều vô cùng - Đối nhau thành “kia”, “nọ” - Mọi điều “sinh”, “tử”
chẳng quan tâm - Um! Suru Suru Sre! - Hà Văn Tấn
dịch)
Nhân vật trong các truyện Nôm đều là những nhân
vật sắm vai, nghĩa là họ diễn các vai trò mà xã hội giao cho với những
nghi thức áp đặt bên ngoài. Tình yêu cũng đầy nghi thức. Tình yêu kị sĩ,
tình yêu của giai nhân tài tử đều có những nghi thức riêng. Như vậy, thời phong
kiến trung đại, con người cá nhân chưa được giải phóng về nhiều phương
diện. Con người sống đồng trục, đồng dạng về tư tưởng tình cảm. Con người xuất
hiện trong văn chương với mối quan hệ tình và nghĩa; nhưng không có màu
săc cá nhân.
Từ đó, những thủ pháp nghệ thuật miêu tả nội tâm
nhân vật trong tác phẩm cũng giống nhau. Các nhà văn thường sử dụng hành vi bên
ngoài và những dấu hiệu thân xác để diễn tả tâm tư nhân vật. Trần Hưng Đạo
giận quân xâm lược thì “nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm
đìa”. Kiều Nguyệt Nga thủy chung với Lục Vân Tiên thì họa hình người mình
yêu mà mang theo trên đường công Phiên. Thúy Kiều lo nghĩ, nhớ thương đến héo
hon, sầu não thì “khi vò chín khúc, khi chau đôi mày”.
Con người trong văn học chịu ảnh hưởng sâu đậm của tư
tưởng triết học, thần học mỗi thời. Đặc điểm chung dễ thấy của ý thức trung đại
là quan niệm về con người “vô ngã”. Trong triết học Lão – Trang, với các quan
niệm “tề vạn vật”, “đẳng thị phi”, “vật ngã đồng nhất”, Trang Tử kịch liệt phản
đối xem con người là trung tâm, nhất là xem con người cá nhân là trung tâm của
vũ trụ. Ông cho rằng cái tôi là một giới hạn trong không gian (vong ngã, vong kỷ, vong vật), đạt tới cõi “vật ngã lưỡng vong”, “vô kim cổ” thì
con người mới có thể hòa đồng với vũ trụ, sống một cuộc đời vô tận, vô cùng.
Điều này không có nghĩa là phủ định cá nhân một cách giản đơn, mà lại là một sự
khẳng định cá nhân trong giới hạn khác. Trang Tử khẳng định con người tự nhiên,
tự do, thoát khỏi luân lý và chính trị kiểu Nho giáo đầy trói buộc và nặng về
công danh.
“Vô ngã” là phạm trù lý thuyết, lý tưởng chung của tam
giáo chứ hoàn toàn không phải là thực tế tồn tại của con người. Văn học là lĩnh
vực ý thức về đời sống của con người. Do vậy, sẽ nhầm lẫn nếu lược quy con
người trong văn học vào các ô có sẵn của triết học. Văn học chịu ảnh hưởng sâu
sắc của các phái triết học, nhưng không đồng nhất với chúng. Con người sinh ra,
ai cũng có khác biệt, đẹp xấu, mạnh, yếu, tài trí, vụng về, hiền đức, độc ác,
những đặc điểm ấy cho người ta hiểu sự khác nhau về cá nhân như là cá tính, và
con người có nhu cầu tự khẳng định mình trong xã hội, trong tồn tại của chính
mình, do đó tất yếu dần dần có ý thức về cá tính. Nhưng cá tính ấy trong thời
đại ngự trị của các tư tưởng và chuẩn mực vô ngã thì chỉ được khẳng định theo
một trong hai hình thức : hoặc phấn đấu tự khẳng định mình trong các chuẩn mực
luân lý xã hội, trong bậc thang danh vị của mình ; hoặc tự khẳng định bằng
những biểu hiện phi chuẩn, siêu chuẩn. Trong trường hợp thứ nhất họ là những
anh hùng, quân tử, danh thần, tài nhân,… Trong trường hợp thứ hai họ là những
kẻ thị tài, độc tài, ngông ngạo hoặc điên khùng, si mê, ngốc nghếch. Đó là
những phạm trù biểu hiện cá tính đặc trưng của thời trung đại. Và hai con đường
đó không phải lúc nào cũng loại trừ nhau.
d. Con
người ý thức:
Những vấn đề quan niệm về con người trình bày ở
trên là xét về đại thể, xét trong một giai đọan văn học từ thế kỉ X-đầu thế kỉ
XVIII. Trong thực tiễn đời sống văn học, ở tác giả này, ở tác phẩm kia
không phải là không có con người cá nhân ý thức về cái tôi của mình. Nhất
là ở giai đọan cuối thế kỷ XVIII. Xã hội phong kiến Việt Nam cuối
thế kỷ XVIII rơi vào tình trạng khủng hỏang sâu sắc. Mọi chân giá trị của
xã hội bị đảo lộn hay băng hoại. Đây cũng là thời đại khởi nghĩa của nông
dân. Chính từ điều kiện xã hội ấy, ý thức cá nhân bắt đầu trỗi dậy. Con
người cá thể cảm thấy bị trói buộc nặng nề phi lý của đạo lý, của lễ giáo
phong kiến, của hệ thống ước lệ thẩm mỹ phong kiến.
Trong đời sống văn học, nhiều tác phẩm có tính
chất phản phong xuất hiện như Cung óan ngâm khúc, Truyện Kiều; nhiều tác
giả dõng dạc khẳng định cái tôi của mình như Hồ Xuân Hương, Phạm Thái, Cao
Bá Quát, Nguyễn Công Trứ,…
Có thể đơn cử thơ Hồ Xuân Hưong
để minh chứng cho điều đã nói ở trên. Hồ Xuân Hương là nữ sĩ đã đưa cái tôi
của mình vào thơ, đã trưng ra cá tính nổi loạn trên những trang viết của
mình. Hồ Xuân Hương đã làm vỡ tung hệ thống ước lệ nghiêm ngặt của văn học
trung đại.
Trong thơ Hồ Xuân Hương, những gì gọi là hiền nhân quân
tử đều bị phàm tục hóa, đời thường hóa. Họ cũng chẳng sang quý gì mà cũng
mỏi gối chồn chân, đã mỏi gối chồn chân nhưng vẫn cố trèo “Đèo Ba dội”,
cũng mụ mị ngắm nhìn “Cá giếc le te lội giữa dòng”, cũng:
Trai đu gối hạc lom khom cật
Gái uốn lưng ong ngữa ngữa
lòng.
(Đánh đu)
Hồ Xuân Hương đã lên tiếng đòi hỏi hạnh phúc cá nhân,
hạnh phúc cho người phụ nữ “Làm lẽ”. Nữ sĩ đã đem hạnh phúc ấy mà xô lệch
cái thế giới nghệ thuật trang nghiêm, đạo mạo của các đấng, bậc Hán học;
để khẳng định một chất nhân văn mới, một hình thức nghệ thuật mới cho
thơ.
Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương đã quệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi.
(Mời trầu)
Hồ Xuân Hương đã lấy trực cảm nghệ thuật mà khám phá và
tái hiện tạo vật thế giới, xây dựng nên một vũ trụ thơ ca ngồn ngộn sắc
màu, thanh âm, đường nét sống động, tươi rói sự sống. Đấy là một thế giới
bộc lộ trọn vẹn tình cảm của nữ sĩ:
Trước nghe những tiếng thêm rầu
rĩ
Sau giận vì duyên để mỏm mòm
Tài tử văn nhân ai đó tá ?
Thân này đâu đã chịu già tom !
(Tự tình I)
Cũng có thể thấy ở thơ Nguyễn Công Trứ con người cá
nhân ý thức. Nguyễn Công Trứ chủ trương hưởng lạc để khẳng định bản thể
của cá nhân. Hưởng lạc là sự tự khẳng định cá nhân mình trong thời gian
hữu hạn. Do vậy, ta hiểu vì sao nhà thơ không dùng khái niệm “Trăm năm” mà
dùng “Ba vạn sáu nghìn ngày”. Nhưng cần phải thấy rõ, hưởng lạc của Nguyễn Công
Trứ nằm trong phạm vi thể hiện cái tài tình của cá nhân: “Bài ca ngất
ngưỡng” hay:
Chen chúc lợi danh đà chán ngắt
Cúc tùng phong
nguyệt mới vui sao
hoặc:
Được mất dương dương người
tái thượng
Khen chê phơi
phới ngọn đông phong
Nhìn chung, với Nguyễn Công Trứ, ý thức cá nhân được
khẳng định với ba phạm trù: công danh, cái nhàn hưởng lạc và cái ta hơn
người, cái riêng tư tự hào, tự cho là đủ. Tất cả tạo nên một con ngươi cá
nhân trong thơ hài hòa, tự tin, phong lưu, tự do, đứng trên mọi sự tính
tóan được mất khen chê. Đấy là bước phát triển cao nhấy của ý thức cá nhân
mang nội dung phong phú, hài hòa trong văn học Việt Nam thời trung
đại.
Có thể nói thế kỷ XVIII đã xảy ra một bước ngoặt lớn
trong quan niệm con người cá nhân, làm nở rộ một dòng văn học nhân đạo, khác
với văn học nhân nghĩa là chủ đạo trước đó. Bước ngoặt làm đổi thay giá trị con
người ấy là : Trước thế kỷ XVIII cá nhân chỉ được đánh giá trong thang bậc đạo
lý, nghĩa lý, lý trí và ở sức mạnh tinh thần, con người càng có nghị lực vươn
lên bao nhiêu, càng khắc phục cá nhân nhỏ bé, phàm tục bao nhiêu thì càng có
giá trị. Bởi vì nghĩa lý, đạo lý, giáo lý là cái thiện, còn mọi thứ dục,
lục dục, nhân dục, nhất là tình dục đều là cái ác. Bây giờ tình hình lật ngược
lại. Quyền sống của con người trần thế, giá trị con người thân xác với bao thứ
“dục” chính đáng của nó là trung tâm điểm của giá trị. Bất kỳ cái gì chà đạp
giá trị ấy, quyền sống ấy thì đều là cái ác, cái xấu, cái đáng oán hận.
Con người cá nhân xuất hiện bao giờ cũng là một sự phân
hoá khỏi cái chung, sự hiện diện những nhu cầu vượt khỏi khuôn khổ chung của xã
hội. Trong văn học trung đại, khi con người là một bộ phận của đẳng cấp, gia
tộc, bị đồng nhất trực tiếp vào cộng đồng, tự cảm thấy các thuộc tính của cộng
đồng ấy như là thuộc tính tự nhiên của chính mình, thì con người chưa thể có ý
thức về con người cá nhân. Người ta bắt đầu cảm thấy được số phận và thực thể
cá nhân khi nào bị tách rời ra khỏi cộng đồng ấy.
Truyện Kiều là đỉnh cao về quan niệm con người cá nhân trong
văn học cổ điển Việt Nam với nhiều bình diện phong phú nhất, phức tạp nhất. So
với con người cá nhân trong giai đoạn văn học trước, với con người trong Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, thơ Hồ Xuân Hương,… có thể nói đây là tập đại thành về
quan niệm con người cá nhân của thời đại.
II. Một số đặc
điểm của thơ Đường luật cần lưu ý khi đọc – hiểu thơ trữ tình trung đại
Trong chương trình Ngữ văn THPT, học sinh
được tiếp cận các văn bản thơ trung đại chủ yếu là theo hình thức thơ Đường
luật với các thể thơ: ngũ ngôn, thất ngôn với số dòng là tứ tuyệt, bát cú. Bởi
vậy, để học sinh có thể hiểu và cảm thụ văn bản thơ trữ tình trung đại sâu sắc,
trước hết chúng ta phải hướng dẫn học sinh nắm được một số đặc điểm cơ bản của
thể thơ này. Trong chuyên đề này người viết xin được điểm qua một số đặc điểm
cơ bản của thể thơ Đường luật để làm “chìa khóa” cho học sinh trong quá trình
tiếp nhận.
1. Về phương diện nội dung:
- Cảm hứng thiên nhiên trữ
tình: Tình yêu đối với thiên nhiên tạo vật, quê hương đất nước… thể
hiện qua các bài thơ ca ngợi phong cảnh hùng vĩ, tráng lệ với vẻ đẹp bốn mùa
cây cỏ lá hoa non xanh nước biếc…
- Cảm hứng nhân đạo: phản ánh nỗi
thống khổ của nhân dân vì chiến tranh, loạn lạc, cơ hàn; nói lên lòng khát khao
hạnh phúc hòa bình; ngợi ca tình nghĩa vợ chồng, bằng hữu…
- Ngoài ra còn có cảm hứng khác
như ca ngợi thú tiêu dao, nhàn tản, nói về sinh hoạt nơi đồngquê hay các
thú vui tao nhã cầm kì thi họa của các bậc mặc khách tao nhân.
2. Về phương diện nghệ thuật:
2.1.
Thể thơ:
a. Thể thơ Đường luật: thơ Đường với những quy định
chặt chẽ
* Số câu:
- Tứ tuyệt: 4 câu
- Bát cú: 8 câu
- Trường cú: 10 câu trở lên
* Số tiếng: ngũ ngôn, thất ngôn
* Luật thơ: quy định trên nhiều
phương diện
- Luật phối thanh: sự phối hợp
thanh điệu ở các tiếng trong câu thơ một cách hài hòa
+ Trong một câu (7 tiếng): theo
quy định “nhị, tứ, lục phân minh” (đối nhau về thanh); “nhất, tam, ngũ bất
luận” (tiếng thứ 5 và tiếng thứ 7 phải trái dấu ngược thanh)
+ Trong hai câu thơ liền nhau:
Nếu cùng cặp (đề, thực, luận,
kết): đối nhau về thanh (2/4/6)→luật
Khác cặp (2-3, 4-5, 6-7, 8-1):
dính nhau, lặp lại thanh →niêm
+ Điệu thơ: quy định bằng tiếng
thứ 2 của câu thứ nhất, có 2 điệu cơ bản (điệu bằng, điệu trắc)
- Vần điệu:
+ Đúng luật: vần chân nằm ở tiếng
cuối cùng của các câu 1, 2, 4 (thơ tứ tuyệt); tiếng cuối của các câu 1, 2, 4,
6, 8 (thơ bát cú)
+ Phá luật: vần bằng
- Nhịp thơ, cách ngắt nhịp: nhịp
cuối trong câu thơ là nhịp lẻ (4/3, 2/2/3, 2/2/2/1)
- Tính cân đối nổi bật trong thơ
Đường: đối giữa 4 câu giữa của bài thơ bát cú (cặp câu thực, luận): đối ý, đối
lời (cùng kiểu từ loại, kiểu kết hợp), đối thanh điệu
b. Thơ cổ phong: 2 loại
- Trường cú Đường luật (thể
hành): có vần, có luật riêng
- Cổ phong (phú): có vần, không
chặt chẽ về luật
c. Từ: kết hợp với âm nhạc
2.2.
Ngôn ngữ thơ
- Ngắn gọn, quy định số lượng
câu, tiếng theo đặc trưng thể loại, hàm súc, cô đọng, tinh luyện, công phu
- Đơn giản, phổ biến, giản dị,
sâu sắc, có nhiều sức gợi mở
2.3. Tứ
thơ: Sự
kết hợp giữa hình ảnh thơ với ý nghĩa thơ
- Cấu tứ nghệ thuật: dựa trên các
mối quan hệ giữa các sự vật, các trạng thái tình cảm (tương phản, tương đồng):
xưa- nay, mộng- thực, tiên- tục, cảnh- tình, sống- chết, không gian- thời gian,
vô hạn- hữu hạn
- Thơ ca nói chung cũng như thơ
Đường nói riêng, nó không nói hết, không nói trực tiếp ý mình muốn nói mà để
cho người đọc cùng suy nghĩ, cùng sáng tạo. Chính đặc điểm này đã tạo nên cái
gọi là “ý tại ngôn ngoại”, “ngôn tận ý bất tận”. Nói gọn lại: chính đặc điểm
này mà thơ Đường cô đọng, súc tích, giàu tính biểu tượng. Nó gợi mà không tả để
tạo nên một môi trường liên tưởng rộng. Vậy, ta giúp học sinh tham gia đồng
sáng tạo cùng tác giả, học sinh cảm nhận được cái mạch ngầm của những tác phẩm
thơ ca.
2.4.
Bút pháp: chấm
phá, gợi kể là chính, kị tả thực
- Chọn lọc hình ảnh có tính biểu
tượng cao
- Chọn lọc những thủ pháp nghệ
thuật độc đáo
- Điểm nhìn linh hoạt
Trong
quá trình dạy học thơ trung đại, giáo viên và học sinh cần bám sát vào kết cấu
của các thể thơ Đường luật quen thuộc để tìm hiểu giá trị của tác phẩm:
|
Thất ngôn
tứ tuyệt
|
Thất ngôn bát cú
|
Tác dụng
|
Phần 1
|
Khai (Câu 1)
|
Đề (Câu 1-2)
|
Giới thiệu vấn đề, khơi gợi hoàn cảnh, tâm trạng…
|
Phần 2
|
Thừa (Câu 2)
|
Thực (Câu 3-4)
|
Giải thích, triển khai vấn đề
|
Phần 3
|
Chuyển (Câu 3)
|
Luận (Câu 5-6)
|
Bàn luận ý nghĩa, nhận thức về vấn đề… Đặc biệt với thể thất ngôn tứ
tuyệt, câu 3 như một “bản lề” khép mở hai vấn đề, hai tâm trạng, là bước
chuyển về cảm xúc của tác giả.
|
Phần 4
|
Hợp (Câu 4)
|
Kết (Câu 7-8)
|
Tóm tắt ý nghĩa, bày tỏ thái độ, tình cảm của người viết
|
III. Một số phương pháp rèn kỹ năng cảm thụ thơ
trung đại cho học sinh THPT
Từ thực tế dạy
học thơ trung đại trong chương trình Ngữ văn THPT, người viết đề xuất một số
phương pháp để học sinh nâng cao khả năng cảm thụ thơ trung đại, đặc biệt đối
với học sinh lớp chuyên Văn.
1. Tìm hiểu kĩ về tác giả, về hoàn cảnh ra đời của tác phẩm:
Dạy thơ trung đại, cần lưu ý xác
lập một cái nhìn biện chứng và lịch sử. Các tác phẩm văn học trung đại được
sáng tạo và truyền bá trong những hoàn cảnh lịch sử nhất định. Tựu chung những
truyền thống tốt đẹp, những tinh hoa của cuộc sống văn hoá, tinh thần của dân
tộc đã in đậm dấu ấn trên những tác phẩm này. Nếu không đặt tác phẩm trong
mối liên hệ với hoàn cảnh lịch sử, bản thân tác giả.... nhiều khi chúng ta
không thể hiểu, lí giải chính xác và thấu đáo những vấn đề trong tác phẩm.
Khi hướng dẫn học sinh cảm thụ văn
học trung đại cần cho học sinh tìm hiểu kĩ về tác giả (thời đại, quê hương, gia
đình, bản thân con người) để hiểu về những “tư tưởng” mà nhà thơ gửi gắm qua
tác phẩm. Ví dụ khi dạy bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm cần cho học sinh
thấy được Nguyễn Bỉnh Khiêm là con người thẳng thắn, cương trực, có học vấn
uyên thâm, hiểu lí số, có tấm lòng ưu thời, mẫn thế, yêu nước, thương dân thì
khi tìm hiểu về bài thơ học sinh sẽ thấy được vẻ đẹp cuộc sống thanh cao, đạm
bạc, nhân cách đẹp và trí tuệ sáng suốt, uyên thâm của Nguyễn Bỉnh Khiêm với
quan niệm sống “nhàn”.
Bên cạnh đó việc tìm hiểu về hoàn
cảnh ra đời tác phẩm cũng hết sức quan trọng để học sinh nhận thức rõ mạch cảm
xúc chủ đạo nào xuyên suốt văn bản. Ví dụ các tác phẩm văn học ra đời trong
thời kì từ thế kỉ X đến XIV cảm xúc chủ đạo sẽ là cảm hứng yêu nước với âm
hưởng hào hùng ngợi ca gắn liền với các cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại được
thể hiện trong Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão, Quốc tộ của Đỗ Pháp Thuận…
2. Phân tích, cảm nhận văn bản từ đặc trưng thể loại:
Cần cho học sinh tìm hiểu về thể
loại và đặc trưng của từng thể loại. Mỗi thể loại văn học trung đại nói chung,
thơ trung đại nói riêng có dạng thức tồn tại và phương thức biểu đạt nhất định.
Phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại là đi vào thi pháp - đi lại con
đường của người sáng tác để có thể thâm nhập và hiểu tác phẩm được dễ dàng.
Cần cho học sinh nắm được thi pháp
của thơ trung đại và những đặc điểm của thơ Đường luật (phần I và II của chuyên
đề) để học sinh có được “chìa khóa” giải mã văn chương trong các tác phẩm. Đặc
biệt, đối với các văn bản viết bằng chữ Hán cần lưu ý hướng dẫn học sinh đọc kĩ
bản dịch nghĩa và bản dịch thơ. So sánh đối chiếu giữa phiên
âm và dịch thơ để phát hiện những chữ
dịch hay, thoát ý, sát ý và những chữ chưa dịch hay, thoát ý, sát ý. Từ đó lưu ý
học sinh để trong quá trình phân tích cần phát hiện để hiểu đúng, hiểu sâu văn
bản.
Ví dụ:
Trong bài “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ
Lão ở câu 1 chữ “ Hoành sóc”- cắp ngang
ngọn giáo gợi tư thế chủ động, tự tin, điềm tĩnh của con người có sức mạnh nội
lực đã được dịch thành
“múa giáo”- gợi trình độ thuần thục của nghề cung
kiếm trong thao tác thực hành, có chút phô trương, biểu diễn. Bản dịch chưa đạt
do dịch giả muốn giữ đúng luật thơ- nhị tứ lục phân minh( tiếng thứ 2,4,6 đối
thanhT-B-T)
Khi dạy bài thơ “Độc Tiểu Thanh kí” của Nguyễn Du, sau khi cho học sinh xác
định thể thơ, giáo viên yêu cầu nhắc lại đặc điểm thể thơ thất ngôn bát cúa
Đường luật, từ đó các em bám vào đặc trưng thể loại để tìm hiểu tác phẩm.
- Về số
chữ trong câu, số câu trong bài: Bài thơ có tám câu, mỗi câu có bảy chữ.
- Về vần: Độc vận, vần chân ở cuối câu một và
các câu chẵn và là vần bằng.
- Về đối: Hai câu thực và hai câu
luận thường đối nhau. Có khi đối ngay ở hai câu đề và trốn đối ở hai câu thực
và hai câu luận.
-
Về niêm: Niêm nghĩa là dính. Câu một niêm với câu tám, câu hai niêm với câu ba,
câu bốn niêm với câu năm, câu sáu niêm với câu bảy.
- Về luật: Theo hệ thống thanh ngang.
Cho phép: “ Nhất tam ngũ bất luận” và buộc phải: “ Nhị tứ lục phân minh”. Có
luật bằng vần bằng và luật trắc vần bằng.
3. Khai thác các tầng ý
nghĩa sau những ngôn từ hàm súc:
Thơ Đường luật vốn ngắn gọn, hàm
súc, cô đọng trong từng câu chữ. Mỗi chữ đều dồn nén trong đó nhiều lớp nghĩa,
mỗi bài đều có “nhãn tự” – mắt thơ. Bởi vậy nếu chỉ đọc và suy diễn qua loa sẽ
không thể hiểu, cảm thụ hết giá trị của tác phẩm. Cần đọc chậm, đi sâu từng
bước và thường xuyên đọc đi đọc lại để suy ngẫm.
Ví dụ khi tìm hiểu từ “thơ thẩn” và từ “ai” trong câu thơ:
Thơ thẩn
dầu ai vui thú nào
( Nhàn- Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Cần
phải hiểu “thơ thẩn” là trạng thái mơ màng, mông lung, nghĩ ngợi không tập
trung; trong bài thơ, từ “thơ thẩn” chỉ lối sống riêng của tác giả: thư thái,
thanh nhàn. Đại từ phiếm chỉ “ai” chỉ người đời, những kẻ bon chen trong vòng
danh lợi.
Ngôn ngữ thơ Trung đại ảnh hưởng
ngôn ngữ của Đường thi, các bài thơ tuyệt cú, bát cú dùng rất ít chữ. Cho nên người làm thơ Đường coi
trọng từng chữ một. Ngôn ngữ thơ Đường bao giờ cũng súc tích, công phu, điêu
luyện. Khi khai thác thơ trung đại, chúng
ta cần chú ý đến hệ thống từ ngữ được sử dụng, đó là các tính từ, các từ láy
gợi hình gợi cảm, các động từ, các hình ảnh thơ... để thể hiện sâu sắc, rõ nét
bức tranh cảnh và bức tranh tâm trạng của nhân vật trữ tình.
4. Cần chú ý tính tích hợp trong môn Ngữ Văn.
Tích hợp là sự kết hợp biện chứng
giữa các yếu tố bộ môn Ngữ văn, bao gồm phần Văn – Tiếng việt – Làm văn. Thực
tế chứng minh rằng, bộ môn ngữ văn rất cần quá trình tích hợp. Vì vậy, trong
mỗi giờ ngữ văn, giáo viên cần nhấn mạnh yêu cầu này để hiệu quả bộ môn ngữ văn
ngày càng được nâng cao. Đặc biệt, việc tích hợp sẽ góp phần rèn luyện các kỹ
năng cơ bản là: nghe, nói, đọc, viết cho học sinh theo mục tiêu của môn học.
- Tích hợp ngang giữa các phân môn-
văn, tiếng Việt , tập làm văn.
- Tích hợp dọc nội dung học tập
đồng tâm giữa các khối lớp.
- Tích hợp giữa môn Ngữ văn với các
môn học khác như: Lịch sử, Địalý...
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Như trong phần lí do chọn đề tài đã từng nói: Cảm nhận thơ Đường, thơ
Đường luật là một vấn đề khó; nhưng tổ chức, hướng dẫn để học sinh cảm nhận
được nó lại là một vấn đề còn khó hơn. Nó đòi hỏi người giáo viên đứng lớp phải
công phu và thực nghiệm. Là giáo viên trực tiếp giảng dạy bản thân tôi đã tìm tòi, học hỏi và nghiên cứu tài
liệu để từ đó đúc kết thành kinh nghiệm về phương pháp tiếp cận và cảm thụ các
tác phẩm thơ trung đại Việt Nam. Dù
sao đi nữa, đây cũng chỉ là một kinh nghiệm của một
cá nhân nên không thể nào tránh khỏi những sai sót nhất định. Kính mong các
thầy cô giáo và đồng nghiệp góp ý kiến chân thành để chuyên đề này hoàn thiện
hơn!