RÈN KỸ NĂNG ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN VĂN HỌC NGOÀI CHƯƠNG TRÌNH CHO HỌC SINH CHUYÊN VĂN
RÈN KỸ NĂNG ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN VĂN
HỌC
NGOÀI CHƯƠNG TRÌNH CHO HỌC SINH
CHUYÊN VĂN
MỤC
LỤC
Phần
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
I.
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
II.
LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
III.
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
IV.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
V.
CẤU TRÚC ĐỀ TÀI
PHẦN
2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.
CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. LÍ THUYẾT VỀ ĐỌC –
HIỂU
1.1
Khái niệm và phân loại văn bản
1.2
Văn bản văn học
1.3
Đọc – hiểu văn bản văn học
2. CÁC BƯỚC ĐỌC HIỂU
VĂN BẢN VĂN HỌC
2.1
Đọc – hiểu ngôn từ
2.2
Đọc – hiểu hình tượng nghệ thuật
2.3
Đọc – hiểu tư tưởng, tình cảm của tác giả trong văn bản văn học
2.4
Đọc – hiểu và thưởng thức văn học
3. PHƯƠNG PHÁP ĐỌC – HIỂU
VĂN BẢN VĂN HỌC
II.
RÈN KỸ NĂNG ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN NGOÀI CHƯƠNG TRÌNH CHO HỌC SINH CHUYÊN VĂN
1. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ ĐỌC
- HIỂU TÁC PHẨM VĂN HỌC CỦA HỌC SINH THPT VÀ HỌC SINH CHUYÊN VĂN
1.1
Những bất cập từ phía người dạy
1.2
Những hạn chế từ phía người đọc
2. CÁC NGUYÊN TẮC CHUNG
KHI ĐỌC HIỂU VĂN BẢN VĂN HỌC NGOÀI SÁCH GIÁO KHOA
2.1 Nguyên tắc 1: Đảm bảo học sinh được tiếp cận nguồn văn bản đa dạng về thể loại, phù
hợp với khả năng, nhu cầu, hứng thú đọc hiểu.
2.2.
Nguyên tắc 2: Xây dựng bộ tri thức công cụ đọc
văn cho học sinh chuyên Văn.
2.3
Nguyên tắc 3: Đảm bảo học sinh được thực hành các bước đọc hiểu văn bản phù
hợp với đặc trưng thể loại
3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP CỤ
THỂ RÈN KỸ NĂNG ĐỌC – HIỂU VĂN VĂN NGOÀI CHƯƠNG TRÌNH ĐỐI VỚI HỌC SINH CHUYÊN
VĂN
3.1 Sử dụng chiến thuật đọc – hiểu
3.2. Hướng dẫn học sinh tạo lập và sử dụng hiệu quả hồ sơ đọc
3.3 Hướng dẫn và hỗ trợ việc tự đọc
3.4 Đưa một số
văn bản văn học ngoài chương trình vào chương trình học:
III. MỘT VÀI KẾT
QUẢ VẬN DỤNG ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN VĂN HỌC NGOÀI CHƯƠNG TRÌNH
PHẦN
3. KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN 1. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.
Đọc hiểu là một trong những hoạt động cơ bản của
con người nhằm mục đích chiếm lĩnh tri thức văn hóa, từ khi có chữ viết, loài
người đã có thể ghi lại lịch sử văn minh của mình, do đó, các sản phẩm thành
văn tự cổ chí kim đều mang dấu ấn của thời đại, là nguồn tri thức văn hóa vô tận
được hun đúc trong từng con chữ. Dù ngày nay, hoạt động đọc đã không còn là con
đường duy nhất, song vẫn luôn là con đường chủ yếu giúp con người có được sự hiểu
biết về thế giới. Khái niệm đọc hiểu (comprehension reading) có nội hàm khoa học
phong phú với nhiều loại hình văn bản khác nhau, trong đó, hoạt động đọc hiểu
tác phẩm văn chương có một ý nghĩa và vị trí vô cùng đặc biệt so với các loại
văn bản khác. Bởi văn học là nhân học, đọc văn không chỉ để hiểu văn mà “văn học còn giúp con người hiểu được bản
thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng
hướng tới chân lý” (M.Gorki). Mặt khác việc đọc – hiểu văn bản văn chương
cũng có những yêu cầu và cách thức riêng không thể giống như việc anh đọc – hiểu
văn bản báo chí, khoa học hay hành chính – công vụ, thực chất đó là một hoạt động
giao tiếp với thế giới văn chương, đó còn là một hoạt động mang tính thưởng thức
biết bao cái hay, cái đẹp mà loài người đã kết tinh trong các văn bản nghệ thuật.
Đọc – hiểu tác phẩm văn học không chỉ góp phần giúp con người phát triển toàn
diện các năng lực tinh thần của mình mà còn có tác động đến quá trình hoàn thiện
nhân cách, bồi dưỡng những phầm chất đáng quý và làm đời sống tinh thần của mỗi
người rộng mở và phong phú biết bao nhiêu.
2.
Môn học Ngữ văn trong chương trình THPT là bộ môn liên quan trực tiếp đến hoạt
động đọc hiểu văn bản văn học của học sinh. Tất nhiên môn ngữ văn không chỉ có
đọc văn, ngoài ra còn làm văn, học các kiến thức bổ trợ khác, nhưng đọc văn vẫn
là khâu quan trọng nhất, gắn liền với việc bồi dưỡng năng lực đọc văn, thẩm
văn, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, nhân cách cao đẹp. Tuy nhiên một thời gian rất
dài nước ta môn văn được gọi là “Giảng văn”, sách dạy văn được gọi là “Văn học
trích giảng” , “Văn học giảng luận”. Trong cách hiểu như vậy giảng văn chủ yếu
là công việc của thầy. Giá trị của các bài giảng văn, cũng như vị trí, vai trò
của thầy trên lớp và lời giảng của thày là điều không phải bàn cãi, nhưng rõ
ràng là vị trí của trò trong môn học văn hoàn toàn là một
vị trí bị động, trong khi thực chất dạy văn là dạy
cho học sinh năng lực đọc, kỹ năng đọc để học sinh có thể đọc – hiểu bất cứ văn
bản nào cùng loại. Từ đọc hiểu văn mà trực tiếp nhận các giá trị văn học, trực
tiếp thể nghiệm các tư tưởng và cảm xúc được truyền đạt bằng nghệ thuật ngôn từ,
hình thành cách đọc riêng có cá tính. Đó là con đường duy nhất để bồi dưỡng cho
học sinh năng lực của chủ thể tiếp nhận thẩm mỹ (Theo GS Trần Đình Sử). Do đó
hiểu bản chất môn văn là môn dạy đọc văn vừa thể hiện cách hiểu thực sự bản chất
của văn học, vừa hiểu đúng thực chất việc dạy văn là dạy năng lực, phát triển
năng lực là chủ thể của học sinh. Trong những năm trở lại đây, việc dạy Ngữ văn trong nhà
trường phổ thông đã có nhiều đổi mới, chú trọng hoạt động đọc – hiểu văn bản
văn chương của học sinh, trả lại cho bộ môn đúng vai trò thiên chức
của mình. Đó là những cơ sở quan trọng giúp học sinh THPT nói chung và học sinh
chuyên văn nói riêng được rèn luyện, hình thành tư duy, kỹ năng đọc hiểu các
văn bản văn học trong và ngoài chương trình sách giáo khoa.
3.
Riêng với đối tượng học sinh chuyên văn THPT, việc đọc hiểu văn bản văn học
không thể chỉ dừng lại ở phạm vi các tác phẩm trong chương trình sách giáo
khoa. Để có được kiến văn sâu sắc, suy tư đa chiều, nghị luận sắc bén, vốn sống
phong phú... đúng với tầm vóc học sinh giỏi văn, hoạt động đọc – hiểu tác phẩm
ngoài chương trình là một đòi hỏi tất yếu. Hoạt động này có thể là tự phát do
niềm say mê, ham thích của học sinh chuyên văn, song sự định hướng, hướng dẫn,
rèn kỹ năng của giáo viên là điều cần thiết, để học sinh trong một dung lượng
thời gian hữu hạn có thể đào sâu tối đa năng lực đọc – hiểu của mình. Tiếp cận
những tác phẩm văn học ngoài chương trình, nhất là những tác phẩm đương đại, sẽ
mang đến hơi thở tươi mới cho những bài viết văn, cho tư duy cảm xúc văn chương
và sự sáng tạo của học sinh chuyên văn. Hơn thế nữa, phối kết hợp việc đọc hiểu
các văn bản trong và ngoài chương trình, không chỉ nhằm mục đích đọc văn, làm
văn, mà quan trọng hơn, đó là học cách tư duy, học cách cảm nhận, học cách sống
làm người!
Với
những lý do kể trên, người viết đã tiến hành tìm hiểu và đúc rút một số kinh
nghiệm về việc rèn kỹ năng đọc hiểu tác phẩm ngoài chương trình cho học sinh
chuyên văn THPT. Chuyên đề là kết quả của những kinh nghiệm cá nhân còn non nớt
cùng với sự tham khảo ý kiến, sách vở tài liệu từ các chuyên gia và đồng nghiệp,
hy vọng có thể hữu ích đôi chút trong việc dạy – học Ngữ văn cho học sinh
chuyên!
II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Đọc
hiểu là một kĩ năng quan trọng trong số các kĩ năng sử dụng ngôn ngữ của nhân
loại, bởi vậy đọc hiểu văn bản cũng là một nội dung thu hút nghiên cứu của rất
nhiều nhà khoa học giáo dục và các nhà ngôn ngữ học trên thế giới cũng như ở
nước ta, đặc biệt là trong khoảng mấy chục năm trở lại đây.
Có hoạt động sản sinh ra văn bản, nghĩa là có
hoạt động đọc để tiếp nhận nó. Người ta đọc văn bản từ những chất liệu sơ khai
in dấu chữ viết: đã, mai rùa, xương thú, lá cây... cho đến các thành tựu của
công nghệ in ấn và ngày nay là sách điện tử.
Tác
phẩm nào, thơi đại nào cũng có người đọc của nó, ngay cả khi viết kí hay nhật
kí, thì hình thức đó cũng nhằm hướng tới một đối tượng tiếp nhận cụ thể là
chính mình, bởi thế, khi bàn đến câu chuyện văn chương, không thể thiếu gương
mặt của người đọc.
Lĩnh vực đọc
– hiểu trên thế giới đến nay đã có một lịch sử nghiên cứu bề thế và đạt
được
nhiều thành tựu lớn. Không
ít những công trình mang tính chất tổng thuật với dung lượng lớn đến bảy, tám trăm trang; thậm chí có những bộ tổng thuật được biên tập thành các tập để cập nhật, bổ sung những nghiên cứu mang tính thời sự, mỗi tập cũng với dung lượng lớn, đã chứng tỏ được sức hấp dẫn, đa diện của vấn
đề cũng như tâm lực của các nhà nghiên cứu. Ví dụ, bốn tập của cuốn Handbook of Reading
Research được P. David Pearson và các cộng sự biên tập
gồm: tập 1 (NXB Psychology Press, 1984) với 899 trang; tập 2 (NXB Psychology Press, 1996) với
1086 trang; tập 3 (NXB Lawrence
Erlbaum
Associates, 2000) với 1010 trang; tập 4
(NXB Taylor & Francis, 2010) với 774 trang. Đó là chưa kể đến sự nở rộ của những trang
web, những hiệp hội, những tổ chức tầm quốc gia và quốc tế có nội dung
chính và tên miền liên
quan trực tiếp tới đọc – hiểu, hỗ trợ đọc – hiểu.
Ở
Việt Nam, thuật ngữ đọc – hiểu xuất hiện trong chương trình SGK phổ thông từ
năm 2000, 2002, thể hiện sự đổi mới tư tưởng dạy học văn. Các nghiên cứu về đọc
– hiểu vì thế có tâm điểm từ nội dung dạy học văn trong nhà trường. Còn không
ít những băn khoăn, thậm chí không đồng tình với khái niệm này khi nó được sử dụng
thay thế cho thuật ngữ “giảng văn”. Nhìn chung, lĩnh vực nghiên cứu đọc – hiểu
trong nước vẫn cần thêm nhiều công trình nghiên cứu sâu rộng cả ở phương diện
lí thuyết và thực tiễn. Mặc dù vậy, phải khẳng định, trong vòng hơn một thập kỉ
qua, với sự đóng góp tích cực của những tác giả tiêu biểu như Nguyễn Thanh
Hùng, Trần Đình Sử, Nguyễn Thái Hòa, Nguyễn Thị Hạnh, Phạm Thị Thu Hương, Nguyễn
Thị Hồng Nam…cùng với một số nhà nghiên cứu khác, “diện mạo” của đọc hiểu trong
khoa học giáo dục đã được xác định rõ nét ở các quan niệm và đường hướng lí
thuyết cơ bản. Tiếp thu các thành tựu nghiên cứu trên thế giới, các nhà nghiên
cứu về đọc hiểu ở Việt Nam nhận thức, phân tích làm sáng tỏ bản chất phức tạp của
hoạt động đọc hiểu ở nhiều bình diện như
bình diện nhận thức, bình diện tâm lí, bình diện văn hóa, bình diện sư phạm.
Khái niệm đọc – hiểu còn được xem xét qua các góc độ khác nhau như: những khái
niệm then chốt về đọc – hiểu; phản ứng và đáp ứng trong quá trình đọc – hiểu;
mô hình lí thuyết đọc – hiểu; kĩ năng đọc hiểu... Trong đó, các tác giả đặc biệt
quan tâm tới nội dung đọc – hiểu tác phẩm văn chương trong nhà trường – “một dạng đọc - hiểu vô cùng đặc biệt và phức
tạp”, “hầu như chưa được nghiên cứu công phu, thích đáng và có được những kết
luận tin cậy”. Ở dạng đọc – hiểu này, vai trò sáng tạo, tích cực của người
đọc, trong đó có bạn đọc HS, được thể hiện rõ nét hơn bao giờ hết:“Bản chất của hoạt động đọc - hiểu văn là quá
trình lao động sáng tạo mang tính thẩm mĩ nhằm phát hiện ra những giá trị của
tác phẩm trên cơ sở phân tích đặc trưng văn bản” ; “đọc văn chương là đọc cái
chủ quan của người viết bằng cách đồng hóa tâm hồn, tình cảm, suy nghĩ của mình
vào trang sách”; “hiểu tác phẩm văn chương là phát hiện ra và đánh giá mối quan
hệ hữu cơ giữa các tầng cấu trúc trên, trong tính chỉnh thể và toàn vẹn của tác
phẩm”. (Theo Nguyễn Thanh Hùng (2008),
Đọc – hiểu tác phẩm văn chương trong nhà trường, NXB Giáo dục, Hà Nội). “Mỗi lần đọc, mỗi cách đọc chỉ là một chặng trên con đường chạy
tiếp sức của biết bao độc giả để đến với tác phẩm… Mọi người đọc đều có cơ hội bình đẳng
như nhau trong trò chơi tìm nghĩa. Không ai có tiếng nói cuối cùng. Không ai
là duy nhất đúng. Tác phẩm ngày
càng giàu có lên trong tình yêu văn học của mọi người”
(Trần Đình Sử (2003),
Đọc văn, học văn, NXB Giáo dục); “Người đọc
không phải “đệm”, mà đã “chơi” tác phẩm trên bản nhạc
của nhà văn, do vậy tùy theo người “chơi” mà tác phẩm có sự khác nhau”...
Tuy
nhiên, nghien cứu về việc rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản văn học ngoài chương
trình cho học sinh chuyên văn là một vấn đề mới mẻ chưa được nhà nghiên cứu
ngôn ngữ, nhà giáo dục nào nghiên cứu và đề cập tới. Đây cũng là vấn đề trăn
trở của rất nhiều giáo viên dạy chuyên văn.
III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
1.
Tổng quan về vấn đề đọc hiểu văn bản văn học dựa trên các tài liệu sách giáo
khoa, tài liệu giảng dạy dành cho giáo viên của các chuyên gia, các nhà nghiên
cứu phương pháp dạy học Ngữ văn.
2.
Đúc rút một số kinh nghiệm trong việc rèn kỹ năng đọc hiểu tác phẩm văn học
ngoài chương trình cho học sinh chuyên văn trong quá trình dạy học chính khóa
và bồi dưỡng học sinh giỏi. Việc rèn kỹ năng đọc hiểu dựa trên thể loại văn học,
thời đại văn học, phong cách văn học... trên cơ sở phù hợp với lứa tuổi học
sinh THPT và thiên hướng, sở thích văn học của các trò.
3.
Tìm hiểu hiệu quả cụ thể của việc rèn kỹ năng đọc – hiểu tác phẩm văn học ngoài
chương trình cho học sinh chuyên văn ở các khía cạnh: Khả năng cảm nhận văn
chương, kỹ năng tư duy phân tích độc lập, khả năng vận dụng đọc văn vào viết
văn, việc trau dồi vốn sống, vốn hiểu biết của học sinh....
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong đề
tài này, chúng tôi lựa chọn và sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau
đây:
Phương
pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết
Phương
pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết
Phương
pháp phân tích tổng kết kinh nghiệm.
V. CẤU TRÚC ĐỀ TÀI
Đề tài được chia làm ba phần: phần Đặt vấn đề,
phần Giải quyết vấn đề và phần Kết luận. Phần nội dung gồm ba mục như sau:
I. Cơ sở lí luận về đọc hiểu văn bản.
II. Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc – hiểu văn
bản văn học ngoài chương trình cho học sinh chuyên văn
III. Vận dụng đọc – hiểu văn bản văn học ngoài
chương trình vào khâu viết văn của hoc sinh.
Ngoài ra đề tài còn có Thư mục tài liệu tham khảo.
PHẦN 2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. LÍ THUYẾT VỀ ĐỌC – HIỂU
1.1
Khái niệm và phân loại văn bản
Về khái niệm văn bản, trong Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên, từ
VB có thể hiểu theo hai nghĩa – nghĩa thông dụng là “Bản viết hoặc in, mang nội
dung là những gì cần được ghi để lưu lại làm bằng”; nghĩa chuyên môn là “Chuỗi kí hiệu ngôn ngữ hay
nói chung những kí hiệu thuộc một hệ thống nào đó, làm thành một chỉnh thể mang một nội dung ý nghĩa trọn vẹn”.
Tác giả Trần Ngọc Thêm thì
nhìn
nhận văn bản như một đơn vị giao tiếp: “Đúng ra chỉ có văn
bản -
cái nằm ở cấp độ trên cùng của cấp hệ ngôn ngữ - là đơn vị duy nhất trực tiếp tham gia vào giao tiếp, có tính độc lập giao tiếp…Văn bản, và chỉ có VB, mới vừa là phương tiện giao tiếp vừa là chính đơn vị của
giao tiếp”. Đây cũng chính là cách hiểu phổ biến về văn
bản của nhiều nhà ngôn ngữ học ở
Việt Nam và được trình bày trong SGK Ngữ văn phổ thông hiện hành. Bài học Văn
bản trong SGK Ngữ văn 10 nâng cao có đoạn khái quát về văn bản,
theo đó có
thể có những cách hiểu khác nhau:
-
Hiểu theo nghĩa hẹp, văn bản là một biết thể liên tục dạng viết của chuỗi các yếu
tố ngôn ngữ mà người giao tiếp tạo nên để truyền đạt nội dung giao tiếp.
-
Hiểu theo nghĩa rộng, văn bản được hiểu là chuỗi các yếu tố ngôn ngữ mà người
giao tiếp tạo nên để truyền đạt nội dung giao tiếp, tồn tại ở cả dạng viết lẫn
dạng nói. Nói cách khác, văn bản là một
loại đơn vị làm thành từ một khúc đoạn lời nói hay lời viết, hoặc lớn hoặc nhỏ,
có cấu trúc, có đề tài ... loại như một truyện kể, một bài thơ, một đơn thuốc,
một biển chỉ đường... (Theo Diệp Quang Ban).
Theo
đó, văn bản vừa là phương tiện giao tiếp, vừa là sản phẩm giao tiếp.
Về phân loại văn bản, có
nhiều cách phân loại văn bản: phân loại theo phương thức biểu đạt, phân loại
theo phong cách chức năng ngôn ngữ... Phân loại văn bản theo phong cách chức
năng ngôn ngữ là phân loại văn bản theo lĩnh vực và mục đích giao tiếp mà ở đó
văn bản được tạo lập và tiếp nhận. Trên cơ sở đó, có 6 loại văn bản:
-
Văn bản sinh hoạt
-
Văn bản hành chính
-
Văn bản khoa học
-
Văn bản báo chí
-Văn
bản chính luận
-
Văn bản nghệ thuật
Văn
bản nghệ thuật (Văn bản văn học) được xếp ở đây là theo cách dạy học truyền thống.
Thực chất văn bản nghệ thuật thường được xếp riêng trong nghiên cứu bởi ngôn ngữ
được dùng trong phong cách này mang vai trò chất liệu xây dựng hình tượng nghệ
thuật với giá trị thẩm mĩ, khác với tất cả các loại phong cách ngôn ngữ còn lại.
Đồng thời, văn bản văn học có thể chứa đặc điểm của các phong cách chức năng
khác, sử dụng các phong cách đó theo cách riêng của mình.
1.2
Văn bản văn học
1.2.1 Về khái niệm văn bản văn học,
theo
quan điểm có từ lâu đời, người ta phân biệt văn bản văn học theo hai nghĩa rộng
và hẹp. Theo nghĩa rộng, văn bản văn học là các loại văn bản ngôn từ, trong đó
ngôn từ được sử dụng một cách nghệ thuật, tức là có nhịp điệu, có hình ảnh, chức
năng biểu cảm. Theo nghĩa hẹp, văn bản văn học là sản phẩm sáng tạo bằng hư cấu,
tưởng tượng như thơ ca, phú, tiểu thuyết, kịch... Trước đây khái niệm văn bản
văn học thường được đồng nhất với khái niệm tác phẩm văn học, song ngày nay hai
khái niệm này có sự phân biệt cơ bản như sau: Văn bản văn học là sự hiện diện bằng
văn tự (ngôn từ) của tác phẩm, là phương diện kí hiệu của tác phẩm. Thông qua
hoạt động đọc của người đọc, văn bản văn học mới chuyển thành khách thể thẩm
mĩ, đó là tác phẩm trong tâm trí người đọc. Nhưng tác phẩm văn học không đơn giản
là sản phẩm của việc đọc, mà là sự thống nhất hữu cơ giữa văn bản, tiếp nhận,
ngữ cảnh. Khi học sinh chưa đọc – hiểu, văn bản chỉ là văn bản. Khi đã đọc – hiểu
rồi, văn bản mới biến thành tác phẩm, mang cách cảm, cách hiểu, ngữ cảnh của
người đọc. Văn bản văn học có ngôn từ, kết cấu, hình tượng là phần ít biến đổi,
làm thành giá trị ổn định của nó. Tác phẩm văn học là khách thể thẩm mĩ ngoài
phần văn bản còn bao hàm cả ngữ cảnh và sự lý giải của người đọc. (Vì lí do
trên mà người viết đã đổi tên chuyên đề Rèn
kỹ năng đọc – hiểu tác phẩm ngoài chương trình cho học sinh chuyên văn như
được yêu cầu thành Rèn kỹ năng đọc – hiểu
văn bản văn học ngoài chương trình cho học sinh chuyên văn. Phải thông quan
hoạt động đọc – hiểu, văn bản văn học mới trở thành tác phẩm văn học; thêm nữa,
việc đọc – hiểu đúng – trúng – sâu không
chỉ căn cứ vào bản thân văn bản mà còn phụ thuộc vào khả năng tiếp nhận và ngữ
cảnh, do đó, với văn bản văn học ngoài sách giáo khoa, càng cần có những phương
pháp rèn kỹ năng phù hợp cho học sinh chuyên văn.)
1.2.2 Về đặc điểm của văn bản văn học,
ngoài
các đặc điểm chung như các loại văn bản khác, văn bản văn học có đặc điểm riêng
là mang tính chất nghệ thuật và thẩm mĩ.
-
Đặc điểm về ngôn từ: Đặc điểm đầu tiên của ngôn từ văn học là tính nghệ thuật
và thẩm mĩ. Tính nghệ thuật thể hiện ở chỗ ngôn từ văn học là sản phẩm sáng tạo
theo các tiêu chí hình tượng và thẩm mĩ: có vần, nhịp bằng trắc xen nhau, cách
lực chọn, trau chuốt sắp xếp theo một trật tự đặc biệt, khác với ngôn ngữ hàng
ngày, đây cũng chính là tính lạ hóa của ngôn từ văn học. Tính thẩm mĩ thể hiện ở
vẻ đẹp và sự hấp dẫn của hình tượng, biểu hiện được cảm xúc, tư tưởng của con
người.
Đặc
điểm thứ hai là ngôn từ văn học dùng để sáng tạo hình tượng, tức là nói tới một
thế giới tưởng tượng, vì thế ngôn từ nghệ thuật có tính chất hư cấu, chứ không
có giá trị thông tin như báo chí, nó chủ yếu chỉ có chức năng gợi ra hình tượng
trong tâm trí người đọc.
Đặc
điểm thứ ba là ngôn từ văn học có tính biểu tượng và đa nghĩa. Biểu tượng trong
văn học là những hình ảnh cụ thể, sinh động, gợi cảm nhưng lại mang ý nghĩa quy
ước của nhà văn hoặc của người đọc. Chẳng hạn như hình ảnh mặt trời vốn là để chỉ một thực thể của tự nhiên nhưng khi đi vào
văn bản văn học lại trở thành những biểu tượng nghệ thuật mang nội dung cảm xúc
và ý nghĩa khái quát: Trong câu thơ Thấy
một mặt trời trong lăng rất đỏ (Thơ Viễn Phương), mặt trời là biểu tượng
cho vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, người mang trái tim ấm nóng, đem lại nguồn sống,
ánh sáng và bất tử trong lòng người dân Việt như mặt trời vậy. Còn trong ý thơ Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng (Thơ
Nguyễn Khoa Điềm), mặt trời lại mang biểu tượng về đứa con như là nguồn sáng,
nguồn sống rực rỡ, diêu kỳ trong trái tim người mẹ. Trong thơ Tố Hữu, hình ảnh Mặt trời chân lí chói qua tim lại là biểu
tượng cho ánh sáng của Đảng, của lí tưởng cộng sản đang tỏa ra chân lí của sự
đúng đắn và tốt lành cho người thanh niên trẻ đang kiếm tìm lẽ sống chân chính
của cuộc đời. Như vậy tính biểu tượng làm cho ngôn từ văn học có khả năng biểu
đạt sâu, rộng và phong phú hơn so với ngôn ngữ giao tiếp thông thường . Đi kèm
với tính biểu tượng là tính đa nghĩa có tác dụng làm gia tăng sức biểu hiện cho
ngôn từ. Tính đa nghĩa của ngôn từ văn học biểu hiện rõ nhất trong thơ ca do nó
có khả năng khơi gợi liên tưởng, mở rộng nội dung biểu hiện.
Các
đặc điểm về ngôn từ trên đây làm cho văn bản văn học có giá trị nghệ thuật và
thẩm mĩ.
-
Đặc điểm về hình tượng: Hình tượng văn học là thế giới đời sống do ngôn từ gợi
lên trong tâm trí người đọc. Từng câu, từng chữ trong văn bản dần gợi ra thế giới
của những con người có cuộc sống riêng; goi thế giới đó là hình tượng vì nó chỉ
tồn tại trong trí tưởng tượng của người đọc. Hình tượng văn học là một phương
tiện giao tiếp đặc biệt, đó là một thế giới biết
nói. Thông qua chi tiết, nhân vật, cảnh vật, mối quan hệ giữa các nhân vật,
nhà văn truyền cho người đọc cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ về cuộc đời, như vậy
hình tượng hàm chứa các ý nghĩa khái quát do tác giả gửi gắm mà người đọc phải
đọc ra, và đọc hiểu văn bản chính là thực hiện quá trình giao tiếp giữa người đọc
và tác giả.
-
Đặc điểm về ý nghĩa: Văn bản văn học do miêu tả con người, thiên nhiên, sự vật...
mà gợi nhớ đến các hiện tượng đời sống, khiến người đọc suy nghĩ, cảm xúc về
chúng. Ý nghĩa văn bản là ý nghĩa của hiện tượng đời sống được nhà văn nắm bắt
và gợi lên qua hình tượng. Ý nghĩa của văn bản văn học thể hiện qua nhân vật, sự
kiện, cảnh vật, chi tiết, qua sự sắp xếp, kết cấu của các bộ phận văn bản và
qua cách sử dụng ngôn từ... Các yếu tố đề tài, chủ đề, cảm hứng, tính chất thẩm
mĩ, triết lí nhân sinh trong văn bản văn học chính là các lớp ý nghĩa của văn bản
văn học.
Đề
tài: Trả lời câu hỏi viết cái gì?, chỉ
hiện tượng đời sống được miêu tả.
Chủ
đề: Trả lời câu hỏi viết nhằm nói lên vấn
đề gì?
Cảm
hứng: Sự biểu lộ tình cảm yêu, ghét, châm biếm, ngợi ca...
Tính
chất thẩm mĩ: sự thể hiện các giá trị thẩm mĩ (bi, hài, bi tráng, hùng
tráng...)
Triết
lí nhân sinh: quan niệm chung về cuộc đời, về con người; thái độ bi quan, lạc
quan, niềm tin, quan niệm đạo đức.
Các
lớp ý nghĩa này chỉ được biểu hiện ra mà không được nói rõ trong văn bản, chúng
do người đọc cảm nhận và khái quát nên, bởi vậy có thể khác nhau. Mỗi sự khái
quát ý nghĩa đều là một hoạt động sáng tạo của người đọc, việc đồng sáng tạo ấy
đòi hỏi yêu cầu khoa học là phải phù hơp với logic biểu đạt của văn bản, với
toàn bộ sáng tác của nhà văn, với truyền thống văn hóa dân tộc trong văn học.
-
Đặc điểm về cá tính sáng tạo của nhà văn: Văn bản văn học nào cũng do tác giả
viết ra và ít nhiều để lại dấu ấn của người sáng tác. Văn học dân gian tuy
không thể hiện cá tính riêng biệt của tác giả song vẫn hàm chứa cách nhìn của
quần chúng lao động. Còn trong văn học viết chỉ có những tài năng lớn mới tạo
ra được những nét nghệ thuật độc đáo, có ý nghĩa lớn, thể hiện trong hình tượng,
chi tiết, cách nhìn, giọng điệu. Đặc điểm cá tính sáng tạo của tác giả làm cho
các văn bản văn học trở nên phong phú, mới mẻ, không lặp lại, đó cũng là yêu cầu
của văn chương không chấp nhân sự dập khuôn, sáo mòn. Thiếu cá tính sáng tạo,
các văn bản văn học đơn điệu, nhàm chán, thậm chí bị nhân bản vô tính; mỗi văn
bản văn học có cá tính sáng tạo là một tiếng nói riêng mới lạ thỏa mãn nhu cầu
thưởng thức của người đọc.
1.3
Đọc – hiểu văn bản văn học
Có rất nhiều định nghĩa về đọc - hiểu - tiếng Anh là Reading
Comprehension - được phát biểu bởi các nhà nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam. Trong những phát biểu này, nhìn chung, đọc
– hiểu được định nghĩa như một quá trình tương tác tích cực và tạo nghĩa. Như vậy, để đọc hiểu được văn bản,
người đọc cần phải có năng
lực để đạt được mục đích cuối cùng
của
quá trình “đọc” là sự “hiểu” văn bản.
Trong
số
các định nghĩa về đọc – hiểu, phải kể tới định nghĩa của PISA. Ở định nghĩa này, thuật ngữ được sử dụng - “Reading literacy” - có thể dịch là “năng lực đọc hiểu”. Trong tiếng Anh, “literacy” có nghĩa là sự biết đọc, biết viết. PISA cũng khai
thác nét nghĩa đó - nhằm khẳng định đọc như
một công cụ dùng để thu nhận và truyền đạt các thông tin được viết hoặc in ấn - với mục đích nhấn mạnh sự áp dụng
hoạt động đọc một cách tích cực,
có ý
nghĩa và hiệu quả vào
các tình huống và mục
đích đa dạng trong cuộc sống.
Văn
học là nghệ thuật ngôn từ, vậy nên, đọc là con đường chủ yếu để đi vào thế giới
của văn chương. Do đó, học văn phải bắt đầu từ học đọc văn. Mặc dù trước nay chưa ai phủ nhận việc đọc văn, nhưng chỉ
từ vài năm trở lại đây mới đặt rõ vấn đề đọc
– hiểu văn bản văn học là nấc thang thứ nhất mà học sinh phải bước qua trên
con đường dài học văn. Thông thường, theo quan niệm tư nhiên, ta mặc định rằng
chỉ cần biết chữ là có thể đọc – hiểu, song kỳ thực, đọc văn học, cũng như thưởng
thức các loại hình nghệ thuật nói chung, muốn hiểu thực sự đều phải học.
Đọc
là hoạt động nhằm nắm bắt ý nghĩa trong các kí hiệu của văn bản, lấy văn bản viết
làm đối tượng. Khác với việc đọc của người thoát nạn mù chữ là biết đọc chữ, đọc
ở đây đòi hỏi hiểu sâu mọi nội dung, tư tưởng, tình cảm, cái đẹp của văn bản và
có thể sử dụng văn bản vào đời sống cá nhân và xã hội.
Đọc
đòi hỏi vận dụng một năng lực tổng hợp của con người: dùng mắt để xem, dùng tai
để nghe, dùng trí óc để phán đoán, tưởng tượng, dùng miệng để ngân nga khi
thích thú, hỏi han, trao đổi, dùng kinh nghiệm để thử nghiệm, dùng tay để giở
sách hoặc gõ phím máy vi tính, dùng bút để ghi chép, dùng từ điển để tra cứu...
Như thế, đọc góp phần giúp con người phát triển toàn diện các năng lực tinh thần
của mình. Biết đọc, dù người đoc có ý thức hay không, là biết giao tiếp với đời
sống văn hóa xã hội rộng lớn, vượt ra ngoài tầm hiểu biết trực tiếp của mỗi người
và biết hưởng thụ các giá trị văn hóa kết tinh trong văn bản. Biết đọc mới nắm
bắt được các thông tin trên báo chí, trong sách để nâng cao trình độ cảm thụ;
biết đọc mới biết thưởng thức bao cái hay, cái đẹp mà loài người đã kết tinh
trong các văn bản, nhất là văn bản nghệ thuật.
Trong
các kỹ năng đọc – hiểu văn bản nói chung, đọc – hiểu văn bản văn học có một vị
trí đặc biệt, bởi văn bản văn học là sản phẩm sáng tạo độc đáo của con người,
có sức sống lâu bền và không thể thay thế được. Khái niệm hiểu không chỉ là nhận ra kí kiệu và ý nghĩa của kí hiệu, mà còn là
phán đoán ra ý muốn biểu đạt. Hiểu còn
bao hàm nội dung sâu rộng hơn như hiểu biết, đồng cảm, hiểu văn ở đây có nghĩa
là hiểu đời, hiểu người.
Khi
đọc văn bản văn học, dù với bất cứ mục đích cụ thể nào, người đọc đều thực hiện
việc tiếp nhận các giá trị tư tưởng, nghệ thuật; giao lưu tư tưởng, tình cảm với
tác giả, với những người đã đọc trước; bày tỏ thái độ đồng cảm hay không đồng cảm
với văn bản văn học. Muốn tiếp nhận đúng các giá trị tư tưởng, nghệ thuật của
văn bản văn học thì người đọc phải trải qua quá trình đọc – hiểu, từ hiểu ngôn
từ, ý nghĩa của hình tượng, đến hiểu tư tưởng, tình cảm của tác giả, hình thành
thái độ, sự đánh giá đối với văn bản, biết thưởng thức các giá trị của văn bản.
Muốn
hình thành kỹ năng đọc – hiểu văn bản văn học, người đọc chẳng những phải thường
xuyên đọc nhiều tác phẩm văn học, mà còn phải biết tra cứu, học hỏi, biết tưởng
tượng, suy ngẫm, tạo thành thói quen phân tích và thưởng thức văn học. Năng khiếu
bẩm sinh tuy là cần thiết và đáng quý, song có học cách đọc hiểu văn bản văn học
thì năng khiếu ấy mới phát huy tác dụng đầy đủ.
Đọc
– hiểu là năng lực mang tính cá thể, bên cạnh sự tác động của các yếu tố ngoại
cảnh thì cơ sở chủ yếu vẫn là sự nỗ lực,
ý thức luyện rèn của mỗi người. Tự chiếm lĩnh văn bản với sự hướng dẫn, tổ chức
của thầy cô giáo là hoạt động quan trọng và cần thiết, để từ đó học sinh có nền
tảng kỹ năng để tự đọc – hiểu các tác phẩm văn chương phong phú của thời đại, bởi
nếu không tự đọc mà để người khác đọc hộ, giảng giải cho thì sẽ không bao giờ
biết tự khám phá và cảm nhận được tác phẩm.
2. CÁC BƯỚC ĐỌC HIỂU VĂN BẢN VĂN HỌC
Trong
hoạt động đọc văn bản văn học thì các bước đọc – hiểu là quan trọng nhát, bởi
nó đạt tới mức sâu nhất của hiểu biết và làm cơ sở cho đọc đánh giá, đọc sáng tạo
và vận dụng. Công việc tìm hiểu văn bản bắt đầu từ trước khi đọc, đươc mở ra
trong quá trình đọc và tiếp tục suy nghĩ cả sau khi đọc xong. Theo quan điểm của ngôn ngữ học thì hiểu văn bản là đọc được ra
các thông tin của văn bản: thông tin sự việc (cốt truyện, nhân vật), thông tin
hàm ẩn, thông tin quan niệm. Với các văn bản văn học được đưa vào chương trình
sách giáo khoa, các bước đọc hiểu được các tác giả SGK thể hiện một cách có chủ
ý qua hệ thống câu hỏi trong phần Hướng dẫn
học bài, với một số văn bản con có phần luyện tập. Số lượng câu hỏi, mức độ
câu hỏi và các bài luyện tập nhằm giúp học sinh hình thành các bước đọc hiểu,
tiến tới hình thành gần như là một quy trình đọc – hiểu, có thể hình dung với
các bước như sau:
2.1
Đọc – hiểu ngôn từ
Để
đọc - hiểu văn bản văn học thì trước hết phải có ấn tượng toàn vẹn về văn bản,
muốn vậy, cần đọc thông suốt toàn văn bản (nếu là văn bản dịch nếu có thể tiếp
cận văn bản gốc là điều tốt nhất), hiểu được các từ khó, từ lạ, các điển cố,
phép tu từ, bút pháp nghệ thuật... Đối với thơ, nếu có thể thì nên đọc thuộc,
khi đó ấn tượng về âm hưởng, hình ảnh thơ sẽ ăn sâu vào tâm trí, đó là cơ sở để
hiểu thơ, nếu không đọc thuộc thì cũng cần phải đọc đi đọc lại nhiều lần nhằm đọc ra được tứ thơ và âm hưởng, giọng điệu
chủ đạo của tác phẩm. Đối với văn xuôi, nắm được cốt truyện và các các chi tiết
từ mở đầu đến kết thúc. Đối với kịch hay các tác phẩm văn học dân gian được
sinh thành trong môi trường diễn xướng đặc trưng của nó thì sẽ là một thiếu sót
đáng tiếc nếu không được tiếp xúc trực tiếp với văn bản kịch được công diễn sống
động trên sân khấu hay đọc tác phẩm
dân gian trong diễn xướng cụ thể (các làn điệu dân ca, chiếu chèo...). Việc tìm
hiểu các vấn đề xung quanh văn bản văn học cũng hết sức quan trọng: tác giả,
hoàn cảnh sáng tác... Với các văn bản văn học trong sách giáo khoa thì học sinh
có rất nhiều định hướng đọc – hiểu: Phần Tiểu
dẫn đặt trước văn bản cung cấp cho học sinh tri thức thiết yếu về tác giả,
tác phẩm. Các từ ngữ khó, điển cố, điển tích.. được người soạn sách chú giải
ngay ở cuối trang sách mà nó xuất hiện. Còn với các văn bản văn học ngoài
chương trình, rõ ràng học sinh chuyên văn phải tự tìm hiểu những vấn đề này
thông qua việc tìm hiểu, tra cứu, giải nghĩa từ... để nắm bắt được những ấn tượng
chung về nội dung và hình thức của văn bản đó.
Khi
đọc văn bản cần hiểu được cách diễn đạt, nắm bắt mạch văn xuyên suốt từ câu trước
đến câu sau, từ ý này sang ý khác, đặc biệt là phát hiện ra mạch văn ngầm – mạch
hàm ẩn, từ đó, mới phát hiện ra chất văn. Bởi thế, cần đọc thật kĩ thì mới phát
hiện ra những điểm đặc sắc, khác thường, thú vị. Chẳng hạn với câu kệ của Mãn
Giác thiền sư: Xuân khứ, bách hoa lạc –
Xuân đáo, bách hoa khai (Xuân qua trăm hoa rụng - Xuân tới trăm hoa
tươi...) học sinh đọc kỹ để phát hiện ra trật tự thông thường của ý thơ đã bị đảo
ngược, thay vì miêu tả quy luật sinh trưởng thường tình của tự nhiên, tạo hóa:
xuân tới, xuân đi; hoa nở, hoa tàn thì vị thiền sư lại chọn cách viết ngược lại.
Từ đó, phát hiện ý nghĩa ngầm ẩn của văn bản: ý thơ không chỉ gợi ra một mùa
xuân, một đời hoa mà đó là vòng biến thiên tuần hoàn vô lượng của vũ trụ, vòng
luân hồi muôn kiếp của tạo vật giữa nhân gian, ý thơ ngưng đọng lại ở sự khai mở,
sinh sôi còn gợi nên được niềm lạc quan, hy vọng vào sự sống... cho nên người
ta nói “trật tự là ý nghĩa”. Tương tự
trong văn xuôi, sự trở lại của hình ảnh cái lò gạch cũ trong Chí Phèo, mở đầu và kết thúc là cánh rừng
xà nu trong Rừng xà nu đều là những
tín hiệu ngôn từ mang ý nghĩa sâu xa, gửi gắm mạch ngầm văn bản.
Với
các văn bản văn học trong sách giáo khoa, giáo viên thường cho học sinh nhận rõ
các yêu cầu để học sinh tự kiểm tra mức độ đọc của mình về đọc – hiểu văn bản
ngôn từ. Thông thường, giáo viên chỉ cần yêu cầu học sinh đọc một bài thơ xem
có lưu loát không; hỏi một vài chữ, câu, đoạn; hỏi một vài từ khó là có thể biết
học sinh đã đọc – hiểu ngôn từ văn bản hay chưa. Giáo viên cững có thể kiểm tra
bằng việc yêu cầu học sinh diễn xuôi thơ hay kể lại nôi dung đoạn trích để biết
học sinh có đọc – hiểu cốt truyện hay không. Với các văn bản ngoài sách, giáo
viên hoàn toàn có thể giao việc cho học sinh và kiểm tra những khâu này. Học
văn luôn đòi hỏi phải hiểu, cảm và nhớ, càng nhớ nhiều càng tốt, vì có nhớ mới
cảm nhận và thưởng thức được cái hay, cái đẹp.
Đọc
– hiểu văn bản ngôn từ là tiền đề cho đọc kỹ và đọc sâu. Đọc kỹ là tìm mạch ý
và đọc sâu là đọc phát hiện vấn đề. Mạch ý là sự liên kết ý từ câu này sang câu
khác, từ đoạn này sang đoạn khác. Cách đọc này đặc biệt có ý nghĩa đối với việc
làm văn. Có đọc kỹ mới biết cách vào đề, cách dẫn dắt, chuyển ý của văn bản, học
sinh do không đọc kĩ nên thường viết văn rời rạc, thiếu liên kết ý. Như thế, đọc
kỹ mạch văn là tiền đề để từ ngôn từ mà đi sâu vào các lớp nội dung của văn bản.
2.2
Đọc – hiểu hình tượng nghệ thuật
Hình
tượng trong văn bản văn học được xây dựng, biểu đạt, sáng tạo bằng nghệ thuật
ngôn từ, qua chi tiết, cốt truyện, hình ảnh, tâm trạng... tùy thể loại mà có sự
khác nhau về chất liệu ngôn từ, hình tượng luôn hàm chưa nhiều lớp ý nghĩa. Đọc
– hiểu hình tượng nghệ thuật của văn bản văn học đòi hỏi người đọc phải biết
thâm nhập vào hình tượng để tưởng tượng, biết cụ thể hóa các tình cảnh để hiểu những điều mà ngôn từ chỉ có thể
biểu đạt khái quát. Ví như, trong câu thơ đầu tiên của Thuật hoài (Phạm Ngũ Lão): Hoành
sóc giang sơn kháp kỉ thu, sau khi đối chiếu phần dịch nghĩa học sinh có thể
hình dung, tưởng tượng ra hình ảnh người tráng sĩ đời Trần đang cầm ngang ngọn
giáo (không phải là múa giáo mang tính chất phô trương, biểu diễn như trong dịch
thơ), đó là một tư thế tĩnh như dồn nén sức mạnh để bùng nổ. Và tầm nhìn của
người tráng sĩ như bao quát cả giang sơn. Tư thế và tầm nhìn ấy là của một người
chủ đang canh giữ giang sơn quý báu của mình, sẵn sàng đón đánh quân cướp nước.
Ngọn giáo cầm trong tay tráng sĩ như đo chiều rộng, chiều dài của tổ quốc, và
khát vọng bảo vệ tổ quốc, ý chí quyết tâm sức mạnh tinh thần dồn cả vào đôi
cánh tay người tráng sĩ đang chắc tay cồm ngang ngọn giáo, bất chấp cả thời
gian trải mấy thu đã trôi qua. Như vậy, bằng việc tưởng tượng, người đọc có thể
hình dung rất cụ thể và chính xác điều mà tác giả chỉ viết có mấy lời. Thiếu
năng lực cụ thể hóa thật khó để cảm
nhận được hết cái hay của văn.
Đọc
– hiểu hình tượng còn phải biết phát hiện được các mặt đối lập trong bản thân
hình tượng, logic ẩn chứa bên trong nó mà nhà văn muốn gửi gắm, những mâu thuẫn
tiềm ẩn và những chi tiết độc đáo chính là nơi tập trung ngòi bút của tác giả,
chưa đựng cái lí của văn bản. Đọc – hiểu hình tượng nghệ thuật là đòi hỏi người
đọc phải giải đáp được vấn đề nêu ra ở bước đọc – hiểu ngôn từ. Chẳng hạn, khi
học sinh cảm nhận câu ca dao: Em tưởng giếng
nước sâu – Em nối sợi gầu dài – Ai ngờ giếng cạn em tiếc hoài sợi dây... sẽ
nhận ra cái phi lý: giếng cạn hay sâu thì dây vẫn còn đó, có mất đi đâu mà phải
tiếc để phát hiện ra rằng ý thơ đâu phải chuyện nối dây, tiếc dây. Đặt trong hệ
thống những bài ca dao yêu thương tình nghĩa thì câu thơ chính là những hình ảnh
mang tính biểu tượng: giếng sâu, giếng cạn là tình yêu của chàng trai, còn sợi
dây dài kia chính là tình yêu của cô gái, cô gái
tưởng chàng trai yêu thương mình thật lòng nên đã dành cho anh tình yêu chân
thành, tha thiết, nặng sâu, nhưng hóa ra anh ta chỉ có thứ tình cảm hời hợt,
nông cạn, nên cô gái tiếc tình yêu của mình, tiếc mình thương mình... Hay như
đoạn thơ trong Vội vàng của nhà thơ
Xuân Diệu: Tôi muốn tắt nắng đi – Cho màu
đừng nhạt mất – Tôi muốn buộc gió lại – Cho hương đừng bay đi, rõ ràng là,
đây là những mơ ước viển vông, ngông cuồng, phi lí, bởi ai có thể đoạt quyền tạo
hóa, chế ngự thiên nhiên? Hóa ra, cái ý muốn làm thay tạo hóa ấy xuất phát từ
những lí do rất nên thơ: tắt nắng cho
màu đừng nhạt, buộc gió cho hương đừng bay. Chính Xuân Diệu chàng
thơ cũng biết rằng: Làm sao cầm giữ được
mùi hương, nhưng vẫn không thôi ao ước, có lẽ bởi màu sắc và hương thơm,
trong cảm nhận của nhà thơ, đó là sự sống đang hiện hữu, là những gì đẹp đẽ nhất
của cuộc đời. Vì gắn bó với cuộc đời, hiểu được mỗi giây phút tồn tại trên đời
là vô cùng quý giá mà nhà thơ nảy sinh ao ước làm vĩnh cửu những cái đẹp quá đỗi
mong manh: ánh sáng và hương thơm. Như vậy phải khám phá logic bên trong hình
tượng nghệ thuật thì mới thực sự hiểu các hiện tượng văn học bề ngoài có vẻ như
là mâu thuẫn.
2.3
Đọc – hiểu tư tưởng, tình cảm của tác giả trong văn bản văn học
Nhà
văn sáng tác bao giờ cũng nhằm thể hiện tư tưởng, tình cảm trong tác phẩm, song
tư tưởng tình cảm nhà văn gửi vào trong tác phẩm không chỉ là của cá nhân họ về
cuộc đời, về con người mà còn là của tầng lớp, giai cấp, thời đại mà nhà văn
như là một đại diện. Chiều sâu tư tưởng, tình cảm đó là linh hồn của tác phẩm
văn chương. Vì vây, đọc – hiểu văn bản văn học là phải phát hiện được tư tưởng,
tình cảm của nhà văn ẩn chứa trong văn bản. Tuy nhiên, tư tưởng tình cảm của
tác giả trong văn bản nghệ thuật thường không được trực tiếp nói ra thành lời,
chúng thường được thể hiện giữa lời, ngoài lời; nói cách khác không ở lời nói
trực tiếp, ở ngôn ngữ tường minh mà ở hàm ý; vì thế, người ta đọc - hiểu tư tưởng
tác phẩm bằng cách kết hợp ngôn từ và phương thức biểu hiện hình tượng; phán
đoán tư tưởng từ mối quan hệ của các nhân vật, ở thái độ và cách miêu tả... Điều
đó đòi hỏi người đọc phải có năng lực khái quát chính xác, phải đọc có sáng tạo.
2.4
Đọc – hiểu và thưởng thức văn học
Về
hình thức thì văn bản văn học là hệ thống ký hiệu ngôn ngữ tồn tại khách quan
theo cách sắp xếp nào đó tùy vào tài nghê của người viết. Đọc tác phẩm – từ
ngôn từ đến hình tượng – người đọc sẽ tiếp nhận tư tưởng tình cảm của người viết
gửi gắm vào ngôn từ, hình tượng đó, tìm ra tầng hàm nghĩa, nhận ra tín hiệu mà
người viết kí thác điều muốn nói, quan niệm nhân sinh, hoài bão và ước mơ...
Lúc đó, người đọc như lại một lần hiểu chính mình, hiểu cuộc đời với bao số phận
khác nhau, chia sẻ sự xúc động, niềm say mê, nỗi giận hờn với tác giả. Tinh thần
được thăng hoa, tâm hồn được thanh lọc, nhận thức được sâu sắc hơn, tầm nhìn được
rộng mở... Có được điều đó chứng tỏ việc đọc đạt được tầm cao của sự rung cảm
và thụ hưởng tinh thần.
Mọi
sự hiểu đều mang tính cá thể, khi một ý nghĩa nào đó xuất hiện trong văn bản
văn học, nói chung đều gắn với mong muốn, chờ đợi của người đọc, một sự chờ đợi
phù hợp với cách bểu đạt của ngôn từ và logic của hình tượng. Đọc – hiểu như vậy
là sự tự khẳng định của người đọc về nhiều mặt. Người đọc sung sướng nhận ra tư
tưởng của tác phẩm, nhận ra sự thống nhất toàn vẹn của văn bản xung quanh tư tưởng
ấy, cảm nhận được vẻ đẹp hài hòa của văn bản và có được khoái cảm về tinh thần.
Thưởng
thức văn học là trạng thái tinh thần vừa bừng sáng với sự phát hiện chân lí đời
sống trong tác phẩm, vừa rung động với sự biểu hiện tài nghệ của tác giả, vừa
hưởng thụ ấn tượng sâu đậm đối với các chi tiết đặc sắc của tác phẩm. Đó là đỉnh
cao của đọc – hiểu văn bản văn học. Khi đọc tác phẩm ưu tú của nhân loại mà
chưa đạt đến trạng thái tinh thần ấy, thì có thể nói, việc đọc chưa đạt được cảnh
giới của sự thưởng thức.
3. PHƯƠNG PHÁP ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN
VĂN HỌC
Căn
cứ vào các bước đọc hiểu có thể hệ thống phương pháp đọc hiểu như sau:
3.1 Dựa vào ngữ cảnh để xác định ý
nghĩa văn bản:
Đọc
văn bản, người đọc bao giờ cũng cố nắm bắt cho được ý nghĩa của văn bản. Có nắm
được ý nghĩa, người đọc mới có thể đồng cảm, thưởng thức, duy trì hứng thú và bộc
lộ tình cảm, thái độ của mình với tác phẩm. Để hiểu được ý nghĩa ngôn từ và cả
ý nghĩa hình tượng trong văn bản, người đọc đều phải dựa vào ngữ cảnh. Ngữ cảnh
là toàn bộ những điều kiện quy định lời văn, ý nghĩa và giá trị của văn bản. Có
ba bình diên ngữ cảnh: ngữ cảnh văn bản, ngữ cảnh tình huống và ngữ cảnh văn
hóa.
Ngữ cảnh văn bản là
vị trí, trong đó các yếu tố ngôn từ xuất hiện để tạo nên văn bản, và qua đó mỗi
yếu tố ngôn từ thể hiện được ý nghĩa và giá trị của nó. Chẳng hạn, trong câu
thơ của Hồ Xuân Hương: “Chen ngang mặt đất
rêu từng đám – Đâm toạc chân mây đá mấy hòn” sử dụng đảo ngữ, nếu đặt về vị
trí thông thường sẽ có ý nghĩa khác hẳn. Việc đảo lộn trình tự tuyến tính về mặt
thời gian trong truyện ngắn Chí Phèo cũng
nhằm gửi gắm dụng ý nghệ thuật của nhà văn.
Ngữ cảnh tình huống là
tình huống cụ thể khi văn bản và ngôn từ xuất hiện: lời do ai nói, nói với ai,
trong tình huống, thời gian, địa điểm nào... Ngữ cảnh tình huống giúp hiểu được
dụng ý của bài văn.
Ngữ cảnh văn hóa là
bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa mà người phát ngôn (ở đây là nhà văn, nhà
thơ) sống và sáng tác. Ngữ cảnh này bao gồm lí tưởng sống, quan niệm về văn học,
về cái đẹp, các truyền thống văn hóa, các truyền thống văn học, ngôn ngữ... Ví
dụ, thân phận của người phụ nữ trong ca dao, chí làm trai trong sáng tác Phạm
Ngũ Lão, Nguyễn Công Trứ, tư tưởng nhàn dật trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, chủ
nghĩa nhân đạo trong sáng tác Nguyễn Du, tư tưởng yêu nước mang màu sắc bi
tráng trong thơ Đồ Chiểu... tất cả đều phải được đặt vào bối cảnh xã hội, triết
học, tâm kí... con người đương thời thì mới có thể thấu tỏ được.
3.2 Lấy tư tưởng chính của văn bản
mà soi sáng mọi chi tiết trong văn bản
Văn
bản văn học là một thể thống nhất, mọi chí tiết trong văn bản đều nhằm mục đích
biểu đạt tư tưởng chính của văn bản. Khi đọc, các chi tiết liên hệ với nhau, gợi
nên tư tưởng chính, rồi tư tưởng chính ấy soi sáng trở lại các chi tiết, làm
cho người đọc nắm bắt được đầy đủ ý nghĩa của văn bản. Ví dụ trong bài thơ Tràng giang của Huy Cận, ngay từ nhan đề
và lời đề từ đã mở ra một không gian rợn ngợp vô biên của sông dài trời rộng và
nỗi niềm bâng khuâng, nỗi sầu thiên cổ của nhà thơ. Các khổ thơ trong toàn bài
thơ đều diễn tả những nội dung đó. Không gian thơ, ấy là không gian của vũ trụ
khôn cùng vô hạn mà ở đó mỗi nét cảnh vật đều hoang vắng, cô liêu, hắt hiu, tàn
úa... Còn chủ thể trữ tình, ấy là con người cô đơn, nhỏ bé, u hoài, khao khát
trong tuyệt vọng được giao cảm, được sẻ chia với cuộc đời...
Trong
quá trình đọc, qua các chi tiết, người đọc có thể phải dự đoán trước tư tưởng
chính của văn bản và sau đó quá các chi tiết khác lại điều chỉnh dự đoán ban đầu,
khi nào thấy có sự phù hợp giữa tư tưởng chính với tất cả các chi tiết thì mới
có thể hiểu được tư tưởng của văn bản. Như các hình ảnh, chi tiết trong 2 câu
thơ cuối của bài thơ Tràng giang, nhà
thơ gửi gắm lòng quê – nỗi nhớ thương đầy vơi, sâu nặng hướng về quê hương, đất
nước, tưởng như không liên quan đến tư tưởng, chủ đề nêu trên, nhưng thực chất
lại chính là sự lí giải sâu sắc nhất cho nỗi buồn thăm thẳm của chủ thể trữ
tình, nỗi buồn ấy không chỉ bởi tương quan giữa con người nhỏ bé, hữu hạn với
vũ trụ rộng lớn khôn cùng, mà xét cho cùng là nỗi buồn của cả một thế hệ lưu
vong trên chính quê hương của mình.
3.3 Thể nghiệm ý nghĩa của văn bản
văn học
Văn
bản văn học bao giờ cũng thể hiện một niềm rung cảm sâu xa về cuộc sống, hoặc
say mê về lí tưởng, hoặc đau đớn về tình người, cười cợt thói đời... Các tư tưởng
trong văn học bao giờ cũng sâu rộng hơn ý nghĩa của từ ngữ, các công thức, mệnh
đề tư tưởng có sẵn. Vì vậy, việc đem kinh nghiệm riêng để thể nghiệm các tình
huống trong truyện, các lời trữ tình trong thơ sẽ giúp ta hiểu được chiều sâu của
văn bản. Muốn thể nghiệm, người đọc phải liên tưởng, tưởng tượng, phải cụ thể
hóa các chi tiết trong văn bản, phải đặt mình vào tình huống của nhân vật, vị
trí người kể chuyện để hiểu được ý tứ của lời văn. Khi thể nghiệm, phải hiểu
tác giả là nhân vật, văn học là câu chuyện về sức sống tâm hồn của con người,
khi rung động tột độ mới viết ra được, người đọc mà dửng dưng, bàng quan, vô cảm
thì không thể hiểu được.
Ngoài
ra cần tránh các lỗi cắt xén văn bản và suy diễn tùy tiện sẽ làm sai lệch, đơn
giản hóa nội dung tư tưởng tình cảm của tác phẩm.
Trên
đây là sự tổng hợp các tài liệu sách giáo khoa, sách giáo viên và tài liêu
nghiên cứu về nội dung đọc hiểu văn bản văn học, đó là toàn bộ những cơ sở lí
luận để xây dựng kế hoạch và thực hiện việc rèn kỹ năng đọc hiểu văn bản nghệ
thuật ngoài chương trình sách giáo khoa cho học sinh chuyên văn.
II. RÈN KỸ NĂNG ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN
NGOÀI CHƯƠNG TRÌNH
CHO HỌC SINH CHUYÊN VĂN
1. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ ĐỌC - HIỂU TÁC
PHẨM VĂN HỌC CỦA HỌC SINH THPT VÀ HỌC SINH CHUYÊN VĂN
Với đối tượng đặc thù là học sinh chuyên văn, việc giao
nhiệm vụ đọc hiểu các văn bản ngoài chương trình, dạy đọc hiểu văn bản ngoài
chương trình là việc làm quen thuộc đối với các giáo viên dạy chuyên. Hiệu quả
của hoạt động này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó đặc biệt là quan niệm về
vai trò của giáo viên đối với việc rèn kĩ năng đọc hiểu cho học sinh, trình độ
chuyên môn của giáo viên... song thực tế việc rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản
ngoài chương trình cho học sinh còn nhiều khó khăn và bất cập.
1.1
Những bất cập từ phía người dạy
Một thực tế diễn ra là mặc dù dạy chuyên, nhưng các giáo
viên văn, kể cả những giáo viên dạy giỏi đều chưa thực sự chú trọng đến việc
rèn kĩ năng đọc hiểu các văn bản văn học ngoài chương trình cho học sinh. Vẫn
nhiều học sinh chuyên văn không được hướng dẫn bài bản để trở thành nhưng người
đọc độc lập, từ đó có thể đọc suốt đời theo những bước đi của nhân loại và những
đòi hỏi của thời đại mới.
Những bất cập này bắt nguồn trước tiên từ chính mức độ am
hiểu về năng lực đọc hiểu của nhiều giáo viên. Còn không ít giáo viên chưa triển
khai dạy đọc hiểu theo các chiến lược bài bản mà còn tùy hứng và qua loa. Phát
triển trình độ dạy đọc hiểu cho giáo viên cũng chưa đươc chú trọng trong các
trường sư phạm. Chủ yếu giáo viên tự mày mò, tự đúc rút kinh nghiệm.
Nhận thức về dạy đọc hiểu cũng là một vấn đề còn tồn tại ở
một bộ phận giáo viên. Giáo viên chưa thực sự nhận thức hết tầm quan trọng của
đọc hiểu nên không thực sự đầu tư trong soạn giảng và dạy. Đặc biệt là dạy đọc
hiểu những văn bản văn học ngoài chương trình, nhiều giáo viên còn cho rằng đó
là những kiến thức “thêm nếm”, bổ sung, mục tiêu đề ra cho hoạt động này còn thấp,
đôi khi còn mang tâm lí buông lỏng người học, không có hoạt động dạy, không kiểm
soát được hiệu quả, phương pháp, mức độ đọc hiểu của học sinh.
Phương pháp dạy đọc hiểu của giáo viên, rèn kĩ năng đọc
hiểu văn bản văn học ngoài chương trình còn nhiều hạn chế, thường thiên về hai
thái cực: Hoặc là giáo viên chỉ giao nhiệm vụ đọc cho học sinh, không quan tâm
hoạt động đó diễn ra như thế nào, không có sự kiểm soát, nghĩa là vai trò dạy học
của giáo viên rất mờ nhạt; hoặc là giáo viên lại quá áp đặt cho học sinh, đó là
yêu cầu học sinh đọc văn bản, sau đó trả lời các câu hỏi được giáo viên thiết kế
sẵn mà không thực sự chú ý đến việc họ có hiểu và nhớ được nội dung mình đã đọc
hay không. Thường quá trình này là giáo viên soạn sẵn một hệ thống câu hỏi mà
quá trình đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi này của học sinh là để hiểu tác
phẩm không phải theo cách các em muốn mà theo cách cô giáo muốn. Nói cách khác
là các em đã được định hướng, được mớm để hiểu theo chủ quan của một người chứ
không phải chủ quan của bản thân người đọc là các em. Vì vậy, phương pháp này
gây nên hệ quả rất lớn, vừa hạn chế, khống chế kết quả của quá trình đọc hiểu,
vừa làm mất đi hứng thú, sự ham thích của học sinh đối với tác phẩm.
1.2
Những hạn chế từ phía người đọc
Bản thân khái niệm đọc hiểu văn bản đã hàm chứa vấn đề chủ
thể của quá trình ấy- người đọc. Đặc biệt đối tượng người đọc ở đây là học sinh
chuyên văn, và hoạt động đọc của họ đến với những tác phẩm văn học. Người đọc
đang nhẩm thầm một dòng thơ hay đôi ba câu văn, đăm chiêu suy nghĩ, nhập thân,
hóa thân vào thế giới nghệ thuật, khám phá những vẻ đẹp, những vấn đề, những
chiều sâu khuất lấp của đời sống, của tâm linh..., đang được làm giàu có và
phong phú lên những giá trị sống. Những người đọc như vậy làm nên năng lượng- sự
hiện diện đầy đủ, tích cực, năng động của tư cách chủ thể trong quá trình đọc
hiểu văn bản. Nhưng trong thực tế, không phải học sinh nào cũng tràn đầy năng
lượng trong hoạt động đọc hiểu tác phẩm như trên, hoặc tràn đầy năng lượng
nhưng theo một hướng khác.
Một bộ phận học sinh vẫn tồn tại thái độ học tập thụ động,
lười suy nghĩ, ngại tiếp nhận cái mới. Những học sinh này quen làm theo những
công thức khôn mẫu có sẵn, thích được gợi ý và định hướng. Đối với những học
sinh này, khi tiếp cận một tác phẩm văn học ngoài chương trình, thường có nhu cầu
được giáo viên gợi dẫn, định hướng tìm hiểu, và cho đó là lối đi duy nhất dẫn tới
thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Chính điều này đã hạn chế khả năng cảm nhận,
thấu hiểu, tưởng tượng và tư duy của học sinh, hình thành nên thói quen đọc, học
tập và lao động một cách máy móc. Thường
những học sinh này không có hứng thú với việc đọc hiểu các văn bản văn học
ngoài chương trình, có thể họ sẽ không tâm huyết và hào hứng đối với công việc
đó, ngược lại thực hiện việc đọc một cách chiếu lệ, hời hợt.
Một bộ phận khác là những học sinh muốn đọc, thích đọc,
thậm chí “nghiện đọc” những tác phẩm mới. Nhưng vấn đề là họ đọc gì: tiểu thuyết,
truyện ngắn, thơ, sách giáo khoa, tạp chí, tài liệu chuyên ngành... hay chỉ là
truyện tranh, ngôn tình, thậm chí cả sách báo “lá cải” trôi nổi chưa được kiểm
soát. Nhiều học sinh chuyên văn xa lạ với những tác phẩm kinh điển, nhưng lại
thuộc lòng những cái tên viết tiểu thuyết ngôn tình Trung Quốc với những tác phảm
mà nghe tên thầy cô đã ... tái mặt! Vậy nên một thực trạng hiện nay là học sinh
không hào hứng với những tác phẩm đã được thẩm định là hay, giàu giá trị, mà với
tư cách là công chúng của văn học, nhu cầu thẩm mĩ của các em chưa thực cao để
hướng đến tiếp cận những giá trị mà thầy cô mong muốn các em đạt đến.
Một bộ phận nữa là những học sinh có năng khiếu, có lòng
ham thích và nhu cầu đọc các tác phẩm văn học ngoài chương trình, nhưng các em
chưa được dạy cách đọc thật sự hiệu quả và bài bản, vì vậy hoạt động đọc hiểu
thiếu đi những kĩ năng cần thiết, kết quả của hoạt động đọc hiểu còn hạn chế.
Từ những biểu hiện trên, một thực trạng đang diễn ra là vốn
kiến thức về tác phẩm ngoài chương trình của học sinh còn mỏng. Trong một bài
nghị luận văn học, học sinh chưa tự tin để viết những liên hệ, so sánh rộng, nếu
có chỉ sử dụng quanh quẩn những ngữ liệu có trong chương trình học đã được dạy,
được phân tích kĩ lưỡng, học sinh còn lúng túng hoang mang khi đứng trước một
tác phẩm mới mẻ.
Trước những thực trạng đó, chúng tôi đề xuất những cách
rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản văn học cho học sinh chuyên văn nhằm làm tăng kết
quả học tập, phát triển năng lực cho học sinh.
2. CÁC NGUYÊN TẮC CHUNG KHI ĐỌC HIỂU
VĂN BẢN VĂN HỌC NGOÀI SÁCH GIÁO KHOA
2.1 Nguyên tắc 1: Đảm bảo học sinh được tiếp cận nguồn văn bản đa dạng về thể loại, phù
hợp với khả năng, nhu cầu, hứng thú đọc hiểu.
Đảm bảo để HS được tiếp
cận nguồn văn bản văn học đa dạng về thể loại, phù hợp với khả năng, nhu cầu, hứng thú đọc –
hiểu là một trong
những nguyên tắc quan trọng. Nguyên tắc
này
xuất phát từ luận điểm mang tính nền tảng:
mỗi văn bản là ngữ liệu, là phương tiện phục vụ cho việc phát triển năng lực đọc – hiểu; đích đến cuối cùng của quá trình dạy học là kĩ năng, năng lực đọc hiểu của người học, không phải là
các kiến thức về từng văn bản
cụ thể.
Mục tiêu cốt lõi của việc dạy
học đọc hiểu, nhất là đối với học sinh chuyên văn trong nhà trường
là HS trở thành những
người đọc độc lập, có khả năng làm chủ, khai thác giá trị các văn bản phục vụ cho cuộc
sống của mình. Trong khi
chương trình dạy học ở nhà trường có hạn thì kho tàng các văn
bản của nhân loại không ngừng phát triển. Vì thế, bên cạnh việc
chú trọng trang bị các chiến thuật,
kĩ năng đọc cho HS, giáo viên cần giúp HS làm quen với các
thể loại đa dạng bởi nói đến thể loại là nói đến những yếu tố tương
đối
ổn định bên cạnh mặt biến
động, thay đổi. Đặc trưng thể loại chính là chìa khóa quan trọng giúp
giải mã văn bản. Tất nhiên, một văn bản
có thể là sự giao thoa của nhiều thể loại và xu hướng
tích hợp thể loại ngày càng phổ biến, song khi đã được làm quen và làm chủ được những đặc trưng thể loại cơ bản, HS có thể dễ nhận diện được các tính chất loại
thể và áp dụng những chiến thuật, kĩ năng đọc phù hợp.
Trong chương trình ngữ văn hiện hành, yếu tố thể loại đã được chú trọng,
trở thành một trong những căn cứ để kết nối các bài học đọc – hiểu thành cụm thể loại. Tuy
vậy, quan điểm cung cấp kiến thức văn học một cách bài bản, hệ thống cho HS theo tiến trình lịch sử vẫn chi phối mạnh mẽ nên phạm
vi lựa chọn các văn bản
bị giới hạn, do đó, các thể loại văn học được
đọc
trong mỗi năm học còn hạn chế. HS cần
được tiếp xúc thêm với nhiều thể loại văn
học của dân tộc và thế giới ở các thời kì
khác nhau, đồng thời, đảm bảo học sinh được tiếp cận
với
nguồn văn bản phù hợp với khả năng,
nhu cầu, hứng thú đọc hiểu.
Bởi vì, một văn bản dù phức tạp cũng sẽ trở nên đơn giản hơn đối với những người có tri thức nền, có nhiều kinh nghiệm và có kĩ năng đọc, đồng thời đối với những
bạn đọc thực sự có hứng thú và động cơ đọc. Ngược lại, một văn bản
văn chương dù đơn giản cũng sẽ trở
nên phức tạp hơn, khó tiếp nhận hơn đối với một bạn đọc thiếu tri thức nền, ít
kinh nghiệm, thiếu kĩ năng đọc hay không quan tâm và không muốn đọc.
Trở lại với
chương trình ngữ văn hiện hành, việc HS trong mỗi năm học không
được
tiếp cận với nguồn văn
bản đa dạng là một bất cập lớn. Ví
dụ Ngữ văn 10 “khoanh vùng” nguồn văn bản văn học trong bộ phận văn học dân gian và văn học trung đại
không những hạn chế về thể loại HS được tiếp cận mà còn đem đến một thực trạng
là sự hứng thú của người học khó có thể duy trì suốt chương trình học. Quả thật, “dẫu biết
văn học trung đại là tinh hoa văn hóa tinh thần, lắng đọng truyền thống yêu nước và nhân
đạo chính trực của dân tộc Việt”, song cần cắt giảm tỉ lệ văn học
giai đoạn này để nhường chỗ cho các văn bản thông tin và
văn học hiện đại. “Nên chăng cần cởi
mở với văn học hiện đại và hậu hiện đại như một sự bứt phá cách tân nghệ
thuật, một sự đổi mới cách nhìn thế sự tỉnh táo và tự do sáng tạo vừa được phản
biện công khai trên mặt bằng lịch sử” . HS cần được tiếp xúc với cả
những văn bản văn học thuộc thời đại của chính mình. Đồng thời, nhu cầu, thị hiếu văn
học phù hợp với lứa tuổi cũng là một cũng là một tiêu chí
đáng
được quan tâm, xem xét, ví dụ như sự hứng thú đặc biệt của học sinh dành cho mảng văn học thể hiện thế giới đậm chất hư cấu hay giả tưởng,
kì ảo…hay mảng văn học chuyên biệt dành cho
các đối tượng tuổi học trò có giá trị như các tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh...
Do
vậy, ngay từ năm lớp 10, giáo viên đã yêu cầu học sinh chuyên văn tăng cường việc
đọc đa dạng về thể loại, về bộ phận thời kỳ văn học... chứ không nhất thiết học
chính khóa đến giai đoạn bộ phận văn học nào mới yêu cầu học sinh mở rộng việc
đọc với các tác phẩm ngoài chương trình ở giai đoạn tương ứng. Chẳng hạn, giáo
viên có thể đưa ra một “list” (danh sách) các văn bản văn học ngoài chương
trình yêu cầu hoặc khuyến khích học sinh đọc vào bất cứ lúc nào có thể thu xếp
được thời gian:
-
Với các thể loại của văn học dân gian: học sinh đọc và tìm hiểu thêm các bài ca
dao than thân (chùm ca dao mở đầu bằng Thân
em...), ca dao yêu thương tình nghĩa (một số bài ca dao nên cảm nhận trong
hình thức diễn xướng của nó: dân ca, như dân ca quan học Bắc Ninh), truyện cổ
tích Việt Nam và thế giới (các truyện cổ tích cùng motif Tấm Cám trên thế giới)
(đọc và có khả năng khu biệt một số nét riêng của truyện cổ tích Việt Nam,
truyên cổ Grim, truyện cổ tích Anđecxen...); đọc trọn vẹn sử thi Đăm Săm,
Iliat, Odixe, Ramayana...
-
Với văn học trung đại: Tìm hiểu trọn vẹn Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, các
tác phẩm Văn chiêu hồn, Long Thành cầm giả ca, Sở kiến hành, Truyện Kiều... của
Nguyễn Du, thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến...
-
Với văn học hiện đại: Đọc trọn vẹn tiểu thuyết, truyện ngắn Nam Cao, Thạch Lam,
Nguyễn Tuân, đọc thêm thơ Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, Huy Cận, Chế Lan
Viên... (tập trung trong cuốn Thi nhân Việt Nam- Hoài Thanh, Hoài Chân), đọc
thêm thơ Tố Hữu, Xuân Quỳnh, Thanh Thảo, thơ Lưu Quang Vũ, kí Hoàng Phủ Ngọc Tường,
tản văn Vũ Bằng, truyện Tô Hoài, Nguyễn
Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Chu Lai, Dương Hướng, Bảo Ninh, thơ Vi Thùy Linh, truyện
Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Ngọc Tư....
-
Với văn học nước ngoài: Học sinh cần đọc được các tác phẩm kinh điển, tác giả bất
hủ của văn học thế giới: tiểu thuyết Huygo, Banzac, L.Tonxtoi, F.Kafka... truyện
ngắn Lỗ Tấn, Hemingway, O.Henry... các tác phẩm đương đại: một số tác phẩm, tác
giả được giải Nobel văn học gần đây: Cao lương đỏ, Phố của những cửa hiệu u tối...
các tác phẩm ngụ ngôn hiện đại: Truyện con mèo dạy hải âu bay, Nhà giả kim...
-
Một số văn bản khác: Không chỉ đọc các văn bản văn học, học sinh chuyên văn nên
tiếp xúc với các văn bản thông tin, văn bản nhật dụng hay các tác phẩm chính luận,
văn bản cận văn học để nắm bắt được sự đa dạng của văn bản và thể loại: Bức xúc
không làm ta vô can, Thiện, ác và smartphone, Điểm đến của cuộc đời (Đặng Hoàng
Giang), Nếu biết trăm năm là hữu hạn (Phạm Lữ Ân); một số cuốn sách của thiền
sư Thích Nhất Hạnh, Minh Niệm, hay John đi tìm Hùng (trần Hùng), Trở về nơi
hoang dã (Trang Nguyễn). Hộ chiếu xanh đi quanh thế giới...
Những
gợi ý này không có tính chất bắt buộc mà chỉ là sự định hướng để học sinh
chuyên văn được tiếp cận với các tác phẩm văn học hoặc gần gũi với văn học thực
sự có giá trị thay vì tốn thời gian cho các tác phẩm ngôn tình, đam mỹ mà giới
trẻ hay “nghiền” ngày nay. Học sinh có thể đọc ngay cả trước khi được hướng dẫn
đọc – hiểu; việc rèn kỹ năng đọc –hiểu trong quá trình đọc sẽ giúp “nâng tầm hiểu”
của học sinh khi xem lại các tác phẩm đã đọc.
2.2.
Nguyên tắc 2: Xây dựng bộ tri thức công cụ đọc
văn cho học sinh chuyên Văn.
Nếu tri thức khoa học là những hiểu biết có hệ thống của
con người về quy luật tự nhiên, xã hội, con người, về bản thân, thì tri thức
công cụ hướng đến khả năng sử dụng những hiểu biết đó vào hoạt động để không ngừng
chiến lĩnh đối tượng, đáp ứng mục tiêu đặt ra.
Tri thức công cụ cần hình thành cho học sinh chuyên văn :
Tri thức công cụ lí luận văn học. Trong cuốn Kí hiệu học văn hóa nhà nghiên cứu Lotman đã khẳng định: văn học
nghệ thuật là một ngôn ngữ đặc biệt, loại ngôn ngữ được kiến tạo phủ lên bên
trên ngôn ngữ ngữ tự nhiên như một hệ thống thứ sinh cho nên việc tiếp nhận văn
bản không được phép thoát li ngôn ngữ nghệ thuật của nó đồng thời phải tìm thấy lớp bề sâu bị phủ lên . Một cuộc
giao tiếp như vậy giữa học sinh với tác phẩm đặc biệt là với những tác phẩm,
văn bản nằm ngoài chương trình học sinh hoàn toàn chủ động trong việc đọc và hiểu
nên kiến thức về lí luận văn học căn bản là vô cùng cần thiết. Công cụ lí luận
văn học chính là tri thức khoa học về đối tượng.
Thực tế trong quá trình dạy đối tượng học sinh chuyên
văn, các giáo viên đều chú tâm vào việc cung cấp kiến thức nền về lí luận văn học
cho học sinh tuy nhiên để học sinh hiểu và cảm thụ tốt, đọc hiểu tốt văn bản
ngoài chương trình, để học sinh có chất văn, kiến thức văn sâu rộng phong phú
và sáng tạo cần phải mô hình hóa liên kết hóa những kiến thức đó với kĩ năng đọc
hiểu.
Một số tri thức công cụ lí luận văn học có thể sử dụng hiệu
quả vào hoạt động đọc hiểu của học sinh là: tri thức thể loại
văn học ( các khái niệm công cụ: truyện ngắn, tiểu thuyết,thơ ca, tự sự, thơ trữ
tình, kịch…) tri thức công cụ về các thành tố văn học( nhân vật, hành động, bối
cảnh, tình tiết, xung đột, giọng điêu…),tri thức về phương tiện thể hiện của
văn học (các phép tu từ...). Các tri thức này có thể sắp xếp thành một trục công cụ
xuyên suốt tài liệu học tập của học sinh để giúp học sinh đọc văn bản theo mức
độ khó dần, phức tạp dần, được cung cấp lần đầu, nhắc nhở trở lại như một hộp
công cụ trong lần đọc hiểu sau đó. Một cách tự nhiên chúng trở thành quy trình
tư duy khi học sinh tiếp xúc với những văn bản ngoài chương trình.Ví dụ khi học
sinh được trang bị kiến thức về thơ trữ tình, ngôn ngữ thơ thông qua việc tìm hiểu những bài thơ nằm
trong chương trình như Vội vàng ( Xuân Diệu), Đây thôn Vĩ Dạ( Hàn Mặc Tử),
Tràng Giang( Huy Cận) các em có thể vận dụng để đọc hiểu những bài thơ khác
trong phong trào thơ Mới 1930-1945.
Cách thức dạy học sinh sử dụng tri thức công cụ vào hoạt
động đọc hiểu văn bản nằm ngoài chương trình.
Bước 1: Cung cấp thông tin cơ bản của đơn vị tri thức
công cụ cần thiết cho quá trình đọc hiểu.( Điều này được thực hiện trong quá
trình dạy kiến thức nền cho học sinh chuyên Văn)
Bước 2: Hướng dẫn học sinh vận dụng công cụ được trang bị
thông qua con đường “đồng hóa”. Học sinh chuyên Văn sẽ có nền tảng kiến thức,
khi đọc hiểu học sinh mang đến những hiểu biết xã hội, kinh nghiệm thẩm mĩ của
bản thân đã được vận dụng với những tác phẩm văn học quen thuộc để nhận diện và giải mã chúng một cách hiệu
quả.
Bước 3: Hướng dẫn học sinh vận dụng tri thức công cụ vào
hoạt động đọc văn bằng con đường điều ứng.Trong tâm lí tiếp nhận hoạt động điều
ứng chỉ xảy ra khi tri thức cần tiếp nhận mới mẻ, phù hợp với cấu trúc hiện có
lúc này học sinh sẽ vận dụng tri thức đã có để chiếm lĩnh đối tượng.
Bước 4: Đánh giá việc sử dụng công cụ vào hoạt động đọc
hiểu độc lập của học sinh chuyên văn. Giáo viên chọn những văn bản đọc hiểu mới
có tính hệ thống đưa ra những yêu cầu, những dạng đề mở để học sinh có khoảng
không để sáng tạo,thể hiện những quan điểm, suy nghĩ, thể nghiệm những kiến thức
đã được ôn luyện ở mức độ cao hơn. Tiến tới một bước nữa học sinh có thể lựa chọn
và đăng kí văn bản đọc hiểu cho mình phù hợp mục tiêu và nhu cầu thưởng thức.
2.3
Nguyên tắc 3: Đảm bảo học sinh được thực hành các bước đọc hiểu văn bản phù
hợp với đặc trưng thể loại
Mục đích cốt lõi của việc đọc là hiểu, tức là có thể kiến
tạo ý nghĩa của văn bản và vận dụng, chuyển hóa những gì tiếp nhận được thành sở
hữu của bản thân học sinh, đưa kết quả đọc vào thực tiễn đời sống cá nhân, có
được hiểu biết mới mẻ, sáng tạo phục vụ cho quá trình viết văn, cảm thụ
văn.Chính bởi điều này quá trình đọc hiểu văn bản ngoài chương trình của học
sinh chuyên văn cần phải theo một trình tự vừa tuyến tính vừa tổng hợp, bước
sau tiếp nối, kế thừa, đào sâu, mở rộng, phát triển đồng thời kiểm tra điều chỉnh
những gì đã đạt được ở bước trước.
Đọc
– hiểu là một quá trình gồm ba “tiểu giai đoạn” (microperiods): trước khi đọc, trong
khi đọc và sau khi đọc. Cần xem xét từng tiểu giai đoạn này bởi việc phân biệt
giữa
những điều mà người đọc “đem vào” với những điều mà họ “rút ra” từ quá
trình đọc rất quan trọng. Làm thế nào để HS “đem
vào”
hoạt động đọc tất cả các khả năng nhận thức, siêu nhận thức cùng vốn tri thức, trải nghiệm
liên
quan để sau đó “rút
ra” được tối đa những tri
thức mới, trở thành bạn đọc sáng tạo, làm giàu
có thêm
ý nghĩa cho văn bản cũng như nguồn vốn của bản thân, phát triển tối đa các khả năng
và năng lực, đó chính là mục tiêu mà quá trình day học đọc – hiểu cần hướng tới. Hơn nữa, trong
từng
tiểu giai đoạn ấy, các hành động mà người đọc thực hiện lại được
chi phối bởi
đặc trưng thể loại từng văn bản
khác nhau.
2.3.1 Trước khi đọc văn
bản
Nhiệm vụ chính của hoạt động trước khi đọc bao gồm: đưa
ra yêu cầu đối với học sinh, học sinh phải xác định mục đích đọc rõ ràng,biết
huy động tri thức và trải nghiệm nền gì cho quá trình đọc, tạo tâm thế sẵn sàng
hứng thú khi bắt đầu đọc hiểu một văn bản ngoài chương trình, lựa chọn tài liệu
ngoài chương trình để đọc, lựa chọn chiến thuật đọc phù hợp.
Trước khi đọc, mỗi người đọc luôn có một tầm đón nhận nhất định, bao gồm các khả năng nhận thức, năng lực ngôn ngữ, phi ngôn ngữ…, cùng với vốn kiến thức, kinh
nghiệm có liên quan đến nội dung, chủ đề của văn bản. Đó chính là những tri thức nền
nếu bạn đọc thiếu hụt mà không được hay không
biết
cách bù đắp, hoặc có sở hữu nhưng
không có khả năng huy động, giữa họ và văn
bản sẽ tồn tại một khoảng cách tiếp
nhận lớn. Sự khác biệt về tri thức nền giữa những
người đọc cũng chính là nguyên nhân lí
giải cho những cách hiểu và
mức độ hiểu khác nhau về văn bản.
Do đặc trưng của văn học
như tính biểu tượng, tính đa nghĩa, tính hàm ẩn… nên việc tồn tại những khoảng cách thẩm mĩ trong tiếp nhận là điều đương
nhiên; sự đồng nhất thẩm mĩ chỉ là tương
đối
ở những mức độ nhất định. Đọc văn học, người đọc không chỉ cần đến những tri thức nền
mà
còn phải huy động cả những trải nghiệm, cảm xúc liên quan.
2.3.2 Trong khi đọc văn bản
Đây
là bước học sinh tiếp xúc trực tiếp, cụ thể, cảm tính đối với đối tượng đọc hiểu
mới mẻ là văn bản ngoài chương trình học. Đây là khâu học sinh bắt đầu va chạm
với từng con chữ, câu văn, câu thơ..để chuyển đổi hệ thống kí hiệu ngôn ngữ- giấy
trắn, mực đen trên trang sách thành hệ thống tín hiệu vang lên trong đầu óc. Với
học sinh chuyên văn quá trình đọc hiểu này còn giúp các em có những rung cảm thực
sự dựa trên sự tinh nhạy trong tư duy ngôn ngữ và sự sâu sắc trong cảm nhận.
Học sinh sẽ vận dụng những tri thức công cụ để
không chỉ đọc mà còn hiểu và cảm được văn bản. Giải mã văn bản, đánh thức lớp
ngôn từ, ghi chép và đánh dấu.Trong quá trình đọc có thể xuất hiện những liên
tưởng, kết nối chính vì vậy học sinh chuyên văn không thể đọc một lèo cho xong
hay đọc chỉ để lấy vài câu hay dùng để trích dẫn liên hệ khi cần mà quan trong
hơn cả đọc hiểu để cảm nhận và kiến tạo những suy nghĩ, tình cảm mới cho bản
thân cho sức viết của mình.
Sự trải nghiệm đọc thực sự diễn ra khi bạn đọc tương tác với văn bản. Tất nhiên,
những tri thức nền vẫn tiếp tục được huy động, song đây là tiểu giai đoạn đọc thể
hiện rõ nhất bản chất phức tạp, năng động, phát triển
không ngừng của các hành động đọc và sự sáng tạo của chủ thể đọc ở mọi phương diện. Các thao tác tư duy, các khả năng nhận thức, siêu nhận thức, các cung bậc cảm xúc...đan xen, phức hợp vào nhau để
giúp người đọc phản hồi lại văn
bản. Tuy vậy, có thể xem xét các hành động cơ bản HS cần được trải nghiệm trong khi đọc như sau:
Giải mã, nhận biết các thông tin và đặc điểm chính về văn bản
Giải mã
ngôn từ là bước quan trọng đầu tiên
giúp người đọc thâm nhập vào thế
giới thông tin của văn bản. Với HS THPT,
khả năng giải mã về cơ bản đã hoàn thiện, đối với
những mã ngôn ngữ không quen thuộc, có thể dựa vào văn cảnh kết hợp với chủ động
tìm kiếm, vận dụng các nguồn thông tin hỗ trợ, từ đó: hiểu tầng nghĩa ngôn từ của văn bản,
nắm bắt được nghĩa của các từ khó (ví dụ từ Hán Việt, từ mang
nghĩa đặc biệt trong văn cảnh cụ thể, điển tích, điển cố…); xác định cấu trúc, nội dung tổng thể của văn bản (thể
loại, bố cục, đề tài); xác định các chi tiết, hình ảnh, từ ngữ, đoạn văn…có giá trị
quan trọng, tập trung thể hiện chủ đề văn bản.
Với mỗi thể loại văn học như thơ trữ tình, truyện
ngắn, tiểu thuyết, kịch…, việc giải mã, nhận biết các thông tin và đặc điểm chính về văn
bản lại có những tín hiệu chỉ dẫn riêng. Ví dụ, đọc thơ trữ tình cần nhận ra thể thơ, cảm xúc, âm hưởng chủ
đạo cùng chủ thể trữ tình…; đọc truyện ngắn cần nhận
diện tình huống truyện, nhân
vật chính…
Tái tạo, tưởng tượng, dự đoán trong khi đọc:
Các hành động tái tạo, tưởng
tượng, dự đoán trong khi đọc vô cùng quan trọng khi HS trải nghiệm đọc các văn bản văn học, đặc biệt là văn bản văn học hư cấu. Đây chính là các hành động giúp hiểu tầng cấu trúc hình tượng, làm sống dậy vẻ đẹp và sức mạnh của thế giới ngôn từ nghệ thuật. Muốn hiểu được VB văn học, nhất thiếtngười đọc phải có khả năng và phải trải nghiệm các hành động tái tạo, tưởng tượng, dự
đoán trong khi đọc với tất cả trí tuệ và
tâm
hồn mình.
Phân tích,
kết nối, tổng hợp, suy luận, cắt nghĩa:
Quá trình đọc đồng thời cũng là quá trình
độc giả luôn luôn thực hiện các
hành động phân tích, kết nối, tổng hợp, suy luận, cắt nghĩa:
Phân tích để nhận diện
đặc điểm, để tìm ra mối quan hệ của các yếu tố, chi tiết, hình tượng quan trọng…
Kết nối với những tri thức nền đã được hoạt hóa trước khi đọc và tiếp tục được huy
động khi va chạm với nguồn thông tin từ VB; kết nối đa dạng, đa chiều, nhiều cấp độ theo các hướng: văn
bản - cuộc sống, văn bản – văn bản. Tổng hợp nên chủ đề, phương thức trình bày, nét nghệ thuật độc đáo của văn
bản. Suy luận ra ý nghĩa của văn bản,
mục đích sáng tác, quan niệm riêng, thông điệp của tác giả…Cắt nghĩa, lí giải thông điệp của
văn bản, quan niệm và mục
đích của tác giả.
2.3.3. Sau khi đọc văn bản
Đây
là giai đoạn học sinh hoàn thành việc tri giác tổng thể văn bản nhưng không có
nghĩa việc đọc đã dừng lại.Vì văn bản đọc hiểu nằm ngoài chương trình cho nên học
sinh có thể đọc đi đọc lại để suy luận, đánh giá, cảm nhận.
Giáo
viên hướng dẫn học sinh tạo ra những kết nối cần thiết trong và sau quá trình đọc
cho học sinh. Việc này có thể thực hiện trên lớp trong giờ giảng văn và trong
quá trình học sinh luyện viết. Ví dụ trên lớp giáo viên có thể yêu cầu học sinh
liên hệ, đánh giá, so sánh những văn bản trong chương trình với những văn bản
ngoài chương trình học sinh lựa chọn đọc. Sự liên hệ này giúp học sinh chuyên
văn có cái nhìn toàn diện và sâu rộng, biết cách thể hiện quan điểm giúp học
sinh có tư duy phản biện,biết cách liên tưởng so sánh giúp học sinh có được những
suy luận tích cực, mới mẻ. Mới mẻ, sáng tạo là yêu cầu rất cần thiết đối với một
học sinh chuyên văn, nó cũng là tố chất để làm nên những bài văn hay, sâu sắc.
Quá trình đọc còn tiếp diễn sau khi người
đọc đã đi hết hành
trình
của văn bản. Mặc dù văn bản
đã “tạm thời” được hiểu một cách tương đối đầy đủ, song người đọc
tiếp tục có những kết nối sâu hơn, rộng hơn, tổng
thể hơn; từ đó có những phản hồi,
đánh giá và vận dụng cụ
thể. Sự phản hồi, đánh giá và vận dụng sau khi đọc có biên
độ rất rộng, vô cùng phong phú,
phụ thuộc vào tiềm năng tạo nghĩa của văn
bản và bạn đọc. Nó thể hiện sự tổng hợp, kết nối giữa văn bản và
người đọc theo rất nhiều chiều,
nhiều cấp độ. Đó có thể là sự giàu có lên của người đọc về mặt thông tin, tri thức, cũng có thể là những vỡ lẽ về xúc cảm
có giá trị thanh lọc tâm hồn. Đó có thể là
những băn khoăn, khúc mắc mới hình thành hay
những
giải
pháp, những câu
trả lời bấy lâu nay vẫn đang tìm kiếm…
Không những vậy, trong hành trình đọc sau này, người đọc có thể quay trở lại với VB bất cứ khi nào để làm nền
tảng cho việc đọc – hiểu một văn
bản khác. Ngược lại, có
khi, chính từ việc đọc những văn bản khác, có thêm kiến thức nền, có thêm
những trải nghiệm, người đọc lại có nhu cầu quay
về với văn
bản để có thêm những ý hiểu mới, cách
hiểu mới.
Các hành động sau khi đọc của HS THPT cần đặc biệt được quan tâm, bởi qua đó, chứng tỏ người đọc đã thực sự hiểu văn
bản một cách sâu sắc hay mới ở một mức độ
nhất
định. Hiểu thấu đáo văn bản sẽ đem
đến
những phản hồi có giá trị, cũng như những
đánh
giá và vận dụng xác đáng. Lớp học chính là môi trường lí tưởng để các phản hồi về văn bản
có dịp giao thoa, nhất là khi tương tác với giáo
viên - một bạn đọc tinh hoa có nhiều
trải
nghiệm, HS tiếp tục có sự phát triển
về cách hiểu văn bản, sự đánh giá và vận dụng sâu sắc hơn.
Tóm lại, khi và
chỉ khi HS được thực hành đầy đủ các bước đọc
– hiểu, họ mới thực sự là những
bạn
đọc sáng tạo. Bằng việc trải nghiệm đọc của chính bản thân, HS sẽ
có cơ hội trở thành những người đọc có năng lực.
Cần
nhận thấy được rằng hoạt động đọc hiểu của học sinh chuyên văn chính là quá
trình đối thoại của bạn đọc với tác giả (nhà văn và đọc giả) một cách chủ động
và độc lập. Rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản ngoài chương trình cho học sinh chuyên
văn chính là quá trình hướng dẫn tự học và học tập độc lập, chủ động. Giáo viên
cần gợi mở, định hướng để phát huy sự tưởng tượng, suy luận, đặt câu hỏi cho những
vẫn đề mà học sinh đã đọc. Giáo viên cần tạo ra môi trường đối thoại cho học
sinh ( trực tiếp hay gián tiếp qua bài viết) một cách chủ động và độc lập. Rèn
kĩ năng đọc hiểu văn bản ngoài chương trình cho học sinh chuyên văn chính là
quá trình hướng dẫn tự học và học tập độc lập, chủ động. Giáo viên cần gợi mở,
định hướng để phát huy sự tưởng tượng, suy luận, đặt câu hỏi cho những vẫn đề
mà học sinh đã đọc. Giáo viên cần tạo ra môi trường đối thoại cho học sinh ( trực
tiếp hay gián tiếp qua bài viết), cần sự định hướng phù hợp cho quá trình hiểu
biết của bản thân học sinh.
Tóm
lại: Văn bản nào cũng là những cấu
trúc vẫy gọi, còn độc giả- những người ngồi trước trang sách tự mình quyết định
sẽ hiện thực hay khuất bóng vô hình. Rèn học sinh kĩ năng đọc hiểu là một yêu cầu
quan trọng. Đối với việc đọc hiểu văn bản ngoài chương trình cho học sinh
chuyên văn sẽ giúp việc học văn, dạy văn trở nên hấp dẫn, văn chương sẽ đi đúng
quỹ đạo của sự sáng tạo, mới mẻ, hấp dẫn. Quá trình này cũng sẽ giúp giá trị của
tác phẩm văn chương được mở rộng đó là đánh thức và cảm hóa những tình cảm tích
cực, chủ động. Rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản ngoài chương trình cho học sinh
chuyên văn cần được làm thường xuyên để tạo thành thói quen, cách học văn theo
hướng đổi mới.
3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP CỤ THỂ RÈN KỸ
NĂNG ĐỌC – HIỂU VĂN VĂN NGOÀI CHƯƠNG TRÌNH ĐỐI VỚI HỌC SINH CHUYÊN VĂN
3.1 Sử dụng chiến thuật đọc – hiểu
Giáo viên có thể cung cấp cho học sinh chuyên
văn các chiến thuật đọc hiểu thông qua các mẫu phiếu với mục đích giúp hục sinh
ghi ra được những thông tin liên quan đến văn bản đọc – hiểu và cảm nhận ban đầu
về văn bản, điều này sẽ thúc đẩy học sinh tìm kiếm và trang bị những tri thức
ngoài văn bản: tác giả, hoàn cảnh sáng tác... điều này quan trọng đặc biệt đối
với tác giả ngoài sách giáo khoa.
Một số chiến thuật đọc hiểu thường được sử dụng
trong các tài liệu đọc – hiểu
Tên chiến
thuật
|
Thời điểm sử dụng
[khi đọc]
|
Có thể cho HS vận dụng ngay
|
Cần dạy HS
trước khi vận dụng
|
Trước
|
Trong
|
Sau
|
Đánh dấu và ghi chú bên lề
|
|
X
|
X
|
x
|
|
Tổng quan về VB
|
x
|
|
|
x
|
|
Cuộc giao tiếp
văn học
|
x
|
X
|
X
|
x
|
|
Câu hỏi kết
nối tổng hợp
|
|
X
|
X
|
|
X
|
Mối quan hệ hỏi đáp
|
x
|
X
|
X
|
|
X
|
Đọc suy luận
|
|
X
|
X
|
|
X
|
Nhân vật mong muốn,
nhưng…
|
|
X
|
X
|
x
|
|
Cuốn phim trí óc
|
|
X
|
X
|
|
X
|
Dự đoán
|
x
|
X
|
|
x
|
|
Với các chiến thuật học sinh có thể vận dụng
ngay, giáo viên chỉ cần hướng dẫn 1 lần để học sinh ấp dụng cho mọi văn bản
ngoài chương trình: Đánh dấu bên lề (Hoặc gạch chân những chi tiết quan trọng),
ghi chú (Tra nghĩa những từ khó hiểu, ghi chú bên lề), tổng quan về văn bản (những
hiểu biết ngoài văn bản: tác giả, hoàn cảnh sáng tác...), cuốn phim trí óc (tái
hiện trong đầu óc các tình tiết, diễn biến cốt truyện, hình dung diện mạo cử chỉ
hành động nhân vật, vẽ ra bức tranh thiên nhiên cuộc sống trong trí óc theo sự
miêu tả của tác giả), nhân vật mong muốn, nhưng... (đọc và trả lời câu hỏi:
Nhân vật mong mỏi, khát vọng điều gì, thực tế diễn ra mâu thuãn, trái ngược với
mong muốn đó ra sao, dẫn tới tâm trạng hành động gì của nhân vật...), dự đoán
(đọc và suy đoán các tình tiết sự kiện xung đột sẽ diễn ra tiếp theo chiều hướng
như thế nào, kết quả ra sao)....
Chẳng hạn mẫu phiếu sau:
Tổng quan về văn bản
Quan sát ban đầu của tôi về VB
|
Cảm nhận, dự đoán ban đầu của tôi
|
1. Nhan đề: Long Thành cầm giả ca
|
|
2. Tác giả Nguyễn Du
|
|
3. Thể thơ
|
|
4. Chủ thể trữ tình trong bài
thơ,
âm hưởng, cảm xúc chủ đạo
|
|
Với những chiến thuật cần
dạy học sinh trước khi vận dụng, giáo viên cần định hướng và thảo luận với học
sinh về kết quả nhiều lần giúp học sinh làm quen, nhuần nhuyễn về chiến thuật,
dần dần học sinh sẽ hình thành các năng lực đọc – hiểu với văn bản mới, khi đó
giáo viên có thể đặt hàng tác phẩm để học sinh tự đọc – hiểu.
Ví dụ, với loại câu hỏi kết
nối tổng hợp:
Câu hỏi kết nối tổng hợp về hình tượng thiên nhiên mùa xuân trong bài thơ Mưa
xuân (Nguyễn Bính)
Loại câu hỏi
|
Miêu tả
|
Câu hỏi
|
VB
|
Thông
tin được
phát
hiện trong VB.
|
Hình tượng thiên nhiên mùa
xuân trong văn bản được miêu tả với những chi tiết nào? (mưa xuân phơi phới
bay – đã ngại bay, hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy – đã nát dưới chân giày...)
|
VB – VB
|
Kết nối thông tin giữa
VB đang đọc với các
VB khác cùng thể loại
|
Hãy kể thêm một số chi
tiết tương đồng trong các văn bản khác mà
bạn biết?
(Các chi tiết về mưa xuân: Mưa đổ bụi
êm êm trên bến vắng (Anh Thơ); Lại
có mưa xuân nước vỗ trời (Nguyễn Trãi)... Các chi tiết về hoa xoan: Đầy sân mưa bụi nở hoa xoan...) Mục đích
sử dụng các chi tiết nghệ thuật này này
có
những điểm tương đồng và khác biệt ra sao?
|
VB – hiện
thực đời sống
|
Kết nối thông tin giữa
VB đang đọc và vấn đề
hiện thực
|
Những hiểu biết của bạn về những hiện tượng thiên nhiên đặc trưng của mùa
xuân là gì? (Nhất là hiện tượng có liên quan đến mưa, hoa xoan)
|
Câu hỏi
kết nối,
tổng hợp
|
Kết nối thông
tin của
tất cả các mặt trên vào
một câu hỏi tổng hợp.
|
Vẻ đẹp và nét riêng biệt của
hình tượng thiên nhiên mùa xuân trong thơ Nguyễn Bính là gì?
|
Tương tự, với các chiến
thuật đọc – hiểu khác, giáo viên hướng dẫn học sinh và đưa ra những đơn đặt
hàng phù hợp.
3.2. Hướng dẫn học sinh tạo lập và sử dụng hiệu quả hồ sơ đọc
Hồ sơ đọc chính là một loại hồ sơ
học
tập, là bộ sưu tập
có mục đích và
có tổ chức những hoạt động
đọc của HS trong
suốt một thời gian dài, hiển thị một cách cụ thể và chân thực những thông tin về quá trình đọc cũng như kết quả đọc
của HS.
Hồ sơ
đọc thể hiện sự tích hợp giữa hoạt động đọc và hoạt động viết
của HS, vì thế tạo lập và sử dụng hồ sơ đọc dưới sự hướng dẫn, phản hồi của
GV là cách thức quan trọng
để giúp HS phát
triển năng lực. Quan trọng hơn, hồ sơ đọc chính là một cách
tự phản
hồi
của HS về quá trình
đọc, là cách thức giám
sát hoạt động đọc
và sự hiểu của bản thân một cách
hiệu quả, từ đó tự có những điều chỉnh phù hợp, hướng tới khả năng đọc độc lập
và thành thục.
Hồ sơ đọc có thể được thể hiện dưới nhiều
hình
thức sáng tạo song cần phản ánh được các thông tin cơ bản như: Danh sách các VB được đọc; Hành trình đọc
từng VB; Phản hồi của người đọc về VB; Sự tương tác của người đọc với các chủ
thể đọc khác; Những sự thay
đổi, trưởng thành của
người đọc sau khi tương tác với
VB và các chủ thể đọc khác.
Thực chất, hình thức vở soạn và vở ghi chép trên lớp của HS trong
dạy học đọc hiểu hiện nay chính là một phần trong
hồ sơ đọc của HS. Song cần thay đổi quan niệm,
chuyển
việc soạn bài và ghi bài truyền thống thành hoạt động tạo lập hồ sơ đọc, nghĩa là soạn bài và ghi bài đứng từ cương
vị của những người đọc trên hành trình đọc, từ đó, vai trò, trách nhiệm và hứng thú của HS trong khi đọc
hiểu sẽ thay đổi theo hướng tích cực hơn. Ngoài ra, khi hướng đến việc mở rộng phạm vi đọc và khả năng đọc độc lập cho người học thì hồ sơ đọc là một công cụ vô cùng quan trọng giúp
quan sát và phản hồi quá trình đọc ngoài giờ của HS.
Vai trò chủ động của HS trong việc lập hồ sơ đọc nên được thể hiện ngay từ
việc tham gia thảo luận cùng GV để thống nhất cấu trúc, tiêu chí lựa chọn
các
nội dung và hình thức trình bày.
Những gợi ý tạo lập hồ sơ đọc hiểu với văn bản ngoài chương trình
****************
HÀNH TRÌNH ĐỌC VB:……………………………………………………
(1)“Hoàn cảnh gặp gỡ” của tôi và
VB
- Tôi biết đến VB như thế nào? Vì sao VB “lọt vào mắt xanh” của tôi?
- Tôi lấy VB từ nguồn nào?
- Ấn tượng đầu tiên của tôi về VB là gì?
(2) Sự tương tác giữa tôi và VB
- Tôi mong muốn và dự đoán gì trước khi đọc VB?
- Những yếu tố “tổng quan về VB” gợi nên trong tôi những kinh nghiệm nào?
- Một số cuốn phim trí
óc tiêu biểu của tôi khi đọc VB.
- Tôi đã huy động những chiến thuật nào khi đọc VB?
- Kết quả đọc của tôi (Ghi lại ngắn gọn những ý chính như:
VB viết về nội dung gì? Cấu trúc của VB như thế nào? Những chi tiết/ hình tượng…nào đóng vai trò quan
trọng trong VB? Ý nghĩa hay mục đích của VB là gì? Những điều còn băn khoăn,
chưa
hiểu về VB là gì? Dự định giải
quyết những băn khoăn ấy bằng cách nào - tìm
sự hỗ trợ từ các tài liệu khác hay trao đổi với bạn cùng lớp, GV?
(3) VB và sự
chiêm nghiệm của tôi
- Những kết luận “tạm thời” của tôi về VB (ý nghĩa của VB, đánh giá về VB), những thay đổi của tôi (về quan niệm, kinh nghiệm, hành động) hay sự trưởng thành
trong kĩ năng đọc của bản thân…
- Tôi quay trở lại VB và có những thay đổi gì khi nhận được sự chia sẻ của các chủ
thể đọc khác?
************
Về hình thức trình bày, hồ sơ đọc cần được gợi ý theo hướng mở để HS có thể hứng thú, sáng tạo trong cách thể hiện cũng như có thể quay trở lại VB bất cứ
lúc nào để bổ sung, điều chỉnh cách hiểu của bản thân. Giáo viên cũng cần có kế hoạch
xem xét, phản hồi và định
hướng thường xuyên, định kì để giúp HS sử dụng hồ sơ đọc một cách hiệu quả. Hồ
sơ đọc nên được
chia
sẻ cho các bạn cùng lớp để nhận được
sự phản hồi đồng đẳng song
song với việc phản
hồi của giáo viên.
Chẳng
hạn, 1 học sinh chuyên văn đã hoàn thành hành trình đọc văn bản Dưới bóng hoàng lan (Thạch Lam) như sau:
HÀNH TRÌNH ĐỌC VB: DƯỚI BÓNG HOÀNG LAN (Thạch Lam)
(1)“Hoàn cảnh gặp gỡ” của tôi và
VB
-
Một truyện ngắn nhẹ nhàng, ấn tượng trong tập Truyện ngắn Thạch Lam đọc
trong kỳ nghỉ hè.
(2) Sự tương tác giữa tôi và VB
-
Tôi mong muốn và dự đoán gì trước khi đọc VB:
Cảm nhận sâu hơn về phong cách Thạch Lam. Dự đoán sẽ phát hiện ra chất thơ
trong văn xuôi TL nhe nhàng, sâu lắng, nhân vật Thanh sẽ mang bóng dáng của nhà
văn.
- Những yếu tố “tổng quan về VB” gợi nên trong tôi những kinh nghiệm nào:
Truyện ngắn là thể loại sở trường của Thạch Lam, nhân vật trong truyện thuộc kiểu
nhân vật tâm trạng, cốt truyện sẽ đơn giản, truyện không có chuyện.
- Một số cuốn phim trí óc
tiêu biểu của tôi khi đọc VB:
Hình dung ra không gian thanh sạch, bình yên, xanh mát trong căn nhà và khu vườn
cũ; cảm xúc bối rối của Thanh khi gặp lại cô gái hàng xóm; Thanh ngước lên nhìn
bóng hoàng lan xanh ngát và tận hưởng từ sâu trong vòm ngực mùi hoàng lan thơm
mát, nhe nhàng.
- Tôi đã huy động những chiến thuật nào khi đọc VB: Ghi chú, đánh dấu bên lề, tổng quan về
văn bản, cuộc giao tiếp văn học với nhân vật, đọc suy luận, cuốn phim trí óc, dự
đoán.
- Kết quả đọc của tôi: Như phần
đa các sáng tác của TL, đây là một truyện không có cốt truyện, cũng không chở một
ý tưởng nào rõ rệt. Chàng trai tên Thanh ra tỉnh làm việc, sau hai năm có dịp
trở về ngôi nhà cũ,thăm lại mảnh vườn có cây hoàng lan toả bóng, gặp lại người
bà hiền hậu và cô hàng xóm dịu dàng. Tất cả vẫn như xưa, trong lành, ấm áp,
thân thuộc. Bà chàng mái tóc bạc phơ, còn cô gái xinh xắn trong tà áo trắng,
mái tóc buông lơi trên cổ nhỏ. Thanh được ngắm nhìn lại cây hoàng lan thân mộc,
lá cành xoè rủ tán, màu hoa có nắng vàng và hương mát thơm, dịu dàng hư thoảng.
Bữa cơm có Nga cùng ăn, ấm cúng, thấm đầy những săn sóc âu yếm. Họ dắt nhau ra
vườn hái hoàng lan như những ngày xa xưa nào. Sáng hôm sau, Thanh ra đi, nhắn gửi
lại lời từ biệt cô gái và biết rằng "Nga sẽ vẫn đợi chàng, nhớ mong chàng
như ngày trước". Tất cả chỉ là những cảm xúc rất thơ, rất ngọt ngào trìu mến
êm ả trong lành: Hạnh phúc là sự yên tĩnh trong tâm hồn, là được sống hài hoà gắn
bó trong tình yêu thương, tình người đằm thắm.
Những điều còn băn khoăn,
chưa
hiểu về VB: Không gian dưới
bóng hoàng lan có phải là không gian hiện thực gắn bó với cuộc đời TL hay chỉ
là không gian trong mơ ước, trong mộng tưởng của người nghệ sĩ? Những đặc trưng
của chủ nghĩa lãng mạn, chất thơ trong văn bản? Phong cách của TL là sự hòa giải
giữa lãng mạn và hiện thực, nhưng điều đó có vẻ không đúng với truyện ngắn này
(truyện gần như thuần túy lãng mạn) Liên hệ với truyện ngắn Nhà mẹ Lê thì dường
như lại thuần túy là văn học hiện thực. Độ vênh trong những sáng tác cụ thể này
nói lên điều gì, có ý nghĩa ra sao?
(3) VB và sự
chiêm nghiệm của tôi
-
Những kết luận “tạm thời” của tôi về VB: truyện ngắn khá đặc trưng cho văn học
lãng mạn 1930-1945 và nhân vật Thanh mang đậm dấu ấn của con người Thạch Lam: vốn khiêm cung, ít nói, thường sống thiên về nội
tâm, thâm giao, kẻ duy cảm điển hình khi lắng nghe, theo đuổi, nắm bắt những cảm
giác, cảm xúc bên trong của chính mình, đây lại là biểu hiện của thiên hướng
nghệ sĩ đa sầu đa cảm, một tâm hồn kì lạ, như thể được kết từ những sợ tơ rất
mong manh, có thể cảm nhận được nét rung rinh của tạo vật, nắm bắt được cái mơ
hổ, hư thoảng của làn hương, của ánh sáng, nhạy cảm vô cùng trước những nỗi nỗi
buồn vu vơ hay nỗi sầu nhân thế…
-
Tôi quay trở lại VB và có những
thay đổi gì khi nhận được sự chia sẻ của các chủ thể đọc khác
(cô giáo): Thế giới
nhân vật trong truyện ngắn TL là những con người bình thường, có ngoại hình mờ
nhạt, số phận không sắc nét (bởi nhân vật chỉ xuất hiện trong thời gian ngắn,
không gian hẹp, như một lát cắt của đời sống thu vào muôn vàn xúc cảm trạng
thái bên trong), tính cách cũng có phần hư ảo; chỉ có đời sống duy cảm, nội tâm
là sinh động với những cung bậc của cảm giác, cảm xúc, biến thái tâm trạng…Hành
động chủ yếu của nhân vật là nghe, lắng nghe sự tác động của ngoại giới, lắng
nghe những vận động hết sức mong manh mơ hồ trong tinh thần; nhân vật của TL dường
như đều có cốt cách nghệ sĩ, đều đắm chìm vào cảm xúc, còn TL thì trút tâm hồn
mình vào nhân vật. Giọng điệu chủ yếu trong tác phẩm TL là giọng cảm thương với
hai sắc thái: Trìu mến, trân trọng và xót xa. Ngôn ngữ TL đầy chất thơ với bảng
từ vựng nghiêng về tình cảm, cảm xúc, động từ ít hơn tính từ và động từ gồm nhiều
từ chỉ những động thái mơ hồ, mong manh. Lời văn có sự đắp đổi nhịp nhàng về
thanh điệu, thanh bằng lấn át thanh trắc, các vế câu có sự hô ứng về thanh điệu.
Văn TL lại giàu nhịp điệu, có sức truyền tải cảm xúc thấm thía. Phong cách nghệ
thuật của TL là sự hoà giải giữa hiện thực
và lãng mạn, giữa thơ và văn xuôi,
kết tinh thành truyện ngắn trữ tình:
tự sự nhưng đầy chất thơ, song ở mỗi tác phẩm có nét riêng biệt tùy vào đề tài,
chủ đề tác phẩm, như truyện ngắn này thì nghiêng hẳn về lãng mạn. Không gian dưới
bóng hoàng lan là không gian trong mộng tưởng của người nghệ sĩ nhưng cũng xuất
phát từ không gian thực trong cuộc đời, gắn với ngôi nhà, những kỉ niệm ấu thơ
và cách nhìn riêng của nhà văn.
3.3 Hướng
dẫn và hỗ trợ việc tự đọc
Hướng tới khả năng đọc độc lập cho HS là mục đích cuối cùng của dạy học đọc – hiểu, cần dành lượng thời gian ngoài giờ học để tự đọc rất nhiều. Muốn thảo luận được về văn bản, mỗi người đọc phải tự
trải nghiệm về nó. Những cuộc thảo luận về văn
bản trong giờ dạy học đạo – hiểu nếu không lôi cuốn
được HS hay không
thực sự hiệu quả, thì một trong những
nguyên nhân chính là bởi HS chưa thực sự đọc kĩ văn bản. Vì vậy, cần phải có một số cách thức, kỹ năng đọc
nhất định:
- Đọc cá
nhân: bao gồm đọc lướt, đọc kỹ, đọc sâu, đọc trắc nghiệm, sử dụng đánh dấu, ghi
chú bên lề hoặc ghi chép vào sổ tay những trích đoạn quan trọng.
- Đọc
tương tác: GV được coi là một bạn đọc tinh hoa, thuần thục, có nhiều trải
nghiệm. nhờ thảo luận, HS buộc phải quay trở lại với VB, tìm những căn cứ thuyết phục cho phát biểu của mình, thực hành các chiến thuật đọc – hiểu…Qua thảo luận, HS còn có thể thay đổi, chuyển hướng những suy nghĩ, những
ý tưởng đã có của mình, điều này cũng khiến họ có nhu cầu
đọc lại văn bản, kết quả là những ý tưởng được phát
triển sâu sắc hơn, xuất hiện các quan điểm mới và
bổ sung thêm nhiều kiến thức nền phong phú hơn. thảo
luận trong đem lại hai lợi ích cơ bản:
Thứ nhất,
đây là cơ hội để mở rộng các chủ thể đọc, kết nối các tri thức nền, các kết quả hiểu
khác nhau, từ đó, làm giàu thêm cho mỗi cá nhân chủ thể đọc tham gia. Thứ hai,
thảo luận tạo nên động lực để HS quay lại đọc kĩ văn bản.
Hơn nữa, thảo luận cũng rất hữu ích để giáo viên có thể quan sát và đánh giá sự hiểu.
có thể hình dung một quy
trình
các bước giáo viên tiến hành để tổ chức thảo luận
cho HS THPT trong giờ day học đọc hiểu gồm:. Xây dựng kế hoạch thảo luận; - Thống
nhất nội dung, hình thức thảo luận với HS; - Cho
HS thảo luận và quan sát, hỗ
trợ, điều chỉnh nếu cần thiết; -. Phản hồi, tổng kết, gợi mở.
Việc thảo
luận về văn bản ngoài chương trình có thể xoay quanh các nội dung sau:
Quy trình thảo luận VB nghệ thuật
cho HS
Việc 1 – Thảo luận
những thông tin về ngữ
cảnh
1-
Thảo luận thông tin về hoàn cảnh sáng tác, hoàn cảnh cảm
hứng; 2- Thông tin về
nhà văn, về sáng tác của nhà văn; 3- Thông tin về thể loại, đặc điểm
thể loại, cách tiếp cận thể loại.
Việc 2 –Thảo
luận VB, tìm hiểu cấu trúc VB:
1-
Thảo luận về tên VB, xác định các nhân tố giao tiếp
trong VB; 2- Xác định
bố cục VB; 3- Xác định nhân vật, nhân
vật chính trong VB; 4- Nhận diện các phương
thức biểu đạt trong VB; 5- Kể lại cốt truyện. Xác định
tình huống truyện, xung đột của truyện.
Việc 3 – Thảo luận nội dung VB:
Phương án 1- theo kết cấu; Phương án 2- theo nhân
vật; Phương án 3- theo các khía cạnh của chủ đề.
Việc 4 – Thảo luận
ý nghĩa VB
HS thảo luận: 1- Ý nghĩa do người viết gửi vào VB (Thông điệp của nhà văn); 2-
Ý nghĩa do mối quan hệ giữa VB và cuộc sống đặt ra; 3- Ý nghĩa do người
đọc nhận ra, đề xuất (Tạo cơ hội để
HS
tự khẳng định
mình
trước những gì
các em tiếp
nhận được).
Việc 5 – Tổng kết
Việc thảo luận có thể tiến hành ngoài giờ học, và phải tiến hành
sau khi các em học sinh chuyên văn đã đọc văn bản và hình thành hồ sơ đọc cho
riêng mình. Như vậy cốt lõi vẫn là việc đọc của học sinh, quá trình tự đọc ấy diễn
ra ngoài tầm kiểm soát của nhà trường. Tuy
nhiên, để HS có thể trưởng thành, giáo viên
cần có kế hoạch để hỗ trợ, phản hồi thường
xuyên quá trình đọc của HS. Hồ sơ đọc độc lập chính là một trong những công cụ
hữu
ích trong trường hợp này. Ngoài ra, luôn tạo cơ hội để
HS
kết nối được các văn bản
tự đọc với các văn
bản học trên lớp vừa là cách giúp HS hiểu các văn bản sâu sắc
hơn, nhấn mạnh vai trò của việc đọc tích lũy, vừa giúp giáo viên
gián tiếp kiểm soát và phản
hồi được quá trình đọc cũng như kết quả đọc ngoài giờ của HS.
Bên cạnh đó, có thể hỗ trợ HS bằng cách
tổ chức những hoạt động đọc
ngoài giờ học thông qua những hình thức đa dạng, phong phú, giúp tăng hứng thú và
động cơ đọc. Các hoạt động này cũng là cơ hội để các chủ thể đọc được kết nối và phản hồi về quá trình đọc một cách hiệu quả. Ví dụ, với hình thức câu lạc bộ, phổ biến
nhất là câu lạc bộ đọc sách (mỗi tuần/ tháng một cuốn sách) hay các câu lạc
bộ khác như: câu lạc bộ văn học - nghệ thuật (bình văn thơ, ngâm
thơ, diễn kịch, sáng tác,
diễn thuyết…); câu lạc bộ phóng viên (chia sẻ các văn bản thông tin…). Các hoạt động của HS với hình thức dự án (kết nối cả giờ học
chính khóa và ngoại khóa) trong đó,
đọc là con đường, phương thức chính để làm nên sản phẩm của dự án như: giới
thiệu sách; triển lãm sách/ triển lãm nghệ
thuật; hội chợ sách; tạp chí điểm sách;
chuwong trình truyền hình/ họp báo về sách/ các vấn đề văn học…cũng có thể đem lại sức thu hút
lớn với HS, thông qua đó HS được đọc một cách có định hướng
và có
cơ hội tốt để
chia sẻ kết quả đọc của mình.
Tóm lại, việc mở rộng phạm vi đọc và tăng cường khả năng đọc độc lập là
vô cùng quan trọng khi hướng tới mục tiêu phát triển năng lực đọc – hểu văn bản cho HS THPT. Biện
pháp này đòi hỏi sự đầu tư thời gian, công sức ngoài giờ học của giáo
viên và HS cũng như sự hỗ trợ rất lớn từ phía nhà trường, cộng
đồng; song, bù lại, cũng chính là các hoạt
động tạo ra được một bối cảnh đọc lí tưởng,
đem sách vào cuộc sống thực tiễn
hàng ngày của HS một cách hiệu quả.
3.4
Đưa một số văn bản văn học ngoài chương trình vào chương trình học:
Hiện
nay các trường THPT chuyên đã được tử chủ về chương trình, vậy nên, 1 biện pháp để nâng cao năng lực đọc hiểu văn bản
văn học của học sinh chuyên văn chính là đưa thêm 1 số văn bản văn học và văn bản
thông tin vào trong chương trình học. Những tác phẩm được đưa vào cũng cần có sự
chọn lọc rất kỹ lưỡng để tránh sự nặng nề cho cả người học và người dạy. Chẳng
hạn trong chương trình ngữ văn lớp 10, tổ chuyên môn khi xây dựng kế hoạch dạy
học đã đưa thêm 1 số tiết học vào phân phối chương trình chính khóa: Đọc hiểu văn bản thơ trung đại ngoài chương
trình nhằm giúp học sinh chuyên văn tiếp cận đa dạng với văn bản văn học
giai đoạn tương ứng. Mỗi giáo viên sẽ có sự lựa chọn riêng với những văn bản cụ
thể. Một ví dụ minh họa cho giáo án của tiết học này:
ĐỌC HIỂU
VĂN BẢN THƠ TRUNG ĐẠI (2 tiết)
Tiết 1:
Thơ chữ Hán
A. Mục tiêu: Giúp HS
1. Kiến thức: Ôn tập các đặc điểm cơ bản của văn bản
thơ chữ Hán trong văn học trung đại về thể loại, đề tài chủ đề phổ biến, bút
pháp nghệ thuật đặc trưng...
2. Kỹ năng: Nắm được cách thức làm bài đọc hiểu văn bản
thơ chữ Hán (ngoài chương trình sách giáo khoa) trên cơ sở tri thức về văn bản
thơ chữ Hán và tri thức về đọc hiểu.
3. Thái độ: Yêu mến vẻ đẹp riêng của thơ ca trung đại,
trong đó có thơ chữ Hán.
B. Phương pháp: phát vấn, thảo luận, chữa lỗi...
C. Chuẩn bị của GV, HS
1. Chuẩn bị của GV: SGK, 1 số tài liệu: Thơ văn Lý Trần,
Giáo trình văn bản Hán văn Việt Nam.
2. Chuẩn bị của HS: Ôn tập lại bài Khái quát văn học
trung đại Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX; các bài thơ chữ Hán đã học
trong chương trình SGK THPT và THCS. Xem lại các dạng câu hỏi đọc hiểu.
D. Tiến trình lên lớp
I. Ổn định.1’
II. Bài mới:
1. Hoạt động 1: Khởi
động – Học sinh nhắc lại 1 số hiểu biết về cấu trúc đề thi THPTQG, dạng đề
đọc hiểu và các bộ phận thơ trung đại.
2. Triển khai bài:
Tiến trình tổ chức giờ học
|
Nội dung cần đạt
|
Hoạt động
2. (20’)
Ôn tập kiến thức cơ bản về đọc hiểu
thơ chữ Hán trung đại.
-
HS nêu
những đặc điểm của văn bản thơ chữ Hán ở các phương diện:
+ Văn tự (Ngôn ngữ): Viết bằng
văn tự gì, có đặc điểm gì đặc biệt?
+ Thể loại: Các thể thơ chữ
Hán thường gặp?
+ Đề tài, chủ đề: Thường hướng
tới những nội dung cơn bản nào?
+ Bút pháp nghệ thuật: Có
những bút pháp nghệ thuật gì là đặc trưng trong thơ trung đại?
|
I. Kiến thức cơ bản về đọc
hiểu thơ chữ Hán trung đại:
1. Đặc
điểm văn bản thơ chữ Hán:
- Văn tự
(Ngôn ngữ): Chữ Hán (Từ Hán Việt)
-> Đọc hiểu văn bản thơ
cần phải hiểu ý nghĩa từ Hán Việt thông qua phần dịch nghĩa (Chủ yếu) và dịch
thơ.
- Thể loại:
+ Thơ Đường luật: Thất
ngôn/ngũ ngôn tứ tuyệt, thất ngôn bát cú, bài luật (ít gặp)
+ Cổ phong (ít gặp)
-> Thơ Đường luật có những
quy định chặt chẽ về niêm luật, cấu tứ.
- Đề tài chủ đề:
+ Tỏ chí -> con người đạo
đức
+ Thiên nhiên -> con người
vũ trụ
+ Thế sự -> con người cá
nhân
- Bút pháp nghệ thuật:
Thiên về ước lệ, tượng trưng:
+ Sử dụng nhiều điển tích,
điển cố
+ Chấm phá điểm nhãn, gợi
nhiều hơn tả
+ Tả cảnh ngụ tình...
2. Cách làm bài đọc – hiểu
văn bản thơ chữ Hán:
|
- GV giới thiệu cho HS các dạng câu hỏi đọc hiểu. Hỏi
học sinh cách trả lời các câu hỏi đó. VD: Làm thế nào (Căn cữ vào đâu) để trả
lời câu hỏi nhận biết về thể thơ? Bút pháp nghệ thuật?...
-
GV chốt lại, tổng kết các bước làm bài đọc – hiểu:
-
B1: Đọc câu hỏi
-
B2: Đọc kỹ văn bản (Phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ, và chú thích nếu có), chú
ý những phần có liên quan đến câu hỏi.
-
B3: Đọc lại câu hỏi, tìm từ khóa.
-
B4: Trả lời từng câu hỏi theo cách làm bài. Chú ý trả lời trúng vấn đề - ngắn
gọn – đầy đủ - đảm bảo các yêu cầu về nội dung và hình thức câu hỏi.
|
Các dạng câu hỏi
thường gặp
|
Cách làm bài
|
- Nhận biết:
+
Thể loại
+
Bút pháp nghệ thuật...
|
- Căn cứ số chữ/câu, số câu/bài, bằng trắc, đối...
-
Căn cứ các hình ảnh ước lệ quen thuộc thường gặp trong thơ cổ, căn cứ quy định
về cấu tứ bài thơ (Câu thực, luận phải có đối), các chú thích (Nếu có)...
|
-
Thông hiểu:
+
Nội dung chủ đề câu thơ/đoạn thơ/bài thơ
+
Ý nghĩa các hình ảnh, chi tiết
+
Ý nghĩa tác dụng các bút pháp nghệ thuật
...
|
- Căn cứ vào các đề tài chủ đề thường thấy trong thơ
chữ Hán.
-
Căn cứ quy định về nội dung trong cấu tứ bài thơ:
+
Khai (Mở); thừa, chuyển, hợp.
+
Đề (Vào bài, khái quát), thực (Tả cảnh, tả việc, tả ý), luận (Bàn bạc, bình
luận), kết (bộc lộ cảm xúc)..
-
Căn cứ vào ý nghĩa các hình ảnh ước lệ tượng trưng thường thấy
+
Ngư tiều canh mục -> cuộc sống ẩn dật
+
Trúc, mai -> Người quân tử...
|
-
Vận dụng tạo lập văn bản
|
- Chú ý 2 yêu cầu về nội dung và hình thức trong câu
hỏi
|
Hoạt động
3 (24’): Luyện tập thực hành.
HS
được phát phiếu học tập là bài tập 1. Trả lời theo nhóm 4/ 12 phút.
-
Chiếu phần trả lời của HS trên máy chiếu vật thể, gọi HS khác nhận xét
đúng/sai và chữa lần lượt các câu trả lời.
-
GV nhận xét, bổ sung, chữa lỗi HS, định hướng đáp án cuối cùng.
Đáp
án:
- Câu 1: Thể thơ thất ngôn tứ
tuyệt luật Đường.
- Câu 2: Điểm chưa sát: Làm mất điệp ngữ, điệp
cú pháp và nghệ thuật đăng đối (Do thể thơ thất ngôn đã trở thành lục bát)
-> Phần nào hao hụt ý thơ trong câu 1: Muôn dặm sống xanh tiếp nối với
muôn dặm trời, không gian mở rộng đến vô cùng.
- Câu 3:
+ Hình ảnh ông ngư tượng trưng cho con người ẩn
dật, sống lánh đời, giữ khí tiết trong sạch.
+ Câu văn nhận xét: HS viết đúng chính tả, ngữ
pháp câu. Có thể trả lời các ý: Phong thái thảnh thơi, an nhàn, hòa hợp tuyệt
đối với thiên nhiên.
- Câu 4:
+ Hình thức:
+ Nội dung: Bức tranh thiên nhiên ở các
phương diện: Sông xanh, bầu trời, thôn dâu, khói mây, con thuyền ngư ông phủ
đầy tuyết.. Sắc thái cảnh vật: Bình yên, êm đềm thơ mộng, thiên nhiên hòa hợp,
tương giao với con người.
Hoạt động
4: Củng cố, dặn dò (2p)
-
GV chốt lại hệ thống kiến thức cần nhớ và những lưu ý với HS khi đọc hiểu văn
bản thơ chữ Hán
-
Giao bài tập về nhà cho HS.
|
II. Luyện tập:
Bài tập 1: (Làm tại lớp)
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:
Ngư nhàn (Không Lộ Thiền sư)
Phiên âm:
Vạn lý
thanh giang, vạn lý thiên,
Nhất thôn tang giá, nhất thôn yên.
Ngư ông thuỵ trước, vô nhân hoán,
Quá ngọ tỉnh lai, tuyết mãn thuyền.
Dịch nghĩa: Cảnh nhàn của ông ngư
(người làm nghề chài lưới, đánh cá)
Muôn dặm
sông xanh, muôn dặm trời,
Một xóm dâu gai, một xóm khói mây.
Ông chài ngủ say tít không ai gọi,
Quá trưa tỉnh dậy, tuyết xuống đầy thuyền.
Dịch thơ:
Trời xanh nước biếc muôn
trùng,
Một thôn sương khói, một vùng dâu đay.
Ông chài ngủ tít ai
lay,
Quá trưa tỉnh dậy, tuyết bay đầy thuyền.
(Bản dịch của Kiều Thu Hoạch)
Câu 1: Xác định thể loại của văn bản trên?
Câu 2: Chỉ ra điểm chưa sát với nguyên tác
trong hai câu đầu phần dịch thơ?
Câu 3: Trong hệ thống ước lệ quen thuộc của
văn học trung đại, hình ảnh ông ngư tượng trưng cho điều gì? Viết 1 câu văn
nhận xét về hình ảnh ông ngư trong hai câu thơ cuối?
Câu 4: Viết 3 câu văn cảm nhận của anh/chị về
bức tranh thiên nhiên được miêu tả trong bài thơ?
Bài tập 2: (Bài tập về nhà) Đọc văn bản
sau và trả lời các câu hỏi:
Tư
quy (Nguyễn Trung Ngạn)
Phiên âm
Bách
tuế năng kham kỷ biệt ly,
Dị hương cửu khách vị thành quy.
Xuân thâm đình viện hoè âm hợp,
Nhật noãn trì đường liễu nhứ phi.
Vạn hộc hương sầu nan đáng tửu,
Tam phân bệnh cốt bất thăng y.
Hoàng trần vô hạn đô môn ngoại,
Tảo sấn nam huân phú "".
Dịch nghĩa (Mong
nghĩ chuyện về)
Trong
một trăm năm có thể chịu được mấy lần ly biệt?
Quê người làm khách đã lâu không về được.
Sắc xuân in đậm nơi viện đình, bóng hoè râm mát,
Trời ấm chốn ao hồ, tơ liễu khô bay.
Muôn chén buồn nhớ quê khó nâng chén rượu uống,
Ba phần xương cốt đã nhuốm bệnh không mặc nổi áo.
Bụi vàng vô hạn đều ở ngoài cửa thôi,
Sớm đón gió nam mà hát câu "trở về".
Dịch thơ
(Bản khuyết danh)
Ly biệt trăm năm mấy lượt đây?
Xứ người làm khách đã lâu ngày.
Xuân nồng đình viện hoè râm toả,
Ngày ấm ao hồ liễu nhứ bay.
Vạn hộc sầu quê rượu khó uống,
Ba phần xương bệnh áo lười thay.
Bụi vàng vô hạn đều ngoài cửa,
Gió sớm, "Thức vi" hát một bài.
Câu 1: Bài thơ viết
theo thể thơ gì? Nêu một số tác phẩm mà em biết cùng thể loại?
Câu 2: Chi tiết thơ
Bách tuế (Một trăm năm) trong câu thơ thứ nhất mang ý nghĩa
gì? Xác định biện pháp nghệ thuật và cảm xúc được thể hiện trong câu thơ?
Câu 3: Các biện
pháp nghệ thuật được sử dụng trong câu thơ 5,6? So sánh dịch thơ và nguyên
tác để chỉ ra điểm chưa sát hợp?
Câu 4: Bài thơ gợi
lên hoàn cảnh gì của tác giả? Viết 1 câu văn xác định nội dung chủ đề của bài
thơ?
Câu 5: Từ văn bản,
viết đoạn văn từ 3-5 câu trình bày cảm nhận của anh chị về tình yêu quê hương
đất nước như là một nét đẹp trong tâm hồn người Việt Nam?
|
|
|
|
|
III. MỘT VÀI KẾT QUẢ VẬN DỤNG ĐỌC –
HIỂU VĂN BẢN VĂN HỌC NGOÀI CHƯƠNG TRÌNH
Trên
cơ sở áp dụng các biện pháp hướng dẫn và rèn kỹ năng đọc hiểu văn bản văn học
ngoài chương trình sách giáo khoa, các học sinh trong đội tuyển học sinh giỏi,
nhất là các em khối 11 và khối 12 đã biết đưa tác phẩm ngoài nhà trường vào các
bài văn nghị luận văn học, ở rất nhiều các dạng bài: lí luận văn học, cảm thụ
thơ, so sánh liên hệ... Việc vận dụng linh hoạt các kiến thức cảm thụ văn
chương sau quá trình đọc – hiểu và tự đọc – hiểu đã đem đến kiến văn phong phú,
rộng mở, sâu sắc cho các bài viết, chứng tỏ hiệu quả tích cực của việc thực hiện
chuyên đề.
Trong
bài lí luận văn học, học sinh trong đội tuyển học sinh giỏi văn có thể vận dụng
kiến thức đọc hiểu văn bản ngoài chương trình chủ yếu là trong phần bình luận
và chứng minh. Hàm lượng kiến thức về tác phẩm văn chương trong nội dung bình
luận có thể thấp, song nếu học sinh không hiểu biết sâu sắc, chính xác về vấn đề
nghị luận cũng như tác phẩm thì cũng không thể vận dụng một cách nhuần nhuyễn.
Còn phần chứng minh chính là cơ hội để học sinh chuyên văn thể hiện sự tài hoa
của mình với việc phân tích sâu các dẫn chứng ngoài sách giáo khoa (tất nhiên
là phải phù hợp với yêu cầu của đề bài). Dưới đây là một số ví dụ cụ thể về việc
vận dụng của học sinh, các bài viết giữ nguyên các lỗi diễn đạt, dùng từ, lập
luận của học sinh trên quan điểm trân trọng lối viết và suy nghĩ của học trò:
1. ĐỀ
BÀI 1:
Nói về quy luật phát triển của nghệ thuật, có ý kiến cho
rằng: “Không có giới hạn cuối cùng nào
cho sáng tạo.
Văn học cũng như mỹ học nói chung không ngừng vận động. Lịch
sử văn học thực chất là lịch sử của những sự vận động liên tục: Mỗi thời mỗi
khác”.
Bằng những hiểu biết của mình anh/chị hãy làm sáng tỏ ý
kiến trên.
Đoạn
văn bản có vận dụng kiến thức tác phẩm ngoài SGK của HS:
Ep-tu-sen-co
thực có lí khi cho rằng: “Tự tử đối với đời
người nghệ sĩ không phải là phát súng hay sợi dây thừng mà chính là khi ngồi
vào bàn viết không đem đến một cái gì mới mẻ”. Phong cách, sáng tạo là vấn
đề sống còn đối với những người đã chọn lấy nghiệp cầm bút. Anh là bản sao thành
công của ai đó không đồng nghĩa với việc anh có thể trở thành một nhà văn chân
chính. Là địa hạt của sự sáng tạo, văn học không bao giờ chấp nhận những sáng
tác lặp lại một công thức dù công thức đó đã từng được áp dụng thành công ở nhiều
tác phẩm trước đó. Kinh nghiệm người đi trước chỉ là một cú hích, một sự học hỏi,
còn bản thân sáng tạo nghệ thuật là phải làm ra cái mới, sáng tạo. Thử hỏi, nếu
cái khát vọng muốn được “cởi trói cho thi
ca”, muốn được nói lên “tình thực”,
tiếng nói riêng của những thi sĩ Thơ mới thời kì đầu như Lưu Trọng Lư, Thanh
Tâm, Phan Khôi, Thế Lữ,…không đủ mãnh liệt; thì liệu rằng trong cuộc đấu tranh
với thơ cũ, Thơ mới có chiếm thế thượng phong? Nhắc đến phong trào thơ Mới là
nhắc đến một thời kì nở rộ của những cá tính, những hồn thơ riêng biệt. Thời bấy,
không có chỗ cho sự “rập khuôn”, sao chéo hay “chắp nhặt những ý sáo rỗng”, chỉ
có những ai đến với làng thơ bằng một lối đi riêng, để lại một dấu ấn cá tính mạnh
mẽ, độc đáo mới có thể tồn tại. Cùng viết về đề tài làng quê Việt Nam, nhưng nếu
Anh Thơ rất thành công trong việc khắc họa cảnh quê, Đoàn Văn Cừ tài năng trong
việc khắc họa những phong tục làng quê thì Nguyễn Bính lại sở trường khắc họa
những mối tình quê âm thầm, mãnh liệt, bẽ bàng. Cái hồn dân tộc như đã mượn tiếng
thơ của ông để lên tiếng. “Em nghe họ nói
mong manh/ Hình như họ biết…chúng mình với nhau”. Đọc câu thơ ta như cảm nhận
được thế giới tâm hồn của những chàng trai, cô gái thôn quê thời ấy. Thứ tình
yêu chân thành, cái hồn nhiên, hạnh phúc của đôi lứa khi biết yêu gửi gắm trong
những câu chữ giản dị, không hề gọt giũa. Chất giọng chính là Nguyễn Bính, một
hồn thơ “chân quê” bậc nhất làng thơ Việt Nam. Không có cá tính riêng, nhà văn
sẽ chỉ còn lại một mình giữa sự thờ ơ và quên lãng của bạn đọc. Đó là sự sàng lọc
nghiệt ngã của nghệ thuật, không riêng chỉ trong thời kì nào mà đã trở thành một
định luật, một nguyên lí khắt khe của lao động sáng tạo trong mọi thời.
Bởi vậy, như một lẽ thiết yếu, hành trình đi
tìm câu trả lời cho câu hỏi “Tôi là ai?”, hành trình đi tìm cho mình một giọng
nói riêng của người nghệ sĩ chưa bao giờ là một điều dễ dàng. Sáng tạo không chỉ
cần có tài năng, phẩm chất mà còn cần có cả sự dũng cảm. Vì sao vậy? Trước hết
đó là một hành trình cô đơn, không ai có thể giúp anh tìm được tiếng nói của
mình ngoại trừ chính anh. Hơn nữa, thi sĩ thường đứng trước hai thử thách: hoặc
trước mắt anh là một khoảng trống, không được ai thấu hiểu, bị coi là lập dị,
thậm chí ghét bỏ những “đứa con tinh thần” của anh. Hoặc trước anh đã sừng sững
những cây cổ thụ và công việc của anh là phải tìm ra một không gian riêng cho
mình, một màu sắc riêng để không bị lu mờ. Trường hợp của Vi Thùy Linh là một
ví dụ như thế. Viết về đề tài tình yêu, với thơ mới Xuân Diệu là một “ông
hoàng”, với ấn tượng mạnh mẽ về màu sắc dục tính, với những ham hố, vồ vập, cuống
quýt. Đây là một thử thách đối với nhà thơ trẻ, nhưng với những sáng tác của
mình Thùy Linh đã chứng minh được cái nhìn mới mẻ so với thời trước đó:
“Qùy trong đêm em cởi mình
Sao anh không làm khô
nước mắt em bằng đôi môi anh”.
Câu
thơ đã gợi ra không gian riêng tư của đôi lứa một cách đầy táo bạo, “cởi mình” là khát vọng được dâng hiến,
khao khát thôn tính, chiếm hữu được đẩy lên đến đỉnh điểm. Hình ảnh người phụ nữ
đầy chủ động, với khát vọng tình yêu cháy bỏng đã mang lại sự thể nghiệm kì diệu
giữa xúc cảm tinh thần và thân thể. Nói
về nụ hôn, ta đã từng ngỡ ngàng với tiếng thơ Xuân Diệu: “Em hôn anh suốt một giờ /Anh hôn em mấy cho vừa lòng đau”, nụ hôn của chàng thi sĩ họ Ngô có cái cuồng nhiệt, còn nụ
hôn trong những sáng tác của Vi Thùy Linh đã trở thành một biểu tượng của cái
tôi tôn thờ sự hòa hợp tự do, sự khoáng đạt trong tình yêu, nó xuất hiện dày đặc
và đan màu. Sự bứt phá của thơ Linh là ở chỗ ngôn ngữ thân thể
được chuyển hóa vào thơ ca với tất cả sự náo nức, tự tin, thành thực, vấn đề thể xác trong thơ Linh như là một sự hiện hữu thường trực, một yếu tố tất yếu của tình
yêu. Nhưng nó bạo dạn hơn so với Xuân Diệu, nó thể hiện cái khoái cảm trực diện,
cháy bỏng một cách phóng khoáng mà không hề che dấu.
Dẫu vậy những câu thơ không đi theo chủ nghĩa phồn thực, dung tục. Dưới dạng thức
của một câu hỏi “Sao anh không làm khô nước
mắt em bằng đôi môi anh” câu thơ đã thể hiện khao khát được chở che, được bảo
vệ của người phụ nữ, “nước mắt” là sự yếu đuối, là những tổn thương cần phải được
xoa dịu. Và tình yêu dường như đã trở thành một liều thuốc tinh thần “làm khô nước mắt em”. Từ đây tôi nhớ đến
lời dặn của nhà thơ Ba-lan với những hậu bối của nhà văn Borges (nhà văn vĩ đại
của đất nước Arghentina): “ Jo’venes, matad a Borges” (Hỡi tuổi trẻ hãy giết
Borges) Câu nói có vẻ như đùa cợt ấy của Gombrowicz chứa đựng một thông điệp tối
quan trọng đối với rất cả những ai thực sự muốn sáng tạo cái mới. Hãy dũng cảm
để vượt qua những “thần tượng” cũ để làm nên cái mới. Và khi sức sáng tạo đã hết,
bạn phải biết lùi vào quá khứ để thế hệ mới được tự do sáng tạo, đừng để cáo
bóng của mình đè mãi xuống tương lai. Đó là đạo đức của con người sáng tạo. Cái
chết thực sự của một nhà cách tân là khi những khát vọng của anh không có ai tiếp
tục. Nhưng cái chết đau đớn hơn của người nghệ sĩ là tên tuổi của anh đã trở
thành một bức tường kiên cố mà không một ai dám phá bỏ hay vượt qua.
(Bài
viết của Vũ Dương, HS vận dụng kiến
thức ngoài để thưc hiện thao tác bình luận và chứng minh cho đề bài)
2. ĐỀ BÀI 2:
Suy
nghĩ về ý kiến sau của nhà thơ Thanh Thảo và làm sáng tỏ qua những trải nghiệm
văn học của riêng mình:
“Văn chương giúp ta trải nghiệm cuộc sống ở
những tầng mức và những chiều sâu đáng kinh ngạc. Nó giúp con người sống “ra
người” hơn, sống tốt hơn nếu ta biết tìm trong mỗi quyển sách có những vệt
sáng, những nguồn soi rọi vào những góc khuất của cuộc đời và con người”
Đoạn
văn bản của học sinh:
Một
tác phẩm văn học chân chính dẫu có đào sâu vào lòng hiện thực để phản ánh đời
người một cách chân thật, cụ thể nhất, cốt cũng là để “giúp con người sống ra người hơn, sống tốt hơn”. Trong tác phẩm của
mình, người nghệ sĩ bộc lộ những tình cảm, tư tưởng riêng tư, thầm kín, song, tất
cả đều hướng đến thể hiện tư tưởng, khát vọng chung của loài người: yêu những
cái đáng yêu- cái đẹp, cái thiện và căm ghét những cái xấu, cái ác. Văn học
giúp nuôi dưỡng phần “người” trong mỗi con người để ta biết rung lên xúc cảm
cao đẹp trước những số phận bất hạnh, khổ đau, biết đấu tranh để thay đổi một
thế giới giả dối và tàn ác... Từ bao đời nay, đích đến của nghệ thuật luôn là
cái đẹp của con người và cuộc sống, như Nam Trân từng khẳng định: “Rằng thơ thấy đẹp phải tìm theo”. Văn
nghệ mang trong nó sứ mệnh cao cả của một kẻ dẫn đường cho độc giả đến với thế
giới của cái đẹp, của chân thiện toàn mỹ, khiến cho con người sống nhân đạo
hơn, sống cho “ra người” hơn. Thế nhưng,văn chương nghệ thuật không giáo dục
con người theo cái lối giáo điều, khuôn ép, không phải là những bài giảng đạo đức
khô cứng, bắt buộc con người phải tuân theo, mà con đường tác động của văn thơ
là con đường đi từ trái tim đến trái tim, thẩm thấu vào tâm hồn, suy nghĩ của bạn
đọc, để ta tự nhìn lại chính mình, hiểu mình và biết sống tốt đẹp hơn. Thơ văn
đã mở ra muôn ngàn “vệt sáng”, những nguồn soi rọi tâm hồn, dẫn lối con người
trên hành trình tự hoàn thiện chính mình. Thi sĩ của tình yêu Xuân Diệu đã mang
đến cho chúng ta những thông điệp sống giản dị mà đẹp đẽ qua tâm trạng của đôi
lứa yêu nhau trong “Tương tư chiều”
Thôi hết rồi! Còn chi nữa
đâu em!
Thôi đã hết hờn ghen và
giận dỗi
(Được giận hờn nhau,
sung sướng bao nhiêu!)
Con
người thời xưa bởi chịu ảnh hưởng của những giáo điều hà khắc trong lễ giáo
phong kiến mà chẳng thể trực tiếp, thẳng thắn bộc lộ cảm xúc, khát vọng, suy
nghĩ về tình yêu của chính mình. Thì con người ngày nay lại có cái nhìn cởi mở
hơn, được tự do yêu và tận hưởng cuộc đời hạnh phúc, bởi thế mà thi sĩ Xuân Diệu-
đại diện tiêu biểu của phong trào thơ Mới với cái tôi cá nhân sâu sắc đã dám
bày tỏ hết lòng mình trong thơ. Lời thơ thốt lên như tiếng kêu than đau đớn, đầy
tiếc nuối “thôi hết rồi”, “còn chi nữa đâu”.Trong phút giây cao độ
của nỗi xót xa, cô độc ấy, người thi sĩ bỗng nhận ra một điều thật giản dị mà
sâu sắc, giống như quy luật tất yếu của tình yêu “được giận hờn nhau sung sướng bao nhiêu”. Trong những phút giận hờn
mà con người ta đều từng trải ấy, có mấy ai như thi sĩ họ Ngô biết ngẫm lại để
quý trọng, nâng niu. Trái tim Xuân Diệu luôn thường trực nỗi lo lắng về kiếp đời
phù du, về thời gian tuyến tính một đi sẽ không trở lại, nên với ông, mọi phút
giây, mọi trải nghiệm trong đời, trong tình yêu như những “hờn ghen và giận dỗi”
đều là trân quý. Trước giờ, người ta vẫn mải miết kiếm tìm cho “tình yêu” một định
nghĩa, khái niệm cụ thể, mà đến khi bắt gặp những vần thơ đầy xúc cảm của Xuân
Diệu, ta mới nhận ra rằng, thì ra hạnh phúc của tình yêu là ở trong những “hờn
ghen và giận dỗi” ấy nữa. Nếu không có tấm lòng nhiệt thành và khát khao giao cảm
với đời mãnh liệt, thì làm sao thi sĩ có thể viết được những câu thơ tuy giản dị
mà lại giàu chiêm nghiệm đến vậy. Nhà thi sĩ chỉ qua ba câu thơ giãi bày nỗi
lòng nhưng lại mang đến cho người đọc những bài học sống quý giá: Hãy biết trân
trọng từng khoảnh khắc của tình yêu dẫu đó là phút đau đớn, tuyệt vọng, giận hờn
hay sung sướng…bởi những trải nghiệm, xúc cảm khi yêu làm nên gia vị cho đời
người, có biết trân trọng tình yêu thì cuộc đời mới trở nên ý nghĩa. Có lẽ, thơ tình Xuân Diệu không phải
là thơ của những người ưa suy ngẫm, triết lý nhưng bản thân nó lại mang chứa những
chiêm nghiệm sâu sắc của một con người từng trải, đã sống hết mình, sống vồn vã
với đời chảy trôi. Những thông điệp, quan niệm về lẽ sống, về tình mới mẻ của
Xuân Diệu được gửi gắm qua vần thơ tràn đầy xúc cảm mạnh mẽ đã khơi gợi sự đồng
cảm, đồng điệu nơi bạn đọc, mà dần dần thấm sâu vào trái tim, suy nghĩ để độc
giả biết “sống ra người hơn, sống tốt hơn”.
(Trích bài của Đoàn Trang)
3.
ĐỀ BÀI 3
Tại sao “để
nói được nhiều hơn về con người, nhà văn cần phải vừa nghi ngờ, vừa tin tưởng”?
Hãy làm sáng tỏ ý kiến.
Trích
đoạn văn của học sinh:
Văn
chương từ bao đời nay vẫn là tấm gương soi của mọi tâm hồn. Những tình cảm, suy
tư của con người đều được cái khác trên trang viết một cách chân thực nhất. Thế
nhưng, điều mà văn học lớn hơn tuổi chính là đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu
trong bề sâu tâm hồn con người. Để làm được điều ấy, nhà văn cần phải vừa biết
nghi ngờ, vừa biết tin tưởng. “Nghi ngờ” và “tin tưởng” là hai trạng thái tinh
thần diễn ra song song trong quá trình sáng tạo. Bởi mục đích của văn học là phản
ánh tâm hồn con người với tất cả những gì phức tạp, phong phú nhất. Nhà
văn- người mang thiên chức ấy không thể
có cái nhìn hơi hợt, xuôi chiều mà cần có cái nhìn đa chiều để hiểu sâu, hiểu
thấu bản chất con người. Sự nghi ngờ trong sáng tác chính là cách nhà văn đặt
nhân vật trong những tình huống éo le, khó xử, buộc nhân vật ở hoàn cảnh ấy phải
bộc lộ phần sâu kín nhất của tâm hồn. Đây là thử thách với nhân vật, song cũng
chính là sự giằng xé trong tâm can của người nghệ sĩ. Sáng tạo chính là sự nhập
thân, cũng giống như cách nhà văn đối thoại với chính bản thân mình. Giây phút
nghi ngờ là cơ hội để mở ra cuộc đấu tranh nội tâm giữa thiện và ác, tốt và xấu.
Nhưng suy cho cùng, cái đích của văn học hướng tới là chân -thiện - mỹ. Vì vậy,
đằng sau những nghi ngờ của nhà văn cũng là sự khẳng định chắc chắn về nhân
cách cao đẹp của con người. Ngờ vực để tìm ra bản chất, tin tưởng để bảo vệ phẩm
chất đẹp đẽ ấy. Vậy mới nói, trong nghi ngờ luôn chứa đựng những trông mong, hy
vọng và niềm tin của người nghệ sĩ ở tâm hồn con người. Không ít lần trên trang
viết Thạch lam, ta thấy được sự nghi ngờ và niềm tin của nhà văn dành cho nhân
cách con người. Cuộc chiến giữa thiện ác chỉ trong gang tấc mà nhà văn đã dựng
lên trong tác phẩm “Sợi tóc” đã đặt nhân vật Thành đứng trên ranh giới của cái
tốt và cái xấu. Thạch lam tái hiện một cuộc đấu tranh nội tâm giàu kịch tính
khi để Thành do dự lấy cắp tiền của Bân hết lần này đến lần khác. Suy nghĩ “tôi
vẫn cứ tì mình lên trên thành giường, lưỡng lự, một lát giờ này sao lâu thế” cứ
lần lượt trỗi dậy trong tâm trí Thành. Có lẽ trong khoảnh khắc ấy, nhà văn đã
thực sự ngờ vực về nhân cách của nhân vật khi lòng tham của con người che lấp mất
tình bạn đẹp đẽ. Thế nhưng, cho đến phút cuối cùng, Thạch Lam đã bảo vệ được niềm
tin của chính mình. Nhân vật Thành đã không bước qua ranh giới mong manh ấy,
không để những cám dỗ của phần con cướp mất nhân tính phần người. Hành động
Thành ra về, sáng hôm sau tỉnh dậy vẫn cứ ngẩn ngơ nghĩ về việc tối hôm trước
mà ngờ như chỉ là một giấc mộng. Anh tự hỏi mình sao mình hãy còn là người
lương thiện, không phải là kẻ ăn cắp ? Hành động ấy là cái kết chiến thắng của
cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, đồng thời là lời khẳng định tâm hồn,
nhân cách cao đẹp của con người. Nhà văn Thạch lam đã đặt ra câu hỏi: “Chỉ một sợi tóc nhỏ, một chút gì đó, chia địa
giới của hai bên” như để chất vấn lương tâm của con người. Mỗi chúng ta, nếu
như là nhân vật Thành trong tác phẩm, liệu có còn giữ được thiên lương trong
sáng ? Và câu hỏi tự vấn của nhân vật: “Tôi
có tiếc đã không lấy hay không, hay bằng lòng mình bị đã chống giữ lại được ý xấu?”
đã nói lên sự phức tạp của tâm hồn con người. Như Nguyễn Minh Châu đã nói:
Trong mỗi con người luôn luôn tồn tại phần con và phần người, rồng phượng và rắn
rết, thiên thần và ác quỷ... Sứ mệnh của văn chương là hướng con người tới thế
giới chân - thiện - mĩ. Dẫu nhà văn viết về cái xấu, từng ngờ vực về nhân cách
con người thì suy cho cùng cũng là để khẳng định chắc chắn về cái thiện, để ca
ngợi những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Chỉ khi biết “nghi ngờ” và “tin tưởng”,
người nghệ sĩ mới có thể tạo nên những tác phẩm văn chương chân chính, mới tìm
được “những hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn
con người”.
(Trích
bài viết của Nguyễn Hồng)
4. ĐỀ BÀI 4
Có
ý kiến nhận xét: “Tiếp nhận đòi hỏi người
đọc sống với tác phẩm bằng toàn bộ tâm hồn để cảm nhận cái thông điệp thẩm mĩ
mà tác giả gửi đến cho người đọc văn học”.
Với
kinh nghiệm đọc sách của bản thân, anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào?
Trích
bài viết của học sinh:
Nhà
văn, anh phải như chàng trai Samet đi nhặt
những “hạt bụi quý” trong cuộc đời
mênh mông vô tận và những người đọc phải thật sâu sắc và hết mình mới thấy được
bông hồng vàng giá trị tác giả gửi gắm . Franz Kafka- người được mệnh danh là
Dan-te của thế kỉ 20 đã chắt lọc “vị muối của đời” để viết lên tác phẩm Hóa
thân gây sức ám ảnh sâu sắc với độc giả. Giật mình, hoang mang và hoài nghi
là những cảm xúc đầu tiên chúng ta cảm thấy khi lần đầu bước vào vùng đất của
hóa thân. “Một sáng tỉnh giấc băn khoăn, Gregor Samsa nằm trên giường thấy mình
biến thành một con côn trùng khổng lồ.” Tại sao trong một cuộc đời bình thường
mà đột nhiên con người ta phải “hóa thân”? Câu chuyện không dài, nhưng cứ khiến
ta phải băn khoăn và đọc đi đọc lại hàng chục lần. Mạch chuyện rất dễ để tóm tắt,
rằng Gregor biến thành côn trùng, anh từ một người kiếm tiền chính trở thành
gánh nặng cho gia đình, dần dần mọi người không còn công nhận anh nữa và coi
anh là con quái vật. Những người thân yêu nhất cũng ghê tởm và khiếp sợ Gregor.
Thế nhưng, khi càng tiếp xúc và hiểu sâu hơn về tác phẩm, trong tôi, và chắc chắn
cả những bạn đọc khác nữa đều gợi lên một cảm giác đau lòng và thương tiếc đến
kì lạ. Anh biến thành côn trùng, không phải do bệnh tật, mà có lẽ vì bản thân
chính anh đã trốn tránh hiện thực khắc nghiệt phải mệt mỏi kiếm tiền, phải sống
là một Gregor Samsa như mong ước của mọi người. Ta chợt nhận ra rằng, cuộc hóa
thân không hề đơn giản và đơn thuần như cách nhà văn miêu tả vào một “sáng tỉnh
giấc băn khoăn” của Gregor. Sự chế ngự của đồng tiền, nghĩa vụ của gia đình và
nỗi sợ hãi, chán ghét với việc làm đã dẫn đến việc biến đổi nhân hình của
Gregor. Kafka đã khéo léo lồng ghép những cảm xúc, triết lý đằng sau con chữ,
buộc người đọc phải tự tìm tìm kiếm và khám phá. Những khó hiểu ban đầu đã dần
được thế chỗ bằng cơn bão cảm xúc đang đến với trái tim bạn đọc. Tác giả như
đang đưa ta trên một hành trình kì lạ mà có lẽ, chính ông cũng không biết điểm
đến là ở đâu. Mỗi người với một nhận thức, cách cảm nhận khác nhau lại mang một
suy nghĩ riêng về cuộc đời của gia đình Samsa. Nhưng có lẽ, ai ai cũng ám ảnh bởi
hình ảnh Gregor “côn trùng”, cùng thái độ bình thản kì lạ khi biến đổi về nhân
hình của anh. Có lẽ, áp lực đè nặng trên vai Gregor khi ấy rất lớn. Anh muốn
nghỉ ngơi, anh tìm mọi cách để trốn tránh hiện thực khắc nghiệt đang chờ đón.
Khi
người đọc sống với Hóa thân bằng cả tâm hồn, ta thấy mình dường như được “hóa
thân” với nhân vật chính trong truyện. Không chỉ là những xúc cảm của tình
thương nữa, trong mỗi chúng ta có một khao khát được tham gia thay đổi diễn biến
mạch truyện. Các nhân vật được đưa vào một bối cảnh đầy bất ngờ, nhưng cách họ
đón nhận lại rất thản nhiên. Tôi rất muốn cho người nhà của Gregor hiểu được nỗi
khổ của anh, giúp họ suy nghĩ tích cực hơn với hình dạng côn trùng, để rồi biết
đâu đấy, sẽ có một ngày anh trở lại làm Gregor của ngày xưa? Khi ấy mọi người
trong gia đình cùng nhau kiếm tiền và san sẻ gánh nặng, gia đình sẽ lại hạnh
phúc. Nhưng sau tất cả, Kafka đã chọn để “quái vật”, “gánh nặng” Gregor chết đi
và bố mẹ cùng em gái anh “nhẹ nhõm xuống phố”. Đây thật sự là một kết truyện
gây ám ảnh. Đến cùng đâu mới là ý nghĩa của sự hóa thân? Phải căng sự thay đổi
và biến mất của Gregor không có ích gì? Một lần nữa, cảm xúc băn khoăn lại đến
với bạn đọc. Nhà văn không tả nhiều, nhưng những lời kể của ông lại có sức gợi
mãnh liệt. Giá trị đầy ắp trong từng câu, từng từ. Chỉ có những độc giả chân
chính, sống với tác phẩm “toàn tâm, toàn trí, toàn hồn” mới khai mở được thông
điệp thẩm mĩ ấy. Gregor biến mất, nhưng anh đã thay đổi suy nghĩ của cả gia
đình, họ chăm chỉ làm việc và kiếm tiền để trang trải cuộc sống. Và hơn hết,
anh thay đổi nhận thức của của chính chúng ta- những người đang đọc câu chuyện,
thức tỉnh một chân lý về giá trị, áp lực cuộc sống để ta sống đẹp và sống có
ích hơn với đời. Đôi khi ta cũng cần biết vì chính bản thân mình, sống vì mình.
Đừng để bản thân quá mệt mỏi để rồi phải trốn tránh hiện thực, phải “hóa thân”
biến đổi nhân dạng. Đọc những trang văn của Franz Kafka, ta giật mình tự vấn
lương tâm, có phải liệu ta đang quá vô tâm hời hợt với cuộc đời của chính mình?
(Trích
bài viết của Bùi Giang)
5. ĐỀ BÀI 5
Sống đã rồi hãy viết, hãy hòa mình vào cuộc sống vĩ đại của
nhân dân. (Nam
Cao). Anh/chị hãy bình luận và làm sáng tỏ ý kiến.
Trích đoạn bài viết của học sinh:
Nguyễn
Công Hoan là một gương mặt đại diện tiêu biểu cho trào lưu vănhọc hiện thực phê
phán Việt Nam. Ông đã ghi dấu trong lòng bạn đọc với bao tác phẩm kiệt xuất. Bằng
giọng văn tỉnh lạnh, nhà văn đã làm nổi bật bức tranh hiện thực xã hội Việt Nam
trước cách mạng tháng Tám. Những trang văn của ông đã khiến “Văn học không phải chỉ nói chuyện văn chương
mà thực chất là chuyện đời.” (Tố Hữu) Truyện ngắn “Cái vốn sinh nhai” là một trong số đó.
Truyện
đã làm nổi bật thực trạng đói nghèo của người nông dân trong xã hội cũ. Khác với
các nhà văn khác đi sâu phản ánh người lao động nghèo khổ, ta thấy hiện lên
trong trang văn của ông là số phận của những người ăn mày thật sinh động và đầy
chân thực. Ở “Cái vốn sinh nhai”, Nguyễn Công Hoan đã lấy bối cảnh tại Phố Nối
- một nơi mà thời đó có thể coi là dễ kiếm ăn.Chính việc lựa chọn không
gian cụ thể này đã khiến văn ông càng đậm
đặc tính hiện thực khách quan. Xã hội ấy hiện lên với việc kiếm ăn bằng sự bố
thí, van lạy người khác. Ông dường như đã hòa mình vào cuộc sống của những người
nghèo khổ nơi phố Nối để rồi phác họa nên những hình ảnh chân thực của những kiếp
người nghèo khổ “những bà lão lào”, những thằng bé cụt lúc nào cũng phải luôn
miệng “lạy cụ, lạy ông, lạy bà, thí bỏ cho con ăn cơm bát cháo.” Chỉ với vài ba
dáng điệu ấy ta cũng có thể hình dung ra cuộc sống của người dân trước cách mạng
tháng Tám. Một cuộc sống cơ cực,nghèo nàn vì thiếu miếng ăn. Thử hỏi nếu là kẻ
đứng ngoài hiện thực để viết, liệu những trang văn của Nguyễn Công Hoan có còn
chân thực mà cảm động đến vậy.
Nhà
văn cũng rất tinh tế khi xây dựng hình tượng “nó”- một kẻ không tên để làm nổi
bật rõ nét hiện thực cuộc sống lúc bấy giờ. Ta đau đớn khi đọc đến đoạn nhân vật
nó quyết tâm liều mình “nhắm nghiền mắt lại, buông phắt hai tay ngả người ra,
người rơi đánh bộp xuống đất, nằm còng queo trên cỏ chỉ kêu được một tiếng”. Có
thể nói chỉ một chi tiết này thôi ta đã cảm nhận được sự khốc liệt của hiện thực.
Vì có miếng ăn, con người ta phải quyết định đánh đổi bằng nỗi đau thể xác. Vì
chỉ khi trở thành một kẻ ăn mày không lành lặn, nó mới được coi là ăn mày thực
sự. Hành động quyết tâm nhảy xuống của
nó là một lần đánh liều và có lẽ là quyết định đau đớn nhất mà nhân vật nó chọn
cho cuộc đời mình. Nhưng quyết định ấy lại khiến nó có kiếm sinh nhai. Có thể
nói, đọc đến đây ta chợt nhận ra rằng hoàn cảnh cũng đã quyết định đến số phận
con người, đói khổ đã dồn con người ta đến đường cùng. Nó khiến nhân vật nó rằng
dù có những hôm trời mưa rét, nó quằn quại vì đau lưng và đầu gối nhưng như vậy
lại khiến “người ta động lòng thương” và khiến nó “vui đời lắm”. Ở đây niềm vui
của con người đánh đổi bằng khổ đau. Dường như tác giả đang sống trong một xã hội
mà đói khổ đã trở thành bóng đen đè nặng lên vai con người, khiến họ phải chấp
nhận một cuộc đời đau đớn cả về thể xác lẫn tâm hồn. Ông sống trong một xã hội
mà vì định kiến ăn mày phải mù lòa hoặc cụt chân đã khiến những người lương thiện
nghèo khổ từ bỏ đi hình hài mình. Đọc những trang văn này, ta thấy tác giả
không dửng dưng đứng ngoài quan sát mà thực sự đã “hòa mình vào cuộc sống của
nhân dân”. Để rồi khám phá ra bộ mặt xã hội và nỗi đau tột cùng của người nông
dân trước Cách mạng tháng Tám. Đặc biệt, hòa mình vào cuộc sống của nhân dân
không phải chỉ giúp người đọc nhận thức hiện thực mà còn cho thấy tấm lòng nhân
đạo của người cầm bút. Nhà văn tuy dùng giọng điệu, ngôn ngữ có phần sắc lạnh
nhưng thực chất là xuất phát từ lòng yêu thương, sự cảm thông sâu sắc cho phận
người nghèo khổ. Những trang văn của Nguyễn Công Hoan viết về hiện thực để rồi
cải tạo hiện thực, hướng con người đến
giá trị chân- thiện- mĩ trong cuộc đời. Văn học quả thực là tấm gương phản
ánh hiện thực, mà khi tiếp xúc với nó ta thấy thêm hiểu đời, hiểu người.
(Bài
của Nguyễn Trang)
6. ĐỀ BÀI 6
Nhận
định về truyện ngắn, có ý kiến cho rằng: “đó
là một kỳ quan nghệ thuật bé nhỏ nhưng có sức chấn động phi thường”. Anh/chị
hiểu ý kiến trên như thế nào? Bằng hiểu biết về truyện ngắn, hãy làm sáng tỏ.
Trích
bài viết của học sinh:
Từ
cổ chí kim, từ Đông sang Tây, truyện ngắn luôn đúng với tên gọi của nó: ngắn,
cô đọng, súc tích nhưng đặt ra được những vấn đề có ý nghĩa khái quát về hiện
thực, nhân vật được miêu tả ở những khía cạnh nổi bật nhất. “Mẹ điên” của Vương
Hằng Tích là một truyện ngắn như thế. Đó là một câu chuyện ngắn gọn mà cảm động
dù chỉ có hơn ba ngàn chữ. Cốt truyện của “Mẹ điên” khá đơn giản xoay quanh cuộc
đời người phụ nữ bị điên. Nhưng chính vì yêu cầu của thể loại này cho nên ở đây
truyện chỉ miêu tả một khía cạnh, một lát cắt đời sống nhân vật- đó là lúc cô
gái điên gặp một gia đình mà sau này gia đình ấy là nhà chồng của mình. Không
gian ở đây cũng rất hạn chế trong một gia đình nhỏ, nghèo đói tại một ngôi làng
không hề được tác giả nhắc tên. Nhân vật trong “Mẹ điên” cũng tương đối ít, chỉ
quẩn quanh người mẹ không bình thường, Thụ, bố Thụ, bà nội,... Khác với thể loại
tiểu thuyết, truyện ngắn thường chỉ chứa đựng một vài biến cố, sự kiện, xung đột
cũng không nhiều, Trong truyện ngắn của Vương Hằng Tích, sự kiện, biến cố chỉ bắt
đầu từ việc cô gái điên đển ngôi làng ấy. Sau đó là tình tiết cô được người ta
đưa về để làm một nhiệm vụ duy nhất là sinh ngươì “chống gậy”. Truyện khép lại
bằng tình tiết, biến cố cuối cùng khi mẹ điên ngã xuống vực chết ì mấy trái
đào. Tác phẩm này tuy ngắn gọn nhưng lại chứa đựng “” sức chấn động phi thường”.
Tác giả không để nhân vật nói nhiều nhưng chỉ qua vài chi tiết đã bộc lộ rõ
tính cách của mình. Người mẹ điên không có cơ hội để có tiếng nói nhưng mỗi lần
nhân vật ấy cất tiếng là một lần ta cảm phục trước tình mẫu tử thiêng liêng.
Sau khi sinh Thụ, mẹ cất tiếng nói đầu tiên:’’ Đưa, đưa tôi”. Khao khát được ôm
vào lòng đứa trẻ mình mang nặng đẻ đau để truyền cho nó hơi ấm là biểu tượng
thiêng liêng của mình mẫu tử. Dù bị điên nhưng người mẹ ấy vẫn ý thức sâu sắc về
thiên chức của mình sau khi sinh ra đứa trẻ. Khi Thụ bị bà nội đánh, người mẹ ấy
đã ra sức can ngăn: “ như cái lò xo bật từ dưới đất lên, che giữa bà nội và
tôi, mẹ chỉ tay vào đầu mẹ, kêu thảng thốt: “ đánh tôi, đánh tôi!”. Người phụ nữ
ấy tưởng chường điên nhưng thực chất “rất người”. Chị muốn bảo vệ con, yêu
thương con dẫu cho gia đình chồng không cho phép. Tình mẫu tử đã khiến người mẹ
điên trở nên rất bình thường đẻ rồi có những hành động không có khả năng xảy ra
ở những người điên khác. Chỉ bằng vài chi tiết ấy thôi nhưng ta có thể thông thấu
tư tưởng nhân văn và tính triết lí của tác phẩm: Dù mẹ có điên thì mẹ vẫn có
quyền yêu thương, chăm sóc đứa con mình sinh ra. Qua đây ta như thấm thía bài học
về tình mẫu tử và cách đối nhân xử thế trong cuộc đời. Truyện ngắn nhưng dung
lượng mà nó chứa trong mình là rất lớn, khiến người đọc sau khi đọc xong có thể
nhìn thấy nhiều vấn đề, nhiều khía cạnh của một vấn đề cũng như rút ra được bài
học cho riêng mình. Đó mới chính là thành công và truyện ngắn “Mẹ điên” đã làm
được điều đó.
(Bài
viết của Nguyễn Mai)
7. ĐỀ BÀI 7:
Đề
thi học sinh giỏi quốc gia năm học 2017 – 2018; HS Nguyễn Ngọc Diệp (Giải Nhất kỳ thi HSGQG 2017 – 2018), trong phần chứng
minh, đã lựa chọn và vận dụng một số dẫn chứng là văn bản văn học ngoài chương
trình, trong đó có tác phẩm Cao lương đỏ (Mạc
Ngôn) từng đạt giải Nobel văn học. Dưới đây là phần vận dụng của học sinh được
chính em tự ghi chép lại theo trí nhớ:
Bàn về một “tác phẩm tốt” mà ở đó sự
sống được “chắt lọc, nâng lên, tập trung cao độ” và được “nâng cao lên đôi cánh
tư tưởng” của nhà văn, kết tinh đủ chất mặn mòi của cuộc sống thì “Cao lương
đỏ” của Mạc Ngôn (Trung Quốc) quả thực xứng đáng có một vị trí trong lòng độc
giả. “Cao lương đỏ” được hoàn thành năm 1998 và ngay năm ấy được trao giải nhất
của hội nhà văn Trung Quốc cùng với nhiều giải thưởng văn học lớn của thế giới.
Trong tác phẩm này, Mạc Ngôn đã trở về, vượt qua truyền thống, đã không ngần
ngại khi đưa mọi sự vui, buồn, những điều tốt đẹp nhất và cả những cái xấu xa
nhất của hiện thực cuộc sống lên trang văn của mình. Dưới ngòi bút của Mạc
Ngôn, cuộc đấu tranh chống Nhật của nhân dân Trung Quốc được phản ánh chân
thực, sinh động như hiển hiện ngay trước mắt độc giả. Trong chiến tranh thế
giới thứ hai, Nhật Bản với kế hoạch 4 bước: đánh chiếm Đông Bắc Trung Quốc, độc
chiếm Trung Hoa, làm chủ Châu Á, bá chú toàn cầu đã dốc toàn lực càn quét những
vùng chiếm đóng, gieo rắc tội ác trên khắp đất nước Trung Quốc. Đó chính là
nguồn cảm hứng, đề tài để Mạc Ngôn phản ánh tội ác quân Nhật và cuộc đấu tranh
chống Nhật của nhân dân thời kì bấy giờ. Tội ác tày trời ấy của phát xít Nhật
được nhà văn tái hiện là chính sách bắt phu. Ông miêu tả số lượng người bị bắt
đi phu rất lớn chỉ riêng ở các làng Cao Mật, Bình Độ, huyện Giao đã bắt tổng
cộng “40 vạn lượt người, đắp một con đường cái Giao Bình”. Người phu bị bắt làm
việc vất vả, nặng nề thậm chí nguy hiểm tới tính mạng nhưng bị bọn Nhật bắt
phải cống nạp vật phẩm, nếu không sẽ bị hành hạ tàn nhẫn. Cảnh bọn đốc công
đánh đập dân phu là một chi tiết hiện thực có sức ám ảnh mạnh mẽ trên trang văn
này: “Đứng ở bên bờ Nam, chừng là đốc
công, dùng chiếc roi mây màu đỏ sẫm chọc vào đầu ông La Hán, máu trên đầu chảy
xuống làm ướt cả lông mày”. Đó đều là những sự thật lịch sử được Mạc Ngôn
ghi lại trung thực, sinh động khiến bất kì bạn đọc nào cũng như đang chiêm
ngưỡng một thước phim quay chậm đầy cảm xúc. Sự sống, hiện thực được nhà văn
tâm huyết chắt lọc ở những biểu hiện cao nhất, chi tiết ám ảnh nhất của đời
sống khốn khổ, cùng cực nhân dân Trung Hoa trong chiến tranh. Cũng trong “Cao
lương đỏ”, cuộc sống sinh hoạt của người dân không hiện lên một cách trực diện
nhưng qua lời của người kể vẫn giúp độc giả hình dung ra bao cảnh sống đói
nghèo, cực khổ ở vùng đất Cao Mật. Cả cuộc đời họ gắn liền với mảnh ruộng mà
quanh năm vẫn không đủ ăn, thức ăn đơn sơ đạm bạc không có gì khác ngoài “cây
cao lương”- một loại cây giống như kê trồng ở vùng Đông Bắc Trung Quốc. Đời
sống nhân dân vốn cực khổ nay dưới tội ác của bọn Nhật càng thêm điêu đứng.
Không chỉ phá hoại kinh tế, chúng còn thẳng tay giết hại đồng loại không thương
tiếc. Những câu văn miêu tả khi tư lệnh Từ dắt tay “bố tôi” đi trong cánh đồng
cao lương đã lột tả tội ác của chúng với thái độ xót xa, căm giận cao độ: “hơn
ba trăm xác đồng bào nằm ngổn ngang, người mất tay, kẻ cụt chân, máu chảy thấm
cả một dải cao lương rộng lớn, biến đất đen dưới gốc cao lương thành một lớp
bùn nhầy nhụa...” Đọc những dòng ấy, có bạn đọc nào không xúc động, không bị
tác động mạnh mẽ? Không cuộc chiến tranh nào không có tội ác nhưng để nói được
thứ tội ác đáng căm ghét, ghê tởm và nhiều đau đớn khắc sâu đến thế thì chỉ có
ở tác phẩm của nhà văn tài tâm, nặng lòng với quê hương, lịch sử như Mạc Ngôn.
Từng chi tiết hiện thực ấy đều có tác động sâu mạnh làm dậy lên lòng căm ghét
quân xâm lược, lòng thương cảm với đồng bào, lòng nhân đạo của con người dù
không trực tiếp chứng kiến những sự thật lịch sử trong quá khứ. Đó cũng chính
là tư tưởng nhân văn, nhân đạo của nhà văn Trung Quốc này. Không chỉ vậy, trên
những trang viết “Cao lương đỏ”, Mạc Ngôn còn tái hiện được cả khát vọng tự do
trong tình yêu của con người Cao Mật, con người Trung Quốc dưới những định
kiến, gò bó của xã hội cũ. Thông qua cuộc đời của nhân vật nữ chính Đái Phượng Liên
phải lấy người đàn ông mình không yêu, lại mang bệnh sẵn trong người ở độ tuổi
cô khao khát yêu đương nhất, rạo rực tuổi trẻ nhất. Cuộc trốn thoát của Phượng
Liên cùng anh phu kiệu khoẻ mạnh (sau là tư lệnh Từ Chiếm Ngao) trong ngày lên
kiệu hoa là bước “nâng cao đôi cánh tư tưởng” của Mạc Ngôn. Ba ngày hạnh phúc
trong rừng cây cao lương đã cho họ một đứa con trai. Suốt cuộc đời Phượng Liên
gắn bó với mảnh đất Cao Mật ấy. Đó là nơi
bà sinh ra, lớn lên rồi trở thành
anh hùng dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Nhật. Đó là nơi chứng kiến cuộc
đời nổi loạn của bà, chứng kiến những kỉ niệm tình yêu đẹp nhất và cũng là nơi
chứng kiến cảnh bà ngã xuống lúc qua đời. Nhân vật phụ nữ này đã mở đường cho
một lối sống cá tính, tự do, tự chủ cuộc sống trong xã hội còn nhiều định kiến
nặng nề. Số phận và khát khao của Đái Phượng Liên cũng chính là những khát khao
phá bỏ luật lệ của con người mà Mạc Ngôn hướng tới. Trung quốc là một đất nước
tồn tại rất lâu trong chế độ phong kiến nên rất nhiều những định kiến, hủ tục
mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến con người mãi về sau. Quan niệm trọng nam khinh nữ
là một trong những tập tục tiêu biểu của Trung Hoa phong kiến, nó đeo đẳng dai
dẳng, áp đặt lên những người phụ nữ chân yếu tay mềm trong xã hội. Những người
phụ nữ trong xã hội phong kiến luôn bị coi thường và không có quyền tự quyết
định hạnh phúc của chính mình. Và, tiếng nói của Phượng Liên hay là tiếng tư
tưởng nhân văn của tác giả đã thay người phụ nữ đòi lại quyền sống, quyền tự do
yêu đương và hạnh phúc đáng có của mình. Đó chính là sự điển hình hoá, phổ quát
hoá hiện thực của nhà văn cùng với sự “cất cao đôi cánh tư tưởng” mà Mạc Ngôn
đã thể hiện rất tài năng trong tác phẩm vĩ đại này. Suy đến cùng, tư tưởng mà
anh muốn cất tiếng trong đứa con tinh thần của mình đều chỉ vĩ đại khi nó vì
con người, vì cái nhân bản của con người mà thôi. Vậy mới thấy, “tác phẩm tốt”,
mang chất mặn cuộc sống không thể đi con đường xa rời hiện thực và con đường
sao chép đơn thuần hiện thực. Nó phải là hiện thực mang tên sự sáng tạo và tư tưởng
của “nhà văn tốt”.
(Nguyễn Ngọc Diệp – Bài
giải nhất HSG văn QG 2017 – 2018)
PHẦN 3. KẾT LUẬN
Vấn đề rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản văn học cho học
sinh chuyên văn là một trong số những nội dung quan trọng trong công tác
rèn luyện, bồi dưỡng học sinh giỏi mà giáo viên cần đặc biệt quan tâm. Để đi đến cách rèn kĩ
năng cho học sinh, chúng tôi muốn hướng đến sự nhận thức đầy đủ về vấn đề từ
phương diện tri thức đến thực tiễn, từ đó xác định những cách làm phù hợp và hiệu
quả.
Trong khuôn khổ một chuyên đề bộ môn, nên khi thực hiện
chúng tôi chỉ mong muốn nêu ra những vấn đề cụ thể, có ý nghĩa thiết thực để
chia sẻ cùng các đồng nghiệp những nhận thức và kinh nghiệm của chúng tôi
trong quá trình bồi dưỡng cho học sinh giỏi. Đề tài cũng chưa thể nghiên cứu
một cách hệ thống và toàn diện về cách rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản văn học cho
học sinh chuyên văn, trên cơ sở kế thừa những thành tựu nghiên cứu đã có và thực
tiễn giảng dạy, chúng tôi đúc rút những kinh nghiệm coi như những đề xuất khiêm
tốn đối với đồng nghiệp.
Hi vọng rằng những gì chúng tôi trình bày trong đề
tài nghiên cứu trên sẽ trở thành những đóng góp, chia sẻ nhỏ bé mà
hữu ích với đồng nghiệp trong công tác giảng dạy thực tế tại trường THPT
Chuyên. Chúng tôi mong mỏi sẽ nhận được những ý kiến đóng góp, trao đổi từ các
thầy là những nhà nghiên cứu khoa học và của các đồng chí, đồng nghiệp cùng
chung mặt trận giảng dạy, bồi dưỡng học sinh giỏi, để chúng tôi có thể hoàn thiện
đề tài này.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Đọc
văn chương- Đỗ Đức Hiểu ( trong Thi pháp hiện đại) NXB Hội nhà văn ,2000
2.
Vấn
đề đọc hiểu và dạy đọc hiểu – Nguyễn Thái Hòa, Thông tin khoa học số 5, tháng
4/2004
3.
Hiểu
văn – Dạy văn – Nguyên Thanh Hùng, NXB GD, 2001
4.
Đọc
và tiếp nhận văn chương- Nguyễn Thanh Hùng, NXB GD, 2002
5.
Văn
học nhà trường những điểm nhìn- Phan Trọng Luận, NXB ĐHSP, 2011
6.
Đọc
hiểu và chiến thuật đọc hiểu trong nhà trường phổ thông - Phạm Thị Thu Hương,
NXB ĐHSP 2018
7.
https://trandinhsu.wordpress.com/2013/08/30/doc-hieu-van-ban-khau-dot-pha-trong-day-hoc-van-hien-nay/
8.
Luận án tiến sĩ Ngữ văn: Phát triển năng
lực đọc hiểu văn bản cho HS THPT ở bộ môn Ngữ văn – Đoàn Thị Thanh Huyền –
ĐHSPHN 2017.
9.
Bộ sách giáo khoa, sách giáo viên Ngữ
văn 10 THPT – Trần Đình Sử tổng chủ biên – NXB GD, 2006.
Bùi Thị Thanh Hoa