Rèn luyện kĩ năng nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học
RÈN
LUYỆN KĨ NĂNG
NGHỊ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ XÃ HỘI ĐẶT RA TRONG TÁC
PHẨM VĂN HỌC
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Rèn luyện
kĩ năng làm văn cho học sinh là một yêu cầu cần thiết, quan trọng trong hoạt
động dạy học Ngữ văn. Nếu chỉ trang bị kiến thức mà bỏ qua hoạt động rèn kĩ
năng thì cũng giống như việc đã vất vả cày xới, gieo trồng nhưng rồi lại không
quan tâm đến khâu hoàn thiện sản phẩm và thu hoạch. Cho dù học sinh có kiến
thức sâu rộng, mới mẻ đến đâu cũng là không đủ để tạo nên những bài làm tốt. Các
em sẽ lúng túng khi làm bài, nhất là trong bối cảnh Bộ GD&ĐT chủ trương đổi
mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá các môn khoa học xã hội (trong
đó có Ngữ văn) theo tinh thần “... nâng
cao yêu cầu vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tăng cường ra các câu hỏi mở, gắn
với thời sự quê hương đất nước để học sinh được bày tỏ chính kiến của mình về
các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội”. [Theo công văn Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ GDTrH,
năm 2013].
2. Ở môn Ngữ
văn THPT, thì phần làm văn trong tất cả các kì thi đều yêu cầu học sinh thực
hiện kiểu bài nghị luận. Do đó, rèn kĩ năng làm văn nghị luận với đặc trưng
riêng của kiểu bài này hẳn là yêu cầu có ý nghĩa quan trọng. Đặc biệt là việc
rèn cho học sinh kĩ năng làm những dạng đề có tính chất tích hợp, đòi hỏi khả
năng lập luận sắc bén, biết kết hợp giữa vốn sống trực tiếp và vốn sống gián
tiếp một cách uyển chuyển, nhuần nhị như dạng bài: Nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học. Đây
là một trong những dạng bài rất phù hợp với tính chất của các kì thi học sinh
giỏi môn Ngữ văn, vì nó có khả năng kích thích sự sáng tạo, khơi gợi những cách
nhìn nhận đa chiều về các vấn đề văn học và đời sống; dễ dàng đánh giá năng lực
tư duy, năng lực diễn đạt của người viết. Việc rèn kĩ năng làm bài văn nghị
luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học, do đó là yêu cầu xuất phát
từ thực tiễn dạy học Ngữ văn nói chung và công tác bồi dưỡng học sinh giỏi Ngữ
văn nói riêng.
3. Để đáp ứng
được mục tiêu dạy học Ngữ văn, nhất là tính hiệu quả khi ôn tập cho học sinh
trước mỗi kì thi; chúng ta cần tập trung hình thành cho các em hai năng lực cơ
bản là: đọc hiểu văn bản và tạo lập văn bản. Tuy nhiên, việc rèn hai kĩ năng
đọc hiểu và làm văn cho học sinh trong thực tế còn thiếu tính hệ thống, gắn
kết. Trong suy nghĩ của nhiều người, đọc
văn và làm văn là hai
chuyện hoàn toàn khác nhau: Đọc văn chủ yếu là hoạt động tiếp nhận các văn bản
văn học trong sách giáo khoa. Còn làm văn là việc học sinh trả bài trên giấy
những hiểu biết đã được học về các tác phẩm văn học. Chính điều này đã dẫn đến tình
trạng:
- Các tác phẩm được giảng dạy có một khoảng cách lớn với người học, trở
thành “những tinh cầu xa lạ” với hiện thực cuộc sống.
- Việc đọc hiểu tác phẩm văn học chỉ để thực hiện một yêu cầu học tập mà không
mang lại bất cứ liên hệ hữu ích nào với cuộc sống hàng ngày của học sinh.
- Đa phần học sinh thấy khó khăn khi gặp một tác phẩm ngoài chương trình,
càng lúng túng khi gặp một đề bài ra theo lối mở - đòi hỏi các em phải tự xác
định vấn đề, soi chiếu vấn đề ở các góc độ khác nhau…
Để khắc phục những bất cập trên, bên cạnh các giải pháp như đổi mới đồng
bộ chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá…; chúng
tôi cho rằng việc rèn luyện cho học
sinh kĩ năng nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học
là một việc làm cần thiết. Việc làm này mặc dù chỉ là giải pháp để nâng cao
chất lượng dạy học một dạng bài cụ thể nhưng lại có tác dụng không nhỏ trong
việc liên kết chặt chẽ hai phân môn đọc văn và làm văn; đưa văn học về gần hơn
với đời sống; giúp cho học sinh có cái nhìn bao quát, toàn diện về những vấn đề
văn học và đời sống.
Xuất phát từ yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, đặc biệt là đổi mới
kiểm tra đánh giá; xuất phát từ những đòi hỏi của thực tiễn dạy học… chúng tôi
xây dựng chuyên đề: Rèn luyện kĩ năng
nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học với mong muốn
nghiên cứu và chia sẻ
một số vấn đề có tính chất gợi mở, phần nhiều là kinh nghiệm dạy học kiểu bài
này để cùng các đồng nghiệp hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng dạy học Ngữ
văn.
II. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI
Với mục tiêu mở
ra một cái nhìn có ý nghĩa tổng quát về kiểu bài nghị luận về vấn đề xã hội đặt
ra trong tác phẩm văn học, đồng thời rút ra những kinh nghiệm rèn kĩ năng làm
dạng bài này cho học sinh và chia sẻ một số tư liệu hữu ích phục vụ công tác
dạy học; chúng tôi chủ trương trình bày những vấn đề sau trong chuyên đề:
- Giới thiệu kiểu
bài nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học trên các cơ sở lí
luận và thực tiễn.
- Đưa ra
những biện pháp cụ thể để rèn kĩ năng thực hiện kiểu bài nghị luận về vấn đề xã
hội đặt ra trong tác phẩm văn học.
- Giới thiệu
một số đề bài và đáp án để phục vụ việc ôn tập và thực hành làm kiểu bài nghị
luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học.
B. PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN
1. Cơ sở lý luận
1.1. Văn nghị luận
a. Khái niệm:
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Nghị luận: Bàn và đánh giá cho rõ về một vấn đề
nào đó. Văn nghị luận là thể văn dùng lí lẽ và dẫn chứng để phân tích giải
quyết một vấn đề”.
Từ điển
thuật ngữ văn học
cũng nêu rõ: “Văn nghị luận: Thể văn nghị luận viết về những vấn đề nóng bỏng
thuộc nhiều lĩnh vực đời sống khác nhau: chính trị, xã hội, triết học, văn hoá.
Mục đích của văn chính luận là bàn bạc, thảo luận, phê bình hay truyền bá tức
thời một tư tưởng, một quan điểm nào đó. Đặc trưng cơ bản nhất của văn chính
luận là tính chất luận thuyết. Văn chính luận trình bày tư tưởng và thuyết phục
người đọc chủ yếu bằng lập luận, lí lẽ”.
Như vậy, có
thể hiểu: Văn nghị luận là một loại
văn bản nhằm phát biểu tư tưởng, tình cảm, thái độ, quan điểm của người viết
một cách trực tiếp về các vấn đề văn học, chính trị, đạo đức, lối sống... và
được trình bày bằng một thứ ngôn ngữ trong sáng, hùng hồn với những lập luận
chặt chẽ, mạch lạc, giàu sức thuyết phục. Đây là loại văn phổ biến trong nhà
trường, thường được lấy làm yêu cầu của phần làm văn trong các đề thi hiện nay.
Vì văn nghị luận thể hiện năng lực tư duy, lo-gic của người viết; vừa cho thấy
khả năng diễn đạt, trình bày quan điểm riêng một cách thuyết phục. Nội dung và
cấu trúc của một văn bản nghị luận được hình thành từ các yếu tố cơ bản là: Vấn đề cần nghị luận (luận đề), luận điểm, luận cứ và lập luận (luận chứng).
b. Phân loại:
Căn cứ vào nội
dung nghị luận, có thể chia văn nghị luận thành hai loại: nghị luận văn học và
nghị luận xã hội. Theo đó: Nghị luận văn
học có nội dung bàn luận về một vấn đề văn học, còn Nghị luận xã hội lại hướng tới bàn luận về một vấn đề nảy sinh
trong xã hội.
1.2. Kiểu bài Nghị luận xã hội
- Dựa theo cách hiểu của Từ điển
từ và ngữ Hán Việt về xã hội
(“xã hội là một tập thể người cùng
sống, gắn bó với nhau trong quan hệ sản xuất và các quan hệ khác”);
chúng ta có thể hiểu Nghị luận xã hội là kiểu bài
hướng tới phân tích, bàn bạc về các vấn đề liên quan đến các mối quan
hệ của con người trong đời sống xã hội. Phạm vi của nghị luận xã hội rất
rộng, có thể kể tới những nội dung quan trọng như: mối quan hệ của con người
với môi trường sống, mối quan hệ của cá nhân với cộng đồng, các vấn đề về lối
sống, lý tưởng sống, những hiện tượng tích cực hoặc tiêu cực của đời sống xã
hội… Việc bàn luận về những vấn đề trên sẽ góp phần làm cho nhận thức và tâm hồn của con người thêm phong phú, tạo cho
mỗi người ý thức chăm sóc cuộc sống tinh thần của mình và xây dựng các mối quan
hệ trong xã hội, trong cộng đồng ngày càng văn minh, tốt đẹp hơn. Không chỉ
vậy, nó còn có khả năng rèn năng lực tư duy, giúp con người có thể đối diện với
các vấn đề xã hội và biết cách giải quyết những vấn đề ấy.
- Nghị
luận xã hội thường được chia thành ba dạng:
+ Nghị luận về một
tư tưởng, đạo lí
+ Nghị luận về một
hiện tượng đời sống
+ Nghị luận về một
vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học
Ba dạng đề
này có những nét tương đồng và khác biệt:
Dạng đề
So sánh
|
Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí
|
Nghị luận về một hiện tượng đời
sống
|
Nghị luận về một vấn đề xã hội đặt
ra trong TPVH
|
Khác nhau
|
Bàn luận về một vấn đề tư tưởng, đạo đức, lối sống… của con người.
|
Bàn luận về một hiện tượng, một vấn đề có tính thời sự, được dư luận xã
hội quan tâm.
|
Bàn
luận về một vấn đề xã hội (một tư tưởng, đạo đức, lối sống hoặc một hiện
tượng đời sống) được rút ra từ một câu/ một đoạn trích hoặc rút ra từ nội
dung của một tác phẩm văn học nào đó.
|
Mang tính khái quát cao về những chân lí, những bài học đạo đức; góp phần
định hướng cho con người có lẽ sống tốt đẹp.
|
Thường đi vào những vấn đề cụ thể (như những biểu hiện tích cực hoặc tiêu
cực) trong cuộc sống. Từ đó, gợi ý cho con người những hành vi và cách ứng xử
đúng đắn.
|
Xuất
phát từ nội dung xã hội cụ thể trong một tác phẩm văn học, đề bài hướng đến
mục tiêu: Hình thành cho học sinh năng lực khái quát vấn đề, thể hiện quan
điểm của mình trước những vấn đề đời sống.
|
Giống nhau
|
* Về nội dung: Cùng đề cập đến những vấn đề xã hội,
góp phần nâng cao nhận thức và định hướng về lối sống, cách ứng xử cho con
người.
* Về phương pháp nghị
luận: Để thực
hiện các dạng bài trên, người viết đều cần vận dụng kết hợp các thao tác lập
luận như: giải thích, bình luận, phân tích,
chứng minh, bác bỏ để bàn
luận, trình bày quan điểm của mình xoay quanh vấn đề xã hội được đề cập.
|
1.3. Kiểu
bài Nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra
trong tác phẩm văn học
a. Cơ sở hình thành kiểu bài
- Xuất phát
từ chức năng phản ánh của văn học mà hiện thực trở thành thuộc tính tất yếu của
mỗi tác phẩm văn học. Trong bất kì tác phẩm văn học nào, chúng ta cũng thấy hơi
thở, bóng dáng của hiện thực đời sống khách quan được nhà văn phản ánh. Cho nên, dù các tác phẩm văn học ra đời ở giai đoạn, thời kì nào thì những
vấn đề xã hội mà nó đề cập vẫn có ý nghĩa với cuộc sống hiện tại. Tiếp nhận một
tác phẩm văn học, người đọc không chỉ suy tư, chiêm nghiệm về những vấn đề xã
hội ở thời đại mà tác phẩm ra đời ; mà họ còn có cơ hội nhìn nhận,
đánh giá một cách thấu đáo về những vấn đề của đời sống nhân sinh trên cơ sở so
sánh xã hội hôm qua và hôm nay ; xã hội được nhà văn phản ánh và xã hội
hiện tại mà mình đang sống... Ngoài ra, do đặc trưng của hoạt động tiếp nhận văn
học nên người đọc có thể bộc lộ quan điểm của bản thân về một nội dung nào đó,
không lệ thuộc vào cách nhìn của người khác. Chính điều này trở thành cơ sở cho
sự ra đời của những đề bài yêu cầu nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong
tác phẩm văn học.
-
Đề văn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình đổi mới phương pháp dạy
học, phương pháp kiểm tra đánh giá ở môn học này. Trong những năm học gần đây,
Bộ GD&ĐT đã chỉ đạo thực hiện có hiệu quả việc đổi mới cách ra đề văn: từ
nội dung kiểm tra đến hình thức, cấu trúc của một đề bài. Trong đó, cách hỏi ở
câu Nghị luận xã hội càng lúc càng phong phú, đa dạng. Không dừng lại ở những
câu hỏi có tính chất khuôn mẫu như dựa vào một ý kiến hay nêu ra một hiện tượng
để yêu cầu học sinh bàn luận; mà có nhiều đề bài mở đầy sáng tạo đã ra đời và
được dư luận đánh giá cao. Trong đó, kiểu bài nghị luận về một vấn đề xã hội
đặt ra trong tác phẩm văn học được xem là cách hỏi “vừa quen, vừa lạ”; vừa mô
phạm, vừa kích thích sáng tạo; vừa kiểm tra được năng lực cảm thụ văn học; vừa
đánh giá được tư duy lo-gic và kiến thức xã hội của học sinh… Đó là lí do sự
xuất hiện của kiểu bài này càng lúc càng nhiều, nhất là trong xu hướng đổi mới
kiểm tra môn Ngữ văn theo định hướng năng lực hiện nay.
b. Đặc điểm của kiểu bài:
Nghị
luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học là kiểu bài nghị luận
xã hội chứ không phải nghị luận văn học. Vì đối tượng trực tiếp đề bài yêu cầu
bàn luận là một vấn đề xã hội chứ không phải một nội dung văn học; tác phẩm văn
học chỉ đóng vai trò là phạm vi, xuất xứ của vấn đề xã hội được yêu cầu bàn
luận trong đề bài. Về điều này, sách giáo viên Ngữ văn 12 (Nâng cao) đã lưu ý
như sau: “Nhiều người nhầm dạng đề này là
nghị luận văn học, vì đề có liên quan đến tác phẩm văn học. Đúng là dạng đề này
liên quan và xuất phát từ tác phẩm văn học, những tác phẩm văn học chỉ là “cái
cớ” khởi đầu. Mục đích chính của dạng đề này vẫn là yêu cầu người viết bàn bạc,
nghị luận về một vấn đề xã hội, đạo lí, tư tưởng, nhân sinh… Nghĩa là nhân vấn
đề đặt ra trong tác phẩm văn học mà luận bàn, kiến giải. Trong trường hợp này,
tác phẩm văn học chỉ được khai thác về giá trị nội dung, tư tưởng, rút ra ý
nghĩa xã hội khái quát của tác phẩm ấy”. [16]. Như vậy, có thể xem Nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong
tác phẩm văn học là một kiểu bài đặc biệt, có tính chất giao thoa giữa nghị
luận văn học và nghị luận xã hội, để thực hiện nó người viết cùng lúc cần huy
động cả kiến thức văn học và kiến thức xã hội, kĩ năng đọc hiểu và kĩ năng làm
văn.
Để nhận diện được các dạng đề ra cụ
thể chúng tôi cho rằng: có ba căn cứ để phân biệt các đề thuộc kiểu bài nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác
phẩm văn học. Đó là: Nội dung nghị
luận; Hình thức/cách hỏi của đề bài
và Đặc điểm của tác phẩm văn học được lấy
làm cơ sở để ra đề. Cụ thể:
-
Về nội dung nghị luận: Vấn đề xã hội được yêu cầu bàn luận có thể là một tư
tưởng đạo lí hoặc một hiện tượng đời sống.
-
Về hình thức đề ra: Đề bài có thể trực tiếp đưa ra một vấn đề xã hội nào từ
tác phẩm văn học cho học sinh bàn luận hoặc yêu cầu học sinh tự rút ra vấn đề
có ý nghĩa xã hội từ tác phẩm để luận bàn.
- Về đặc điểm của tác phẩm văn học được lấy làm cơ sở để ra đề: Tác
phẩm văn học chứa đựng vấn đề xã hội (là nội dung nghị luận) có thể là một đoạn
trích/ một tác phẩm hoặc một nhóm tác phẩm được học trong chương trình hoặc một
đoạn trích/ một tác phẩm ngoài chương trình.
Dưới đây là một số ví dụ về các dạng
đề cụ thể thuộc kiểu bài Nghị luận về vấn
đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học:
Yêu
cầu nghị luận về một tư tưởng đạo lí được rút ra từ tác phẩm văn học.
|
Qua
bài thơ Từ ấy của nhà thơ Tố Hữu, hãy trình bày suy nghĩ của mình về
ý nghĩa của lý tưởng sống với thanh niên.
|
Yêu
cầu nghị luận về một hiện tượng đời sống được được đặt ra trong tác phẩm văn
học.
|
Trong
tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã đề cập đến
một vấn đề có tính chất nhức nhối trong xã hội hiện nay, đó là: Nạn bạo hành gia đình.
Hãy
viết một bài văn ngắn để trình bày suy nghĩ, quan điểm của mình xoay quanh
vấn đề trên.
|
Yêu
cầu nghị luận về một vấn đề xã hội xác định
|
Từ
đoạn trích trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của
nhà văn Lưu Quang Vũ, nghĩ về niềm hạnh phúc của con người khi được sống thực
với mình và mọi người.
|
Yêu
cầu học sinh tự rút ra vấn đề xã hội từ tác phẩm văn học để bàn luận
|
Trong
đoạn trích Đất Nước (trường ca Mặt đường khát vọng) có những câu
thơ:
Em ơi em đất nước là máu xương của
mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ
sở
Làm nên đất nước muôn đời …
Theo
anh/chị nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm muốn gửi tới thế hệ trẻ thông điệp gì qua
đoạn thơ trên ? Hãy viết một bài văn để trình bày suy nghĩ của mình về ý
nghĩa của thông điệp đó.
|
Yêu
cầu nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong một đoạn trích/một tác phẩm
hoặc một nhóm tác phẩm trong chương trình.
|
Từ những câu chuyện gia đình trong
các tác phẩm Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi) và Chiếc
thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu); anh/chị hãy viết một bài văn
trình bày suy nghĩ của mình về vai trò của gia đình với cuộc sống của mỗi con
người.
|
Yêu
cầu nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong một đoạn trích/một tác phẩm ngắn
ngoài chương trình.
|
Mùa đông đang đến rất gần
Các loài chim bắt đầu thấy lạnh
Rủ nhau bay về nam lẩn tránh,
Dù suốt mùa hè ca ngợi quê hương
Chỉ đại bàng vẫn ngồi im
Lặng lẽ nhìn những hàng cây trút lá
Khi đất nước gặp những ngày băng giá
Đại bàng không bỏ bay đi
(Thơ Rasul Gamzatov, Thái Bá Tân dịch)
Từ hình tượng của chú chim đại
bàng trong bài thơ trên, anh/chị hãy viết một bài văn ngắn để trình
bày suy nghĩ của mình về tình yêu quê hương, tổ quốc của mỗi con người.
|
2. Cơ sở thực tiễn
Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy rằng: Kiểu bài Nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học là
một thử thách với số đông học sinh. Dưới đây là một số đề thuộc kiểu bài này
hoặc ít nhiều có mối liên quan đến nó mà chúng tôi tập hợp lại từ các đề thi
trong một số năm gần đây:
- Đề
thi HSG các trường chuyên vùng duyên hải Bắc Bộ, năm 2009
Từ
hình ảnh đồng tiền trong Truyện Kiều (Nguyễn Du), anh/chị hãy
bàn về đồng tiền trong cuộc sống hôm nay.
- Đề
thi HSG Tỉnh Bắc Giang, môn Ngữ văn 12, năm 2010
Đối thủ đáng sợ nhất
Khi Abraham Lincoln ra tranh cử tổng thống, một người bạn đã hỏi ông:
- Anh thấy mình có hy
vọng gì không? Ai là đối thủ đáng sợ nhất của anh?
Và Abraham
Lincoln đã đưa ra một câu trả lời tuy hài hước nhưng rất thật:
- Tôi không
ngại Breckingridge vì ông ta là người miền Nam nên người dân miền Bắc sẽ không
ủng hộ ông ta. Tôi cũng không ngại Douglas vì ông ta là người miền Bắc nên
người dân ở miền Nam
sẽ không nhiệt tình bỏ phiếu cho ông ta. Nhưng có một đối thủ mà tôi rất sợ,
ông ta là người duy nhất có thể khiến tôi thất cử…
Người bạn
liền vội ngắt lời:
- Ai vậy?
Nhìn thẳng
vào mắt bạn mình, Abraham Lincoln nói:
- Nếu lần
này tôi không được bầu làm tổng thống thì anh hãy biết rằng đó chính là lỗi của
ông ta. Ông ta chính là Abraham Lincoln!
(Những tấm lòng cao cả, NXB
Trẻ, 2004, trang 76)
Câu
chuyện trên gợi cho anh/chị suy nghĩ gì?
- Đề
thi HSG Tỉnh Bắc Giang, môn Ngữ văn 12, năm 2012
Hai biển hồ
Người ta bảo ở bên Pa-le-xtin có hai biển hồ… Biển hồ
thứ nhất gọi là biển Chết. Đúng như tên gọi, không có sự sống nào bên trong
cũng như xung quanh biển hồ này. Nước trong hồ không có một loại cá nào có thể
sống nổi. Ai ai cũng đều không muốn sống gần đó. Biển hồ thứ hai là Ga-li-lê.
Đây là biển hồ thu hút khách du lịch nhiều nhất. Nước ở biển hồ lúc nào cũng
trong xanh mát rượi, con người có thể uống được mà cá cũng có thể sống được.
Nhà cửa được xây cất rất nhiều ở nơi đây. Vườn cây xung quanh tốt tươi nhờ
nguồn nước này.
Nhưng điều kỳ lạ là cả hai biển hồ này đều được đón
nhận nguồn nước từ sông Gioóc-đăng. Nước sông Gioóc-đăng chảy vào biển Chết.
Biển Chết đón nhận và giữ lại riêng cho mình mà không chia sẻ nên nước trong
biển Chết trở nên mặn chát. Biển hồ Ga-li-lê cũng đón nhận nguồn nước từ sông
Gioóc-đăng rồi từ đó tràn qua các hồ nhỏ và sông lạch, nhờ vậy nước trong hồ
này luôn sạch và mang lại sự sống cho cây cối, muông thú và con người.
(Theo Quà
tặng cuộc sống)
Theo anh
(chị), bài học cuộc sống rút ra từ câu chuyện trên là gì?
- Đề thi Tốt nghiệp,
môn Ngữ văn 12, năm 2014
Trong vở kịch
Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ có đoạn:
Hồn
Trương Ba :
Ông Đế Thích ạ, tôi không thể tiếp tục mang thân anh hàng thịt được nữa, không
thể được!
Đế
Thích:
Sao thế? Có gì không ổn đâu!
Hồn
Trương Ba : Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn
được là tôi toàn vẹn.
Đế
Thích :
Thế ông ngỡ tất cả mọi người đều được là mình toàn vẹn cả ư? Ngay cả tôi đây. Ở
bên ngoài, tôi đâu có được sống theo những điều tôi nghĩ bên trong. Mà cả Ngọc
Hoàng nữa, chính người lắm khi cũng phải khuôn ép mình cho xứng với danh vị
Ngọc Hoàng. Dưới đất, trên trời đều thế cả, nữa là ông. Ông đã bị gạch tên khỏi
sổ Nam
Tào. Thân thể thật của ông đã tan rữa trong bùn đất, còn chút hình thù gì của
ông đâu!
Hồn
Trương Ba :
Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác, đã là chuyện không nên, đằng này đến
cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi
sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!
(Ngữ
văn 12, NXB Giáo dục Việt Nam, 2013, tr. 149)
Phân tích
khát vọng của nhân vật Hồn Trương Ba trong đoạn trích trên. Từ đó, trình bày
suy nghĩ của anh/chị về vấn đề : con người cần được sống là chính mình.
* *
*
Như vậy: Kiểu bài Nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra
trong tác phẩm văn học xuất hiện chủ yếu trong các đề thi dành
cho học sinh giỏi. Bên cạnh đó, vào năm 2014 trong đề thi tốt nghiệp đã xuất
hiện đề văn tích hợp cả hai câu: nghị luận văn học và nghị luận xã hội. Đây là
đề văn đòi hỏi học sinh thực hiện cả hai yêu cầu nghị luận văn học và nghị luận
xã hội, trong đó phân tích văn học làm cơ sở để trình bày quan điểm suy nghĩ về
vấn đề xã hội. Tuy không đơn thuần là bài văn Nghị luận về một vấn đề
xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học những chúng tôi cho rằng câu hỏi trong đề thi tốt nghiệp THPT
năm 2014 khá gần gũi với dạng đề này; có thể mở ra nhiều đề bài yêu cầu tích
hợp tương tự.
Mặc dù đã
xuất hiện nhiều trong các đề thi, nhưng dạng bài này về cơ bản còn mới và khó
với các em học sinh. Bởi lẽ: Chương trình SGK chưa chú trọng đến việc rèn kĩ
năng làm văn nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học cho học
sinh. Khảo sát hai bộ SGK Chuẩn và Nâng cao chúng tôi thấy: Ở chương trình
Chuẩn chỉ đề cập đến hai kiểu bài
là: Nghị luận về một tư tưởng đạo lí
và Nghị luận về một hiện tượng đời sống,
mà không nhắc đến kiểu bài Nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác
phẩm văn học. Còn ở chương trình Nâng cao chỉ có một tiết: Luyện tập nghị luận về vấn đề xã hội trong
tác phẩm văn học. Đó là lí do, kiểu bài Nghị
luận về vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học thực tế còn nhiều xa lạ với cả
giáo viên và học sinh. Đối với việc dạy của giáo viên, vấn đề đặt ra là không
biết căn cứ vào đâu để hình thành một phương pháp rèn kĩ năng làm kiểu bài này
thật hiệu quả, khoa học cho học sinh và làm sao để tránh được khuynh hướng xã
hội hóa dung tục khi phân tích một tác phẩm văn học. Còn đối với học sinh, hiện
nay còn nhiều em chưa phân biệt được đây là đề nghị luận văn học hay nghị luận
xã hội; nhiều em không biết cách triển khai vấn đề khi làm bài, chủ yếu thực
hiện đề bài một cách bản năng, không đáp ứng được yêu cầu chặt chẽ, thuyết
phục, lo-gic của một bài văn nghị luận.
Vì lẽ đó, chúng tôi cho rằng rất cần thiết tìm hiểu kiểu bài Nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác
phẩm văn học một cách có hệ thống để tháo gỡ những lúng túng của giáo viên
và học sinh khi cần xử lí một đề văn thuộc kiểu này.
II. RÈN KĨ NĂNG LÀM BÀI NGHỊ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ XÃ HỘI ĐẶT RA TRONG TÁC PHẨM VĂN
HỌC
1. Rèn kĩ năng tìm hiểu đề
Tìm hiểu đề
là bước đầu tiên nhưng đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình làm
văn; chính thao tác đầu tiên này sẽ quyết định bài viết của học sinh có được
triển khai hợp lí, hiệu quả hay không. Do đặc điểm của kiểu bài Nghị
luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học thường hướng tới kiểm tra năng lực phát
hiện vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học, phân tích và luận bàn về vấn đề đó;
nên trong khâu tìm hiểu đề học sinh cần thiết trả lời được các câu hỏi: Đề bài yêu cầu nghị luận về vấn đề gì ? Đâu
là nội dung nghị luận quan trọng nhất ? Vấn đề nghị luận thuộc phạm vi nào ? Có bao nhiêu ý cần triển khai ?
Mối quan hệ giữa các ý như thế nào ?
Cần sử dụng những thao tác lập luận nào để thực hiện yêu cầu của đề bài … Để học sinh thực hiện tốt bước tìm hiểu đề, giáo
viên cần chú ý rèn luyện cho các em kinh nghiệm đọc đề, phân tích và xác định
yêu cầu của đề theo trình tự hợp lí.
Việc Đọc là cơ sở để Hiểu yêu cầu của đề bài nhưng thực tế các em học sinh thường rất
qua loa khi đọc đề, dẫn đến tình trạng xác định sai vấn đề nghị luận hoặc không
xác định được yêu cầu cơ bản. Giáo viên cần lưu ý học sinh đọc kĩ đề, chú ý từ
hình thức đến nội dung của đề (thể hiện qua câu chữ, cách diễn đạt, những yêu
cầu cụ thể…). Trong đó, cần hướng dẫn học sinh tìm hiểu những từ ngữ quan trọng
trong đề bài, những cách diễn đạt nhằm nhấn mạnh ý, những cách nói bóng bẩy,
nhiều nghĩa... Với một đề bài có nhiều thông tin được diễn đạt bằng nhiều câu,
nhiều vế; học sinh cần biết chia tách đối tượng để tìm hiểu từng nội dung cụ
thể, nhìn nhận mối tương quan giữa các nội dung và khái quát để thấy được yêu
cầu chung của đề.
Xét các đề
bài ví dụ dưới đây:
Đề 1. Phải chăng hiện tượng người
trong bao không chỉ có trong truyện ngắn của Sê-khốp mà đã trở thành một
hiện tượng khá phổ biến trong xã hội ngày nay ?
Đề 2. Từ tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của
nhà văn Nguyễn Minh Châu, anh (chị) có cảm nghĩ và suy tư gì về mối quan hệ
giữa cuộc sống nghèo khó và tình trạng bạo lực gia đình trong xã hội hôm nay ?
Tiếp xúc với các
đề bài trên, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh đọc kĩ từng câu chữ, cách diễn
đạt trong đề rồi rút ra nhận xét về hình thức và nội dung của từng đề. Cụ thể:
Ở đề 1, cấu
trúc “Phải chăng…” là một câu hỏi tu
từ, mục tiêu nhấn mạnh và khơi gợi suy ngẫm của học sinh về sự xuất hiện ngày
càng nhiều hiện tượng người trong bao trong xã hội. Do đó,
dù đề không trực tiếp đưa ra yêu cầu nghị luận thì học sinh vẫn cần xác định để
làm bài cần phân tích, bình luận, thể hiện những đánh giá, kiến giải của bản
thân về hiện tượng xã hội trên. Để luận bàn, học sinh lấy
tác phẩm Người trong bao của Sê-khốp làm cơ sở để lí giải thế nào là người
trong bao; từ đó soi chiếu vào hiện thực cuộc sống để đưa ra những đánh
giá, luận bàn về lối sống trong bao.
Ở đề 2, cần chú
ý đến cấu trúc “Từ… anh (chị) có cảm nghị
và suy tư gì về …” để thấy đề bài đã cụ thể hóa yêu cầu: Từ tác phẩm Chiếc
thuyền ngoài xa để luận bàn về những vấn đề xã hội cụ thể. Học sinh
cũng quan tâm đến những từ ngữ quan trọng, thể hiện yêu cầu nghị luận, trong đó
cần đặc biệt chú ý đến cụm từ “mối quan
hệ giữa cuộc sống nghèo khó và tình trạng bạo lực gia đình trong xã hội”.
Vì đề bài không chỉ yêu cầu nhìn nhận, đánh giá về hai nội dung xã hội là “cuộc
sống nghèo khó” và “tình trạng bạo lực gia đình” trong xã hội hiện nay; mà đòi
hỏi học sinh nêu quan điểm về mối quan hệ tác động qua lại giữa hai hiện tượng
xã hội đó.
Tùy thuộc vào
đặc điểm và cấu tạo của đề bài mà học sinh sẽ xác định được mức độ nghị luận và
phạm vi tư liệu sử dụng trong bài viết.
2. Rèn kĩ năng lập dàn ý
Muốn có một
bài nghị luận chặt chẽ, thuyết phục, lo-gic, nổi bật được yêu cầu nghị luận thì
kĩ năng lập dàn ý đóng một vai trò quan trọng. Lập dàn ý là lựa chọn các ý đã
tìm được ở bước phân tích đề và sắp xếp chúng theo một trật tự hợp lí, dự kiến
được mức độ trình bày mỗi ý sao cho phù hợp, hiệu quả. Dàn ý sẽ giúp người viết
có thể bao quát được những nội dung của bài, cân đối các nội dung trình bày,
tránh bỏ ý hoặc nêu vấn đề một cách vòng vo, lộn xộn; chủ động về thời gian làm
bài. Dàn ý cũng giúp cho người đọc/ người chấm dễ dàng theo dõi tiến trình nghị
luận và đánh giá được năng lực làm văn của người viết; giúp bài văn dễ gây
thiện cảm với đối tượng tiếp nhận.
Để đáp ứng
được bố cục của một bài văn nghị luận và trình bày về vấn đề xã hội đặt ra
trong tác phẩm văn học một cách khoa học; chúng ta có thể sơ đồ hóa cấu trúc
thực hiện một bài văn Nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong
tác phẩm văn học như sau:

Cũng giống
như kết cấu chung của một bài văn nghị luận, ở kiểu bài Nghị luận về vấn đề xã hội
đặt ra trong tác phẩm văn học chúng ta cũng phải tuân thủ việc thực hiện bài văn theo kết cấu 3
phần: Mở bài, Thân bài và Kết bài. Trong đó, mỗi phần có một nhiệm vụ riêng.
Cụ thể:
a. Mở bài
- Dẫn dắt, giới thiệu tác phẩm, tác giả có
liên quan.
- Giới thiệu vấn đề cần bàn luận trong tác phẩm.
b. Thân bài
b.1. Làm rõ vấn đề xã hội được đề
cập trong tác phẩm văn học
-
Nếu đề bài đã chỉ rõ yêu cầu nghị luận
về một vấn đề xã hội cụ thể đặt ra trong tác phẩm văn học thì cần sơ lược
giới thiệu, phân tích về biểu hiện của vấn đề xã hội đó trong tác phẩm văn học.
Có thể dựa vào những câu hỏi dưới đây để tư duy, sắp xếp ý :
+ Vấn đề xã hội được nhắc đến trong tác phẩm như thế nào ?
+ Tác giả đã nhìn nhận, đánh giá về vấn đề xã hội đó ra sao ?
+ Cắt nghĩa, lý giải : cơ sở nào hình
thành vấn đề xã hội đó trong tác phẩm (do bối cảnh lịch sử, do thực tế đời
sống, do quan niệm của con người... ?)
- Nếu đề
bài yêu cầu nghị luận về một vấn đề xã hội được đặt ra trong một tác phẩm chưa
được học hoặc chưa nêu cụ thể đó là vấn đề xã hội nào; thì cần thực hiện
thao tác đọc hiểu văn bản tác phẩm văn học mà đề cho, để rút ra vấn đề xã hội
cần nghị luận. Đây là một thao tác không đơn giản vì một tác phẩm văn học
thường mở ra nhiều hướng tiếp nhận, có thể mỗi học sinh lại phát hiện, nhìn
nhận, đánh giá về tác phẩm một cách khác nhau. Làm sao để việc rút ra vấn đề xã
hội từ tác phẩm đó không rơi vào tình trạng phỏng đoán thiếu căn cứ hoặc sa vào
khuynh hướng xã hội hóa, dung tục ; giáo viên cần hướng dẫn cụ thể cho học
sinh cách thức thực hiện khâu đọc hiểu và rút ra vấn đề xã hội trong tác phẩm. Có
thể dựa vào những câu hỏi dưới đây để tư duy, sắp xếp ý :
+ Tác phẩm (câu chuyện mi-ni/ bài thơ ngắn/
đoạn trích...) nói về nội dung gì ?
Để trả lời câu hỏi này, học sinh có thể dựa vào nhan đề của tác phẩm, các
yếu tố nghệ thuật có tác dụng làm nổi bật nội dung như từ ngữ, hình ảnh, các
biện pháp tu từ, các hình thức liên kết câu – liên kết đoạn văn ...
+ Tác phẩm/ đoạn trích đề cập đến những vấn
đề xã hội nào ? Đâu là vấn đề xã hội cơ bản, liên quan đến yêu cầu của đề
bài ? Vấn đề xã hội đó là một tư tưởng, đạo lí hay một hiện tượng đời
sống ?
+ Tác giả có ngầm thể hiện cách nhìn nhận,
đánh giá của mình về vấn đề xã hội được nhắc đến trong tác phẩm/đoạn trích đó
hay không ?
b.2. Nghị luận về vấn đề
xã hội được đặt ra trong tác phẩm văn học (Làm rõ vấn đề trong thực tế xã hội)
Đây là phần trọng tâm
của bài viết. Trên cơ sở xác định được nội dung xã hội đặt ra trong tác phẩm
văn học là gì, thuộc phạm trù tư tưởng, đạo lí hay hiện tượng đời sống mà người
viết sẽ tiến hành bàn luận về vấn đề đó theo trình tự nghị luận phù hợp với
từng dạng bài Nghị luận về một tư tưởng,
đạo lí hoặc Nghị luận về một hiện
tượng đời sống.
-
Nếu vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học là một tư tưởng, đạo lí; học sinh có thể bàn luận về vấn đề đó theo trình tự:
+ Giải thích (nếu cần). Với những vấn đề
xã hội được diễn đạt bằng những từ ngữ, hình ảnh ít nhiều mang nghĩa ẩn dụ,
biểu tượng hoặc có nhiều cách hiểu thì người viết cần giải thích nội dung của
những từ ngữ đó trước khi tiến hành bàn luận vấn đề.
+ Bàn luận vấn đề: Soi chiếu vấn đề tư tưởng, đạo lí đó trên
các phương diện khác nhau để nhìn nhận cả mặt đúng đắn (chính đề) hoặc chỗ chưa
đầy đủ, thuyết phục của nó (phản đề).
-
Nếu vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học là hiện tượng đời sống, học sinh có thể bàn luận về vấn đề đó theo trình tự:
+ Giải thích (nếu cần)
+ Bàn luận: Làm rõ về hiện tượng thông qua
biểu hiện của hiện tượng, ý nghĩa của hiện tượng (tích cực hay tiêu cực), cắt
nghĩa nguyên nhân của hiện tượng và rút ra những bài học có ý nghĩa giải pháp
để khắc phục hiện tượng tiêu cực hoặc nhân rộng hiện tượng tích cực ...
b.3.
Đánh giá, nhìn nhận nét ổn định hoặc chuyển biến
của vấn đề xã hội từ tác phẩm văn học đến cuộc sống.
Để bài viết được sâu sắc, toàn diện; sau
khi bàn luận về vấn đề xã hội thì người viết nên có cái nhìn đối sánh về nội
dung xã hội được đề cập trong tác phẩm văn học và hiện thực cuộc sống hiện nay.
Chỉ ra nét ổn định và biến đổi của vấn đề; lý giải nguyên nhân của nét ổn định
và biến đổi đó (do hoàn cảnh, điều kiện xã hội, cái nhìn riêng của tác giả ...)
c. Kết bài:
Khái
quát lại vấn đề cần bàn luận.
Rút ra bài học nhận thức và hành động.
3. Rèn kĩ năng diễn đạt, trình bày
bài văn
Diễn đạt,
trình bày, hoàn thiện bài văn là bước thực thi kế hoạch làm bài đã được vạch ra
từ dàn ý; cũng là chỗ thể hiện rõ nhất năng lực ngôn ngữ của học sinh, quyết
định chất lượng của bài viết. Với bất kì dạng đề văn nào, giáo viên cũng cần
chú ý đến khâu rèn kĩ năng diễn đạt, trình bày cho học sinh. Từ việc rèn kĩ
năng thực hiện bài văn theo bố cục ba phần: Mở,
Thân, Kết với yêu cầu về nội dung, hình thức của từng phần; đến việc rèn
những thao tác, kĩ năng cụ thể như viết câu, dựng đoạn, liên kết – chuyển ý
giữa các câu, các đoạn; cách mở rộng, nâng cao vấn đề…
Trong phạm vi của chuyên đề này, chúng tôi
không có điều kiện cụ thể hóa phương pháp rèn luyện từng kĩ năng để diễn đạt và
hoàn thiện một bài văn; mà chỉ nêu lên một số kinh nghiệm rèn diễn đạt có ý
nghĩa thiết thực trong việc thực hiện kiểu bài Nghị luận về vấn đề xã
hội được đặt ra trong tác phẩm văn học.
Với dạng bài nghị luận về vấn đề xã
hội được đặt ra trong tác phẩm văn học,
cái khó không chỉ nằm ở chỗ cần xác định được
vấn đề xã hội và lập ý sao cho chặt chẽ, khoa học; mà còn ở khâu diễn đạt. Để
có một bài nghị luận thuyết phục, học sinh cần biết cách sử dụng câu chữ, hành
văn để kết nối các nội dung về văn học và đời sống một cách uyển chuyển, nhuần
nhuyễn. Cần tránh tình trạng chia bài viết thành hai phần độc lập (phần thứ
nhất là nghị luận văn học, phần thứ hai là nghị luận xã hội); hoặc lan man, sa
đà phân tích tác phẩm văn học, hời hợt khi bàn luận về vấn đề xã hội. Với học
sinh giỏi, càng cần có khả năng nhấn - lướt phù hợp, chọn lọc ý khi trình bày;
biết cách để thể hiện quan điểm, chủ kiến của mình về vấn đề bàn luận một cách
tinh tường, sắc sảo. Do đó, khi thực hiện rèn kĩ năng làm văn cho học sinh; chúng
tôi đặc biệt quan tâm đến kĩ năng diễn đạt mở bài, thân bài, kết bài và kĩ năng
chuyển ý, chuyển đoạn.
3.1. Rèn kĩ năng viết mở bài
Giống như các
dạng đề nghị luận khác, phần mở bài của bài văn nghị luận về vấn đề xã hội được đặt ra trong tác phẩm văn
học
có thể thực hiện trực tiếp hoặc gián tiếp; và dù làm theo cách nào cũng cần đảm bảo hai yêu cầu:
vừa dẫn dắt, khơi gợi ấn tượng cho người đọc; vừa giới thiệu khái quát về vấn
đề nghị luận sẽ được triển khai trong bài văn (nội dung nghị luận, phạm vi tư
liệu, tầm quan trọng của vấn đề…).
Tuy nhiên,
nếu những kiểu bài nghị luận khác như nghị
luận xã hội về một hiện tượng đời sống, nghị luận về một tư tưởng đạo lí, nghị
luận về vấn đề văn học… rất dễ để giới thiệu vấn đề nghị luận (thông thường
học sinh chỉ cần trích xuất thông tin trong đề là đã hoàn thành khâu giới thiệu
khái quát vấn đề nghị luận) thì ở kiểu bài nghị luận về vấn đề xã hội được đặt ra trong tác phẩm
văn học việc giới thiệu vấn đề nghị luận gặp
nhiều khó khăn hơn. Vì: Học sinh vừa cần dẫn dắt, giới thiệu về tác phẩm văn
học có liên quan; vừa phải nêu được vấn đề có ý nghĩa xã hội rút ra từ tác phẩm
đó làm cơ sở để bàn luận. Làm sao để việc dẫn dắt và nêu hai loại thông tin cần
thiết này không khiến cho phần mở bài dài dòng, cứng nhắc là một thử thách với
học sinh.
Trong quá trình rèn kĩ năng mở bài cho một
bài văn nghị luận về vấn đề xã hội được
đặt ra trong tác phẩm văn học, chúng tôi thường hướng dẫn học sinh thực
hiện một trong hai cách:
- Cách 1. Giới thiệu vấn đề cần bàn luận
rồi khẳng định vấn đề đó không chỉ là câu chuyện/ tình tiết được đề cập trong
một tác phẩm văn học cụ thể mà còn là một vấn đề có ý nghĩa với xã hội hiện
nay.
- Cách 2. Giới thiệu về tác phẩm văn học
có liên quan, khẳng định một phương diện quan trọng làm nên giá trị nội dung
của tác phẩm chính là vấn đề có ý nghĩa xã hội được tác giả đề cập. Sau đó nêu
rõ vấn đề xã hội đó là gì.
Ví
dụ xét đề bài dưới đây:
Trong vở kịch Hồn
Trương Ba, da hàng thịt (Lưu
Quang Vũ), nhân vật Trương Ba đã nói: Không thể bên trong một đằng, bên
ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn. Câu nói
của Trương Ba, gợi cho anh (chị) suy nghĩ gì về tình trạng con người không được
sống là mình ?
Mở bài
theo cách 1
Trong cuộc sống, nhiều khi vì hoàn cảnh mà con người
không được sống là chính mình. Hiện tượng con người phải sống “bên trong một
đằng, bên ngoài một nẻo” không chỉ là bi kịch của nhân vật Trương Ba trong vở
kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ, mà còn là một thực
trạng đau lòng trong xã hội hiện nay.
(Trích: Bài
làm của học sinh)
Mở bài
theo cách 2
Nhờ có Hồn
Trương Ba, da hàng thịt mà Lưu Quang Vũ đã trở thành cây bút xuất sắc nhất
của sân khấu kịch Việt Nam (không chỉ trong những năm 80 của thế kỉ trước). Tuy
nhà văn đã đi về thế giới của Hồn Trương Ba, ẩn mình trong từng vòm cây, khóm
lá… nhưng tấm lòng và những suy tư, trăn trở về cuộc đời của ông trong vở kịch ấy
vẫn còn mãi trong lòng bạn đọc. Một trong số những phương diện làm nên thành
công của vở kịch chính là nội dung xã hội sâu sắc của nó; nhất là khát vọng về
một cuộc sống thực sự đã được nhà văn gửi gắm qua lời của nhân vật Trương Ba: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi
toàn vẹn”. Phải chăng chuyện con người không được sống là chính mình
không chỉ là hoàn cảnh riêng của Trương Ba, mà đã thành bi kịch đau đớn của bao
người trong xã hội hiện đại ?
(Trích: Bài
làm của học sinh)
Ngoài yêu cầu về một mở bài đúng, đáp ứng
được yêu cầu về nội dung; giáo viên còn cần khuyến khích học sinh sáng tạo khi
thực hiện mở bài với những cách diễn đạt giàu hình ảnh, nhịp điệu, cảm xúc...
Tất nhiên, đây là chuyện lâu dài, cần có cả một quá trình rèn luyện, bồi dưỡng
và có khi còn phụ thuộc cả vào năng khiếu của từng học sinh. Vì vậy trong
chuyên đề này, chúng tôi chỉ dừng lại ở kinh nghiệm rèn kĩ năng viết mở bài nhằm
giúp học sinh thực hiện một cách có hiệu quả nhất.
3.2. Rèn kĩ năng viết thân bài
Thân bài là
phần trọng tâm của bài văn. Nhiệm vụ của phần thân bài là triển khai đầy đủ và
chi tiết hệ thống luận điểm, luận cứ, luận chứng để làm sáng tỏ luận đề. Khi
thực hiện thân bài, học sinh cần biết cách chia tách thành nhiều đoạn văn và
sắp xếp chúng theo trình tự hợp lí. Trong đó, mỗi đoạn văn là sự triển khai
hoàn chỉnh một nội dung đã được xác định từ khi lập dàn ý. Bám sát dàn ý để
viết thân bài là kĩ năng học sinh đã được rèn luyện khá nhiều, do đó chúng tôi
chỉ tập trung trình bày về cách cách liên kết (chuyển ý, chuyển đoạn) trong khi
học sinh thực hiện viết phần thân bài và việc tổ chức điểm nhìn phù hợp trong
quá trình viết bài.
a. Cách chuyển ý, chuyển đoạn:
Bài văn là
một thể thống nhất, hoàn chỉnh được tạo nên bởi các phần, các đoạn, các câu. Do
đó giữa các phần, các đoạn, các câu cần có sự kết dính với nhau vì nếu không có
sự kết dính ấy bài văn sẽ trở nên rời rạc, thiếu thống nhất. Sự kết dính ấy
được gọi là liên kết. Trong đó liên kết các câu văn/ đoạn văn là một thao tác
quan trọng. Trong khi rèn kĩ năng làm văn nghị luận nói chung và dạng bài nghị luận về vấn đề văn học đặt ra trong tác
phẩm văn học, chúng tôi thường dành khá nhiều thời gian để hướng dẫn học
sinh cách thức liên kết câu văn/ đoạn văn.
Để rèn khả
năng liên kết các câu trong đoạn văn của bài văn nghị luận về vấn đề văn học đặt ra trong tác phẩm văn học, trên cơ
sở bồi dưỡng kiến thức về các phép liên kết câu (phép thế, phép nối, phép lặp,
phép liên tưởng…) chúng tôi thường ra các đề bài luyện tập để học sinh thực hành,
nhất là yêu cầu chữa lỗi về liên kết câu.
Bên cạnh đó,
liên kết các đoạn trong bài nghị luận về
vấn đề văn học đặt ra trong tác phẩm văn học cũng là kĩ năng đòi hỏi học
sinh rèn luyện nhiều. Trong bài văn, vị trí quan trọng cần liên kết thường tập
trung ở vị trí: giữa 3 phần bố cục của bài là Mở - Thân - Kết và giữa
các đoạn (các luận điểm) trong phần thân bài.
Chúng tôi
thường hướng dẫn học sinh các cách liên kết đoạn văn như:
- Dùng từ ngữ để liên kết:
Tùy theo mối
quan hệ giữa các đoạn, các phần mà học sinh có thể dùng các từ nối thích hợp.
+ Nếu muốn
nối các đoạn có quan hệ thứ tự để làm rõ tính hệ thống của việc sắp xếp ý trong
bài, ta có các từ ngữ liên kết như: trước
tiên, trước hết, thoạt nhiên, tiếp theo, sau đó, cuối cùng, một là, hai là, bắt
đầu là…
+ Nếu cần nối
các đoạn văn được triển khai theo quan hệ song song (có điểm tương đồng về vai
trò trong bài văn) ta có thể dùng các từ liên kết như: một mặt, mặt khác, ngoài ra, bên cạnh đó, cũng vậy,…
+ Nếu cần nối
các đoạn văn có quan hệ tăng tiến (đoạn sau nhấn mạnh, phát triển nội dung của
đoạn trước) ta có thể sử dụng các từ liên kết như: hơn nữa, thậm chí, không chỉ/ mà còn…
+ Nếu cần nối
các đoạn văn có quan hệ tương phản (để làm rõ những luận điểm có nội dung khác
nhau, nhất là việc chuyển ý từ chính đề sang phản đề trong bài nghị luận xã
hội) ta có thể sử dụng những từ nối kết như: nhưng, tuy nhiên, tuy vậy, thế nhưng, trái lại, ngược lại, …
+ Nếu cần nối
các đoạn văn có quan hệ nhân quả, ta có thể sử dụng các từ liên kết như: bởi vậy, do đó, vì thế cho nên…
+ Nếu cần
chuyển ý sang một đoạn văn có ý nghĩa tổng kết ý nghĩa của các đoạn trước đó;
ta có thể dùng các từ liên kết như: tóm
lạị, chung quy, tổng kết lại, tựu trung lại, có thể khẳng định…
- Dùng câu để liên kết:
Trong một số
trường hợp, học sinh có thể sử dụng các câu văn có chức năng liên kết hai đoạn
văn với nhau. Các câu văn nối thường đứng ở đầu đoạn văn hoặc cuối đoạn văn
nhằm mục đích liên kết đoạn có chứa nó với đoạn khác. Nội dung thông tin chứa
trong câu nối này hoặc đã được đề cập đến ở đoạn trước hoặc sẽ được trình bày
kĩ ở đoạn văn sau. Giáo viên có thể hướng dẫn cho học sinh viết các dạng câu
nối khác nhau, đựa ra những ví dụ cụ thể để học sinh dễ hình dung về việc sử
dụng câu nối. Dưới đây là một vài ví dụ về câu nối các đoạn trong bài văn nghị
luận (những câu gạch chân đóng vai trò phần nối kết với đoạn văn trước hoặc sau
đó):
+ … Như trên đã nói, tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân thực sự là
một bài ca của lòng nhân ái. Điều đó sẽ khơi lên bao suy tư trong lòng bạn
đọc về cuộc đời. Phải chăng: Chỉ có tình người mới cứu vớt được con người trong
những hoàn cảnh khó khăn và cũng chỉ có tình người mới đủ khả năng để che chở,
bảo vệ cho những hạt ngọc thiện tính lấp lánh trong tâm hồn mỗi con người ?...
(Trích bài viết của HS - Đề bài: Từ
tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân hãy trình bày suy nghĩ của mình về vẻ đẹp
của tình người trong cuộc sống)
+ Nếu tình bạn trong bài thơ Khóc Dương Khuê (Nguyễn Khuyến) được
khẳng định qua hành trình dài gắn bó, song hành của hai người bạn; thì tình bạn
trong cuộc sống hôm nay có biết bao biểu hiện phong phú. Ta có thể nhận ra
vẻ đẹp của tình bạn trong một cái nắm tay động viên, một ánh mắt tin tưởng, một
khoảnh khắc bên nhau để cùng chia sẻ niềm vui hay những nỗi buồn…
(Trích bài viết của HS - Đề bài: Từ
bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến nghĩ về tình bạn trong cuộc
sống hôm nay)
Nhìn chung có
nhiều cách chuyển ý/ chuyển đoạn khác nhau; sự đa dạng này tạo cơ hội chọn lọc
cách diễn đạt phù hợp với văn phong của từng người.
b. Tổ chức điểm nhìn cho bài văn:
Điểm nhìn
trong bài văn nghị luận tất nhiên không thể phong phú đa dạng như điểm nhìn
trong tác phẩm văn chương. Việc lựa chọn điểm nhìn có liên quan tới việc thể
hiện thái độ, bày tỏ cảm xúc làm nên sức hấp dẫn cho bài văn. Trong văn nghị
luận, thường thì người viết luôn kết hợp điểm nhìn bên ngoài (để tạo tính chất
khách quan, khoa học) với điểm nhìn bên trong (để thể hiện sự đồng cảm và sự
tâm huyết, say mê) đối với vấn đề cần bàn luận. Điểm nhìn bên ngoài thường được
lựa chọn khi lí giải, phát biểu cảm xúc, suy nghĩ về vấn đề. Khi thể hiện điểm
nhìn bên ngoài, người viết là người đi tìm hiểu, khi thể hiện điểm nhìn bên
trong, người viết là người cảm nhận như một người trong cuộc.
Chẳng hạn,
trong bài viết về đề bài: Từ một số câu
hát ru hãy trình bày cảm nhận của mình về tình mẫu tử, người viết có thể
lựa chọn điểm nhìn bên trong hoặc bên ngoài để trình bày vấn đề:
- Điểm nhìn
bên trong: Viết bằng cảm xúc, ấn tượng của bản thân – người đang chiêm nghiệm
về lời ru và tình mẫu tử thiêng liêng.
Ở tuổi 17, có lẽ điều ý nghĩa nhất mà tôi chiêm nghiệm
được là: Chỉ có những mái nhà tồi tàn chứ không có những gia đình rách rưới.
Bởi lẽ, mái nhà có thể chỉ là những
vách lá liêu xiêu, những đồ dùng sứt mẻ; còn hai chữ gia đình thì bao giờ cũng được vun đắp bằng tình yêu, kiên cố bằng tình thương
của từng thành viên một. Với tôi, gia đình trở thành mái ấm vì có ngọn lửa hồng
trong trái tim của mẹ và những tiếng hát mẹ ru tự thuở nào đã ken đầy trong kí
ức của tôi.
(Trích: Bài
làm của học sinh)
- Điểm nhìn
bên ngoài: Người viết đóng vai một người đang tìm hiểu để phân tích, đánh giá
về vấn đề cần nghị luận một cách khách quan.
Lời ru mang tình cảm mẹ dành cho con. Đó là
tình yêu thương, niềm hy vọng, sự tự hào của mẹ gửi gắm qua giai điệu êm đềm.
Tuy nhiên, không đơn thuần chỉ là tình yêu mà ẩn sâu trong tình yêu ấy là những
bài học về cuộc đời. Lời hát ru cũng là lời mẹ răn dặy con về cách sống, cách
yêu thương. Đó là lí do khiến những câu hát ru có sức lay động lâu dài trong
tâm trí mỗi con người.
(Trích: Bài
làm của học sinh)
Một bài văn
nghị luận, nếu chỉ toàn cảm xúc, suy nghĩ cá nhân sẽ trở nên cảm tính, thiếu
sức thuyết phục; ngược lại nếu chỉ thiên về phân tích, đánh giá thì bài làm dễ
khô khan, thiếu chất văn. Sự kết hợp chủ quan và khách quan, cảm xúc và tư duy
luôn là điều cần thiết trong bài văn nghị luận. Khi tổ chức được một cách hợp
lí điểm nhìn, lời văn sẽ có được “giọng điệu riêng”, gây được ấn tượng tốt với
người đọc.
Tóm lại:
Phần thân bài
là phần phải cần đầu tư, dành nhiều thời gian thực hiện nhất trong ba phần. Vì
vậy, ngoài những kĩ năng như viết câu, dựng đoạn, liên kết, sử dụng hành văn
hợp lí; giáo viên còn cần lưu ý học sinh chú ý phân phối thời gian hợp lí khi làm
bài.
3.3. Rèn kĩ năng viết kết bài
Phần kết bài
có nhiệm vụ tổng kết, đánh giá vấn đề đặt ra ở mở bài và đã giải quyết ở thân
bài. Phần này góp phần tạo tính hoàn chỉnh, trọn vẹn cho bài văn. Về cơ bản kết
bài trong bài văn nghị luận về vấn đề văn
học đặt ra trong tác phẩm văn học cũng giống như cách kết bài trong các bài
nghị luận khác. Tùy mục đích nghị luận, người viết có thể sử dụng một trong các
cách kết bài sau đây:
- Kết bài bằng cách tóm lược: Là kiểu kết bài mà ở đó người viết tóm tắt quan điểm,
tổng hợp những ý chính đã nêu ở thân bài. Cách kết bài này dễ viết hơn và
thường được sử dụng nhiều hơn.
- Kết bài bằng cách bình luận mở rộng và nâng cao: Là kiểu kết bài trên cơ sở quan
điểm chính của bài viết, bằng liên tưởng, vận dụng, người viết phát triển, mở
rộng nâng cao vấn đề.
III. PHẦN VẬN DỤNG
Từ những vấn
đề lý luận cùng kinh nghiệm thực tiễn khi rèn cho học sinh kĩ năng làm bài văn Nghị luận về vấn đề xã hội
được đặt ra trong tác phẩm văn học, trong phần tiếp theo của chuyên đề chúng tôi giới thiệu một
số đề và định hướng làm bài cụ thể. Trong phạm vi một chuyên đề nhỏ, chúng tôi chỉ có điều kiện
trình bày số lượng đề nhất định.
1. Giới thiệu một số đề bài và hướng
dẫn làm bài
1.1.
Đề 1
Xót
người tựa cửa hôm mai
Quạt
nồng ấp lạnh những ai đó giờ
(Truyện Kiều, Nguyễn Du)
Chuyện Quạt
nồng, ấp lạnh của Thuý Kiều gợi cho anh (chị) suy nghĩ gì về cách cư xử của
con cái với cha mẹ trong xã hội ngày nay.
Hướng
dẫn làm bài
* Xác định yêu cầu của đề
- Yêu cầu về nội dung: Đối tượng nghị luận là một vấn đề đạo lí đặt
ra trong tác phẩm văn học: Cách ứng xử của con cái với cha mẹ.
- Yêu cầu về thao tác lập luận: Sử dụng
các thao tác: giải thích, bình luận, phân tích, chứng minh, kết hợp với phương
thức biểu cảm...
* Gợi ý lập dàn bài.
a. Mở bài
-
Giới thiệu, trích dẫn hai câu thơ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.
-
Giới thiệu vấn đề cần bàn luận: cách cư xử của con cái đối với cha mẹ trong xã
hội hiện nay.
b. Thân bài
b.1. Tấm lòng hiếu nghĩa của Thuý Kiều với cha mẹ
trong Truyện Kiều (Nguyễn Du)
* Giải thích: Quạt nồng, ấp lạnh (Tức: Hạ Sảnh, Đông Ôn). Sách Hiếu
kinh nói: “Hiếu tử đông ôn, hạ sảnh” nghĩa là người
con hiếu thờ cha mẹ, mùa lạnh ấp chăn cho nóng để cha mẹ vào nằm khỏi giá rét,
mùa hạ quạt màn cho mát để cha mẹ vào nghỉ khỏi nóng bức. Nghĩa bóng: nói sự
thờ phụng, báo hiếu cha mẹ.
* Khái quát nội dung hai câu thơ: nói về tâm trạng
nhớ thương cha mẹ của Thuý Kiều. Việc bán mình chuộc cha của Thuý Kiều cũng đã
nói lên đầy đủ tấm lòng hiếu thảo của Kiều: Nàng quyết hi sinh chữ tình để làm
tròn chữ hiếu. Trong suốt thời gian lưu lạc, “Hết nạn nọ đến nạn kia, thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”, bản
thân luôn sống trong đau khổ, buồn rầu nhưng Thuý Kiều vẫn luôn nhớ thương cha
mẹ. Kiều tưởng tượng đến cảnh cha mẹ già đau buồn tựa cửa mong ngóng mình. Nàng
lo lắng liệu có ai thay mình phụng dưỡng mẹ cha?
=> Thuý Kiều là một người con hiếu thảo, đúng như lời nhận xét của
Nguyễn Du: Người sao hiếu nghĩa đủ đường.
b.2. Bàn luận về cách cư xử của con cái đối với cha mẹ
trong xã hội hiện nay.
* Hành động hiếu nghĩa của Thuý Kiều có còn phù hợp với xã hội ngày nay ?
Cần
khẳng định rằng đạo hiếu không thay đổi nhưng cách bày tỏ tấm lòng hiếu nghĩa
thì có thể không còn như xưa nữa (HS có thể nêu những biểu hiện cụ thể…).
* Thực trạng về cách cư
xử của con cái với cha mẹ:
-
Có nhiều tấm gương tốt về tấm lòng hiếu nghĩa của con cái
với cha mẹ (lấy dẫn chứng trong
văn chương và trong đời sống. Chẳng hạn câu chuyện về đứa con của hai bà mẹ ung
thư - Nguyễn Hữu Ân...).
-
Tuy nhiên, có một bộ phận không nhỏ những người con chưa giữ trọn đạo làm con,
chưa làm tròn chữ hiếu trong cách cư xử với cha mẹ:
+ Chỉ biết hưởng thụ: quen được bố mẹ quan
tâm chăm sóc, chiều chuộng từ những điều nhỏ nhất, trái lại họ lại rất “vô tâm” với cha mẹ, nhất là về đời sống
tinh thần.
+ Có những hành động, lời nói, cử chỉ “vô
lễ”, xúc phạm, thậm chí bạc đãi với cha mẹ, làm cha mẹ phải đau lòng (nêu dẫn
chứng).
* Nguyên nhân:
-
Khách quan: do cuộc sống, xã hội thay đổi (đời sống vật chất và tinh thần đã
khá hơn rất nhiều so với trước kia); Cha mẹ quá nuông chiều, chưa chú tâm dạy
con…
- Chủ quan: do nhận
thức của một số người chưa đầy đủ về vị trí, vai trò, trách nhiệm của người con
đối với cha mẹ, chỉ biết “nhận” mà
không biết “cho”…
* Giải pháp khắc phục:
- Về phía gia đình: Cần có quan điểm giáo duc đúng
đắn đối với con cái.
- Nhà trường: không chỉ
dạy chữ mà còn phải chú trọng dạy người.
- Xã hội: cần có biện
pháp giáo dục và can thiệp khi cần thiết.
- Bản thân mỗi con
người: cần có ý thức tu dưỡng bản thân (Đạo hiếu là đạo lớn nhất của đạo làm
người).
c. Kết bài
- Khẳng định cách cư xử của con cái đối với cha mẹ cũng là một vấn đề thuộc
văn hoá ứng xử. Nó thể hiện đạo đức, nhân cách của con người.
- Mỗi người cần có
cách cư xử đúng mực, giữ trọn đạo làm người, đạo làm con.
---------------------------------------------------------------
1.2.
Đề 2
Bài thơ Tại
lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng của Lí Bạch gợi cho anh
(chị) suy nghĩ gì về vai trò của tình bạn trong cuộc sống?
Hướng
dẫn làm bài
* Xác định yêu cầu của đề
-Yêu cầu về nội dung: đối tượng nghị luận là một vấn đề đạo lý được đặt
ra trong tác phẩm văn học: vấn đề tình bạn trong cuộc sống của con người.
-
Yêu cầu về thao tác lập luận: sử dụng thao
tác giải thích, bình luận kết hợp với phân tích, chứng minh và nêu những trải
nghiệm của bản thân.
* Gợi ý lập dàn bài
a. Mở bài
- Giới thiệu về nhà thơ Lí Bạch và bài thơ Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạ Nhiên
đi Quảng Lăng.
- Giới thiệu vấn đề cần
bàn luận: vai trò của tình bạn trong cuộc sống.
b. Thân bài
b.1 Tình bạn của Lí Bạch và Mạnh Hạo Nhiên trong bài thơ Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi
Quảng Lăng.
Bài thơ miêu tả cảnh đưa tiễn: Lí Bạch đưa tiễn bạn đi Quảng Lăng. Nơi
chia tay là tại bến sông. Sau đó, Lí Bạch lên lầu Hoàng Hạc để dõi theo bạn
được lâu hơn, xa hơn. Cần tập trung phân tích các từ cố nhân, cô phàm, duy kiến để thấy được tình bạn thân thiết gắn bó,
tình tri kỉ của hai nhà thơ đời Đường. Đó là một tình bạn cao đẹp, trong sáng
-> mẫu mực muôn đời.
b.2. Bài thơ của Lí Bạch
gợi cho ta suy ngẫm về vai trò của tình bạn trong cuộc sống
* Giải thích:
- Khái niệm Tình bạn: là sự gắn bó, thân thiết giữa
những người quen biết do hợp tính, hợp ý hoặc cùng cảnh ngộ, cùng chí hướng,
cùng làm một nghề.
-
Thế nào là một tình bạn đẹp? Tình bạn đẹp là tình bạn dựa trên nền tảng của sự
thấu hiểu (hiểu nhau) chia sẻ, cảm thông. Nghĩa là cùng chung vui, sẻ buồn.
Niềm vui có bạn sẽ vui gấp đôi, nỗi buồn có bạn sẽ vợi đi một nửa.
* Bình luận về vai trò
của tình bạn: tình bạn là rất quan trọng và cần thiết với mỗi con người.
- Người bạn tốt, thẳng thắn,
trung thực sẽ chỉ cho ta thấy những sai lầm, giúp ta hiểu đúng, tránh xa những
điều xấu, ác để ta “gần mực thì sáng”.
-
Người bạn thân thiết, gần gũi: bên ta mọi lúc khi vui cũng như khi buồn, sẵn
sàng giúp đỡ ta nếu có thể.
- Người
bạn tri âm tri kỉ: hiểu những điều ta nghĩ, chú ý những điều ta thích.
* Cần phải làm gì để có được một tình bạn đẹp, tình
bạn tốt, nhiều bạn tốt?
- Phải biết lắng nghe,
thấu hiểu, biết cảm thông, chia sẻ với bạn.
- Phải biết trân trọng,
nâng niu và gìn giữ tình bạn.
- Cần xây dựng nhiều
tình bạn đẹp (thêm bạn, bớt thù) bởi không ai sống mà không có bạn.
c. Kết bài
- Bài thơ viết về một tình bạn đẹp đẽ và cảm động
của hai thi nhân đời Đường.
- Bài thơ còn nguyên giá trị và giáo dục cho thế hệ học sinh
hôm nay về vai trò của tình bạn trong cuộc sống…
---------------------------------------------------------------
1.3.
Đề 3
Từ truyện ngắn Đời
thừa của Nam Cao, anh (chị) hãy trình bày quan điểm của mình về tình
trạng sống thừa của con
người trong xã hội.
Hướng
dẫn làm bài
* Xác định yêu cầu của đề
-
Yêu cầu về nội dung: đối tượng nghị luận là
một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học: hiện tượng sống
thừa của con người.
-
Yêu cầu về thao tác lập luận: sử dụng kết
hợp các thao tác giải thích, bình luận, phân tích, chứng minh, bác bỏ…
* Gợi ý lập dàn bài
a. Mở bài
- Giới thiệu tác phẩm Đời thừa của nhà văn Nam
Cao.
- Giới thiệu vấn đề
cần bàn luận: tình trạng sống thừa
của con người trong xã hội.
b. Thân bài
b.1.
Khái quát bi kịch tinh thần của nhân vật Hộ trong Đời thừa (Nam Cao).
- Bi kịch ở đây hiểu theo nghĩa những mâu thuẫn giằng xé trong nội tâm con
người, nó căng thẳng, không có cách nào giải quyết.
- Bi kịch của Hộ được xây dựng trên mâu
thuẫn: giữa một bên là khát vọng được sống có ích, có ý nghĩa, muốn xác định sự
tồn tại cá nhân bằng một sự nghiệp lao động sáng tạo có ích cho xã hội với một
bên là sự ngăn cản của xã hội. Nêu khái quát hai bi kịch tinh thần của nhân vật
Hộ trong tác phẩm (bi kịch vỡ mộng văn chương và bi kịch tình thương).
b.2. Tình trạng sống thừa của con người trong xã hội.
* Giải thích: Thế nào
là sống thừa ?
(Sống thừa: sống vô
ích, vô nghĩa, không có tác dụng, có cũng như không)
* Bình luận:
- Thực trạng: trong xã hội, có một bộ phận những
người (bình thường cả về trí tuệ vã thể chất) đang sống thừa, sống một cuộc
sống vô nghĩa, vô ích, sống không có ước mơ, lý tưởng. Đó là những kẻ dù
còn khoẻ mạnh, dư thừa sức lao động
nhưng lười biếng ngồi mát ăn bát vàng,
là những kẻ đủ sức tự lập nhưng vẫn sống dựa dẫm, ỷ lại vào người khác, là
những kẻ sa đà vào lối sống buông thả, mắc vào các tệ nạn xã hội (hút trích ma
tuý, buôn bán ma tuý, mại dâm, trộm cắp...).
- Hậu quả: Đó là những
kẻ không chỉ sống một cuộc sống vô nghĩa, vô ích mà còn làm ảnh hưởng đến những
người xung quanh, trở thành gánh nặng cho gia đình, bạn bè và xã hội; là nguyên
nhân làm gia tăng các tệ nạn xã hội, cản trở sự phát triển của đất nước.
- Nguyên nhân:
+
Chủ quan: Bản thân chưa có mục đích sống cao đẹp, sống không có lý tưởng, không
có ước mơ, bị cám dỗ bởi những dục vọng tầm thường; thiếu bản lĩnh, ý chí và
nghị lực.
+ Khách quan: Gia
đình, xã hội thiếu sự quan tâm, giáo dục sát sao, không định hướng đúng đắn cho
họ…
- Biện pháp khắc phục:
+ Bản thân: cần xác định mục đích, lí
tưởng sống đúng đắn, cao đẹp. Phải có ý chí, nghị lực vươn lên trong cuộc sống;
cần có lập trường, bản lĩnh vững vàng trước những cám dỗ tầm thường của cuộc
sống.
+ Gia đình, xã hội:
quan tâm sát sao, uốn nắn những lệch lạc trong suy nghĩ, hành động của con cái.
+ Nhà trường, xã hội: giáo dục lí tưởng
sống, tạo công ăn việc làm cho người thất nghiệp, kiên quyết bài trừ các tệ nạn
xã hội, giúp những kẻ sống thừa trở thành những người sống có ích, có ý nghĩa…
c. Kết bài
- Nhấn mạnh, khẳng
định: sự sống là quý giá nhất đối với mỗi con người.
- Song, mỗi người cần phải làm cho cuộc sống
ấy có ý nghĩa, có ích không chỉ đối với bản thân mà còn đối với gia đình, nhà
trường và xã hội.
- Liên hệ bản thân.
---------------------------------------------------------------
1.4.
Đề 4
Nhà thơ Vũ Quần Phương từng viết:
Có bao giờ sông chảy thẳng đâu em
Sông lượn khúc, lượn dòng mà tới bể.
Hai
câu thơ trên gợi cho em suy nghĩ gì về dòng sông và những bài học cuộc đời rút
ra từ đó?
Hướng
dẫn làm bài
* Xác định yêu cầu của đề
-
Yêu cầu về nội dung: đối tượng nghị luận là
một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học: vấn đề lối sống rút ra từ hình
ảnh dòng sông trong cảm nhận của Vũ Quần Phương.
-
Yêu cầu về thao tác lập luận: sử dụng kết
hợp các thao tác giải thích, bình luận, phân tích, chứng minh, bác bỏ…
* Gợi ý lập dàn bài
a. Mở bài
- Giới thiệu ý thơ của Vũ Quần Phương.
- Giới
thiệu vấn đề cần bàn luận: từ hình ảnh dòng sông, ý thơ gợi ra vấn đề
lối sống của con người.
b. Thân bài
b.1. Ý nghĩa hai câu thơ của Vũ Quần Phương
- Hai câu thơ
là những suy nghiệm của chủ thể trữ tình về hình ảnh dòng sông tự nhiên trong
hành trình đến biển. Do đặc điểm địa hình khác nhau ở từng nơi mà dòng sông chảy
qua; nên để đến biển thì dòng sông nào cũng phải lượn khúc, lượn dòng. Đó là lí do sông không bao giờ chảy thẳng.
- Phép nhân
hóa Sông lượn khúc, lượn dòng mà tới bể
gợi liên tưởng dòng sông như một con người, dù phải đối mặt với nhiều ngáng trở
trên hành trình nhưng vẫn kiên trì mục tiêu, vượt mọi khó khăn để tới đích.
Hai câu thơ
xuất phát từ hình ảnh dòng sông tự nhiên mà gợi liên tưởng đến lối sống chủ
động, tích cực, linh hoạt của con người trong xã hội.
b.2. Bàn luận về bài học nhân sinh rút ra từ ý thơ của Vũ
Quần Phương
- Ý thơ của nhà thơ Vũ Quần Phương gợi ra một bài học nhân sinh sâu sắc; vì
để có được thành công trong cuộc sống, con người cần linh hoạt, chủ động, kiên
trì mục tiêu của mình.
+ Nếu sông chảy thẳng thì khi va phải núi cao,
vực sâu… dòng chảy sẽ bị chặn lại, không bao giờ sông có thể tới biển; việc lượn khúc, lượn dòng giúp cho dòng sông
có thể vượt qua trở ngại, tiếp tục hành trình tìm đến biển.
+ Cuộc sống
của con người cũng vậy: Khát vọng càng lớn thì khó khăn càng nhiều. Để đến
đích, mỗi cá nhân không chỉ cần nỗ lực hết mình mà còn cần sự linh hoạt, tỉnh
táo, có cách ứng xử phù hợp trong mọi hoàn cảnh. Trước những khó khăn, con
người cần biết lượng sức mình, tránh đối đầu một cách liều lĩnh theo kiểu lấy trứng chọi đá để rồi chuốc lấy thất
bại.
- Mở rộng,
nâng cao vấn đề:
+ Phê phán
những người cứng nhắc, bảo thủ, liều lĩnh hoặc những người dễ nản lòng, thiếu
kiên định mục tiêu.
+ Cần phân
biệt cách ứng xử linh hoạt, mềm dẻo và sự hèn nhát, thiếu quyết đoán, né tránh
khó khăn ở một số người.
c. Kết bài
- Khẳng định: linh
hoạt, chủ động trong mọi hoàn cảnh là lối sống tích cực.
- Liên hệ bản thân.
---------------------------------------------------------------
1.5.
Đề 5
Trong tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt,
Lưu Quang Vũ đã để cho nhân vật Trương Ba bộc bạch suy nghĩ của mình: Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một
nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn.
Suy nghĩ của anh (chị) về vấn đề này?
Hướng
dẫn làm bài
* Xác định yêu cầu của đề
- Yêu cầu về nội dung: Đối tượng nghị luận
là một vấn đề tư tưởng đặt ra trong tác phẩm văn học: Quan niệm sống, lối sống
của con người.
- Yêu
cầu về thao tác lập luận: giải thích, bình luận, phân tích, chứng minh, bác bỏ…
* Gợi ý lập dàn bài
a. Mở bài
- Giới thiệu ngắn gọn
về vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ, nhân vật Trương
Ba và cuộc đối thoại giữa Trương Ba với Đế Thích.
- Giới thiệu vấn đề cần bàn luận: quan niệm được
sống thật là mình, không giả dối, mâu thuẫn bên
trong một đằng, bên ngoài một nẻo.
b. Thân bài
b.1.
Giới thiệu vài nét về nhân vật Trương Ba và bi kịch của nhân vật này.
- Trương Ba là một
người nông dân làm vườn, yêu thương vợ con, có lối sống thanh cao( ham thú chơi
cờ). Vì sự tắc trách của quan thiên đình, Trương Ba lăn ra chết đột ngột.
- Vợ Trương Ba kiện lên
thiên đình, Đế Thích đã sửa sai bằng cách cho hồn Trương Ba nhập vào xác anh
hàng thịt để trả lại cho Trương Ba sự sống. Nhưng thật trớ trêu, đó lại chính
là nguyên nhân dẫn đến tấn bi kịch phải sống cuộc sống "ngoài một đằng, trong một nẻo" của Hồn Trương Ba.
- Hồn Trương Ba phát
biểu câu nói trên khi đã thấm thía nỗi đau đớn, giày vò của một con người không
được sống là mình.
- Như vậy, câu nói
trên là lời giải thích của Hồn Trương Ba khi từ chối cuộc sống vay mượn thân
xác người khác. Nó thể hiện khát vọng sống chính đáng của một con người có nhân
cách. Đây cũng chính là vấn đề cần bàn luận.
b.2. Giải thích, bàn luận
về vấn đề nêu trong nhận định.
* Giải thích nội dung
cần bàn luận:
- Bên trong, bên ngoài là những phương diện nào của con người?
+ Bên
trong: là thế giới nội tâm, suy nghĩ, tư tưởng, tình cảm của con người; Bên
ngoài: là lời lẽ, hành động, là cách ứng xử của con người.
+ Bên
trong còn là linh hồn, tinh thần; bên ngoài là thể xác...
- Thế nào là kiểu sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo?
Đó là những con người sống mâu thuẫn, không có sự thống nhất giữa suy
nghĩ và lời nói, hành động. Nghĩa là con người không được sống là chính mình,
không được sống thật.
- Mong muốn "được là tôi toàn vẹn" thể hiện khát vọng gì của nhân vật
Trương Ba nói riêng và của con người nói chung? Đó là khát vọng được sống thật
là con người của mình...
* Bàn luận, mở rộng ý nghĩa của vấn đề:
- Kiểu sống giả dối,
sống không trung thực đã trở thành một hiện tượng khá phổ biến trong xã hội. Đó
là những con người có hai bộ mặt, sống không thật với mình và mọi người. Họ
nghĩ một đằng nhưng làm một nẻo.
- Kiểu sống ấy gây ra
những tác hại như thế nào?
Sống giả dối, không
đúng với bản chất sẽ tạo ra những lệch lạc về giá trị thật của con người như nhân vật Hồn Trương Ba
là một ví dụ. Những con người có kiểu sống ấy sẽ khiến mọi người xung quanh khó
phân biệt được tốt - xấu, phải - trái, đúng - sai...
- Có những nguyên
nhân nào xô đẩy con người vào lối sống ấy?
.
Khách quan: có thể do hoàn cảnh mà họ không dám là mình. Sức ép của hoàn
cảnh khiến họ rơi vào bi kịch phải sống giả dối, trái với bản chất, với lương
tâm (Ví dụ nhân vật Quản Ngục trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân...).
. Chủ
quan: Bản thân họ không
muốn là mình, tự lừa dối bản thân vì một động cơ, mục đích hay mưu toan nào đó.
- Khát vọng "được là tôi toàn vẹn" là mong ước
được sống thật với con người của mình, đồng thời cũng là khát vọng hoàn thiện
nhân cách, đó là khát vọng chính đáng của con người.
+ Vì sao con người
muốn được sống thật ? Bởi khi phải sống giả dối, con người luôn phải lo lắng,
toan tính, tạo ra vỏ bọc bên ngoài để che đậy bản chất của mình; khi ấy tâm hồn
cũng không được thanh thản. Còn khi sống thật, sống đúng là mình thì con người
sẽ không phải nhập vai, che chắn. Trái lại, họ sẽ thấy tâm hồn trong sáng,
thanh thản và đem lại cảm giác an tâm cho những người xung quanh. Như vậy, sống
thật đồng nghĩa với sống tốt; người sống thật là người tốt, người cao cả.
+ Vì sao con người
muốn hoàn thiện nhân cách? Vì con người không ai hoàn thiện. Ai cũng có phần tốt,
phần xấu, có sự lẫn lộn giữa rồng phượng
và rắn rết; thiên thần và ác quỷ....Vì thế mà con người luôn muốn hoàn thiện
mình, luôn có khát vọng hướng thiện.
Khát vọng
được là mình là khát vọng chân chính nhưng cái
mình đó phải hợp với chuẩn mực đạo đức của xã hội chứ không thể là cái mình lập dị khác người.
- Làm thế nào để sống
thật, sống đúng là mình?
+ Phải có tư tưởng,
tình cảm trong sáng. Bởi có tư tưởng, suy nghĩ đúng mới có thể hành động đúng.
+ Cần có ý chí, nghị lực và bản lĩnh để có
thể làm chủ bản thân, vượt lên trên những hoàn cảnh khó khăn, những cám dỗ tầm
thường của cuộc sống.
c. Kết bài
- Nhấn mạnh giá trị nhân văn trong quan
niệm sống của Lưu Quang Vũ và trách nhiệm của mỗi người trong việc hình thành
và bảo vệ những khát vọng sống đẹp, chính đáng.
- Liên hệ bản thân.
---------------------------------------------------------------
1.6.
Đề 6
…
Đừng sống như hòn đá, giống như hòn đá
Sống không một tình yêu
Sống chỉ biết thân mình
Tâm hồn luôn luôn băng giá
Đừng hóa thân thành đá …
(Trích bài hát: Tâm hồn của đá, Trần Lập)
Những
ca từ trên gợi cho anh/chị cảm nghĩ gì? Lấy nhan đề Đừng sống như hòn đá hãy viết một bài văn để bày tỏ quan điểm của
mình.
Hướng
dẫn làm bài
* Xác định yêu cầu của đề
- Yêu cầu về nội dung: Đối tượng nghị luận
là một vấn đề tư tưởng đặt ra trong đoạn trích từ bài hát Tâm hồn của đá (Trần
Lập): Vấn đề lối sống của con người trong xã hội.
- Yêu
cầu về thao tác lập luận: giải thích, bình luận, phân tích, chứng minh, bác bỏ…
* Gợi ý lập dàn bài
a. Mở bài
Giới thiệu đoạn ca từ của Trần Lập, khẳng
định đó là lời khuyên có ý nghĩa định hướng cho con người về một lối sống tích
cực, tránh kiểu sống vô cảm như “hòn đá”.
b. Thân bài
b.1. Về những ca từ trong bài hát Tâm hồn của đá
Những câu hát là một lời khuyên thể hiện nhiệt huyết
và khát vọng sống hết mình của tác giả. Lời khuyên hướng tới nội dung: Con
người đừng sống như một hòn đá. Hình
ảnh hòn đá (sống không một tình yêu, sống chỉ biết thân mình, tâm hồn băng giá)
là ẩn dụ cho cuộc sống ích kỉ, nhàm tẻ, vô cảm và thiếu trách nhiệm với cuộc
đời và con người. Đó chỉ là một sự tồn tại vô nghĩa, chứ không phải là đang sống với đầy đủ ý nghĩa của từ này.
b.2. Bàn luận
về lối sống “như hòn đá” ở một bộ phận người trong xã hội
*
Biểu hiện: Lối sống ích kỉ, vô cảm, không chia sẻ và yêu thương đang tồn tại
trong thực tế với nhiều biểu hiện ở các mức độ, cấp độ khác nhau.
+ Có
hiện tượng con người trơ lì, vô cảm đến mức không mảy may động lòng trước vui
buồn của đồng loại, không hề quan tâm đến những vấn đề xảy ra trong xã hội;
không bày tỏ thái độ hoặc có những hành động cụ thể khi chứng kiến cái Xấu, cái
Ác hoành hành trong xã hội... (D/c)
+ Lại có những người vì những mong
muốn ích kỉ của bản thân mà trở thành những những “hòn đá” ngáng trở người
khác, cản trở sự tiến bộ của xã hội...
* Nguyên
nhân:
+
Khách quan: Lối sống “như hòn đá” có thể bắt nguồn từ những tác động của nền
kinh tế thị trường. Nhiều người chạy theo vật chất nên chỉ chú ý đến lợi ích
của cá nhân, “mũ ni che tai” với cuộc sống bên ngoài mình. Bên cạnh đó: Xã hội
cũng chưa có những hình thức lên án và răn đe mãnh mẽ; đủ sức đẩy lùi căn bệnh
vô cảm, lối sống ích kỉ ở nhiều người.
+ Chủ
quan: Nhận thức của nhiều người về ý nghĩa thực sự của cuộc sống còn mơ hồ. Từ
chỗ coi trọng đời sống vật chất, xem nhẹ đời sống tinh thần... dẫn đến tình
trạng tâm hồn “băng giá”.
* Hậu quả: Sống
như hòn đá sẽ khiến cho mỗi cá nhân
bị cô lập; những nét đẹp nhân văn trong xã hội cũng bị thủ tiêu. Lối sống ích
kỉ, vô cảm còn là nguồn gốc của nhiều thói hư, tật xấu khác.
* Bài
học nhận thức và hành động:
- Những
ca từ trong bài hát Tâm hồn của đá đã phủ định lối sống khép mình, ích kỉ, vô cảm ở
một bộ phận con người trong xã hội. Từ đó đề xuất lối sống tích cực: Sống đồng
nghĩa với giao cảm, sẻ chia, đùm bọc, yêu thương. Sống không chỉ là tồn tại mà
còn là cảm giác; không chỉ là hưởng thụ mà còn là cống hiến, không chỉ nhận yêu
thương mà còn cần chia sẻ yêu thương...
- Cần
phê phán những người có lối sống “như hòn đá”. Tư tưởng Đừng sống như hòn đá không chỉ là một lời răn mình của mỗi người;
mà còn là lời cảnh tỉnh với tất cả mọi người trong xã hội.
c. Kết bài:
Khẳng định giá trị tư tưởng của đoạn ca từ
và liên hệ bản thân.
---------------------------------------------------------------
2. Giới thiệu hệ thống đề tham khảo
Để
phục vụ thiết thực cho việc ôn luyện, củng cố kiến thức và kĩ năng cho học sinh
về dạng bài nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra
trong tác phẩm văn học; trong phần tiếp theo chúng tôi giới thiệu một số đề bài để thầy cô và
các em học sinh tham khảo.
STT
|
Đề bài
|
1
|
Từ câu chuyện cổ tích Tấm
Cám, anh (chị) có suy nghĩ gì về cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái
ác trong xã hội?
|
2
|
“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ”
(Truyện Kiều, Nguyễn Du)
Chuyện “Quạt
nồng, ấp lạnh” của Thuý Kiều gợi cho anh (chị) suy nghĩ gì về cách cư xử
của con cái với cha mẹ trong xã hội ngày nay ?
|
3
|
Từ bài Tiến sĩ giấy của Nguyễn Khuyến,
anh (chị) hãy viết bài văn bàn về danh
và thực trong cuộc sống hiện nay.
|
4
|
Trong đoạn trích Lẽ
ghét thương, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã bày tỏ lòng mình qua ý thơ:
Vì chưng hay ghét cũng là hay thương.
Anh (chị) hiểu ý thơ
trên như thế nào? Từ đó, hãy viết một bài văn nghị luận để bàn về chuyện ghét - thương của con người trong cuộc sống hôm nay.
|
5
|
Từ đoạn trích Hạnh
phúc của một tang gia (trích Số đỏ) của nhà văn Vũ Trọng Phụng;
anh (chị) hãy viết một bài văn để trình bày suy nghĩ của mình về cái thật và
cái giả trong cuộc sống hôm nay.
|
6
|
Bằng những hiểu biết về
bài thơ Vội vàng của nhà thơ Xuân Diệu, anh (chị) hãy phát biểu suy
nghĩ của mình về khát vọng sống và khát vọng hưởng thụ của con người trong xã
hội.
|
7
|
Phải chăng hiện tượng người trong bao không
chỉ có trong truyện ngắn của Sê Khốp mà đã trở thành một hiện tượng khá phổ
biến trong xã hội ngày nay ?
|
8
|
Từ truyện ngắn Đời thừa của Nam Cao, anh (chị)
hãy trình bày quan điểm của mình về tình trạng “sống thừa” của con người trong xã hội…
|
9
|
Nhân được học một số bài thơ trong tập Nhật
kí trong tù của Hồ Chí Minh, anh (chị) hãy viết bài văn bàn về ý chí
và nghị lực của con người
|
10
|
Từ tình yêu Kinh Bắc
của Hoàng Cầm trong bài thơ Bên kia sông Đuống, bàn về tình
yêu quê hương, đất nước.
|
11
|
Từ cuộc đời của các
nhân vật phụ nữ trong hai tác phẩm Vợ
nhặt (Kim Lân) và Vợ chồng
A Phủ (Tô Hoài), anh (chị) hãy phát biểu suy nghĩ của mình về số phận
người phụ nữ xưa và nay.
|
12
|
Từ bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy, nhớ và nghĩ
về những kỉ niệm tuổi thơ.
|
13
|
Từ truyện ngắn Một
người Hà Nội (Nguyễn Khải) và Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh
Châu), anh (chị) hãy nêu vai trò của gia đình đối với mỗi người?
|
14
|
Từ tác phẩm Chiếc
thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu, anh (chị) có cảm nghĩ
và suy tư gì về mối quan hệ giữa cuộc sống nghèo khó và tình trạng bạo lực
gia đình trong xã hội hôm nay ?
|
15
|
Từ nghịch cảnh của nhân
vật Trương Ba trong trích đoạn Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu
Quang Vũ), bàn về nỗi khổ của con người khi không được sống là mình.
|
16
|
Ông lão trong Ông
già và biển cả của Hê-minh-uê gợi cho anh (chị) những suy nghĩ gì về
niềm tin và nghị lực trong cuộc sống ?
|
17
|
Từ cuộc đời nhân vật
Xô-cô-lốp trong Số phận con người của M. Sô-lô-khốp, nghĩ về những mất mát và
nỗi đau do chiến tranh để lại.
|
18
|
Con
cò mà đi ăn đêm,
Đậu
phải cành mềm, lộn cổ xuống ao.
Ông
ơi, ông vớt tôi nao!
Tôi
có lòng nào, ông hãy xáo măng.
Có
xáo thì xáo nước trong,
Đừng
xáo nước đục, đau lòng cò con
Từ bài ca dao, hãy bàn về vấn đề lẽ
sống của con người Việt Nam.
|
19
|
Đọc bài thơ dưới đây:
… Chẳng
ai muốn làm hành khất
Tội trời đày ở nhân gian
Con không được cười giễu họ
Dù họ hôi hám úa tàn.
Nhà mình
bên đường họ tới
Có cho, thì đáng là bao ?
Con không bao giờ được hỏi
Quê hương họ ở nơi nào.
Con chó
nhà mình rất hư
Cứ thấy ăn mày là cắn
Con phải răn dạy nó đi
Nếu không thì con đem bán.
Mình tạm
gọi là no, ấm
Ai biết cơ trời vần xoay
Lòng tốt gửi vào thiên hạ
Biết đâu nuôi bố sau này…
(Dặn con, Trần Nhuận
Minh)
Lời dặn con của người cha trong bài
thơ trên, gợi cho anh (chị) suy nghĩ gì về cách ứng xử với những người bất
hạnh trong cuộc sống ?
|
20
|
Đọc câu chuyện dưới đây:
Từ hồi còn học trung học, cha tôi có thói
quen vặn đồng hồ chạy nhanh năm phút. Rồi vào đại học, ra trường, đi tìm việc
làm, lập gia đình… cha tôi vẫn giữ thói quen như thế. Cha dạy tôi: “Phải luôn
tôn trọng giờ giấc và đừng để ai khó chịu vì mình chậm trễ con ạ”.
Năm ngoái được thăng chức giám đốc, cha thay đổi thói quen đột ngột:
cha vặn đồng cho chạy chậm năm phút. Tôi thắc mắc, hỏi tại sao, cha trả lời:
“Phải nghiêm khắc với chính mình nhưng lại rộng lượng với người khác con ạ!”
(Sống
ở đời, Phạm Quốc)
Câu chuyện trên gợi cho anh (chị) bài học gì về việc sống ở
đời ?
|
C. PHẦN KẾT LUẬN
I. Kết luận
Dạng bài nghị
luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học có ý nghĩa đặc biệt
trong việc rèn luyện hai kĩ năng đọc hiểu và làm văn cho học sinh. Đồng thời,
dạng bài này còn góp phần đưa văn học về gần hơn với đời sống, giúp cho học
sinh có cơ hội nhìn nhận và đánh giá những vấn đề xã hội một cách có chiều sâu.
Trong khuôn khổ một chuyên đề nghiên cứu tham gia hội thảo, chúng tôi không có
tham vọng trình bày thật đầy đủ, cặn kẽ mọi nội dung liên quan đến phương pháp
rèn kĩ năng cho học sinh ở kiểu bài này mà chỉ mong muốn nêu ra những vấn đề cụ
thể, có ý nghĩa thiết thực nhất để chia sẻ cùng các đồng nghiệp nhận thức của
chúng tôi về tầm quan trọng của việc rèn kĩ năng làm kiểu bài này, đề xuất
những biện pháp để dạy kiểu bài này một cách có hiệu quả và giới thiệu một số
đề bài làm tư liệu tham khảo cho hoạt động dạy học.
II. Đề xuất
1. Xét thấy Nghị
luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học là một trong số
những dạng bài nghị luận khó nhưng lại rất cần thiết được rèn luyện để thực
hiện mục tiêu nâng cao năng lực ngữ văn cho học sinh… chúng tôi nghĩ rằng việc
rèn kĩ năng làm kiểu bài này cho học sinh cần được chú trọng từ nhiều khâu của
quá trình dạy học. Từ việc yêu cầu học sinh chuẩn bị bài trước khi lên lớp, đến
việc vận dụng quan điểm tích hợp trong giảng dạy, nhất là việc soạn đề - chấm -
chữa bài làm cho học sinh trong mỗi kì kiểm tra.
2. Mỗi tác phẩm văn học đều chứa đựng những hình tượng
nghệ thuật đa nghĩa và phản ánh những vấn đề xã hội khác nhau. Vì vậy trước
hành động tiếp nhận tích cực của người đọc, tác phẩm hiện lên như một cấu trúc
vừa ổn định vừa biến đổi của những hình ảnh mang ý nghĩa thẩm mĩ. Nội dung ý
nghĩa của tác phẩm là một hệ thống mở đối với những cách lí giải khác nhau. Vì
thế trong quá trình giảng dạy và bồi dưỡng kĩ năng làm bài cho học sinh, giáo
viên cần tránh giới hạn, gò ép vào một kết quả diễn giảng duy nhất; mà cần gợi
ra cho học sinh nhiều chiều hướng lí giải khác nhau về ý nghĩa tác phẩm, đặc
biệt là sự liên hệ giữa tác phẩm và đời sống ở những nội dung có tính chất xã
hội của nó. Đó là lí do khiến chúng tôi cho rằng: Với dạng đề nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong
tác phẩm văn học, giáo viên cần cẩn trọng trong quá trình biên soạn đề thi
và đáp án; nên chỉ thị rõ vấn đề xã hội cần nghị luận hoặc thiết kế một đề bài
mở, đáp án mở… cho phép học sinh có cơ hội được bày tỏ chủ kiến của mình.
3. Để học sinh thuần thục kĩ năng làm bài, giáo viên nên
có kế hoạch ôn tập một cách có hệ thống: Ôn luyện hai dạng bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí, nghị luận về một hiện tượng đời sống
trước rồi mới tiến hành ôn luyện dạng bài nghị
luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học. Việc rèn kĩ năng
chỉ thực sự hiệu quả khi gắn với thực hành, do vậy, giáo viên cần đầu tư tâm
huyết để xây dựng được một hệ thống đề bài có chất lượng ở những mức độ, phạm
vi khác nhau cho học sinh thực hành luyện tập. Chú trọng phương pháp làm mẫu để
học sinh dễ hình dung khi gặp những yêu cầu khác nhau.
Vũ Huy Lân
Tài liệu tham khảo
1. (A). Lê A (Chủ biên), Thực
hành Làm văn lớp 12, NXB Giáo dục Việt Nam, H. 2009.
2. (Ân). Lại Nguyên Ân, 150 Thuật ngữ văn học,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, H.1999.
3. Công văn số
5466/BGD&ĐT - GDTrH/2013 về việc Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ GDTrH năm học
2013 - 2014.
4. (Cường). Nguyễn Văn Cường - Bernd
Meireir, Lý luận dạy học hiện đại, Posdam, 2009.
5. (Hoan). Hà Thúc Hoan, Làm
văn nghị luận: lý thuyết và thực hành, NXB Thuận Hóa.
6. (Mai). Hoàng Thị Mai, Phương
pháp dạy học văn nghị luận ở trường phổ thông, NXB Giáo dục Việt Nam,
H. 2009.
7. (Mạnh). Nguyễn Đăng Mạnh (Chủ
biên), Muốn viết được bài văn hay, NXB Giáo dục, H.2001.
8. (Mạnh). Nguyễn Đăng Mạnh, Điều
quan trọng là phải sống sâu sắc. Tuyển
tập 15 năm Tạp chí Văn học và Tuổi trẻ,
tập hai, NXB Giáo dục, 2008.
9. (Ninh). Nguyễn Quang Ninh, Luyện
cách lập luận trong đoạn văn nghị luận cho học sinh THPT, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội, H.2001.
10. Nhiều tác giả, Nâng cao kĩ năng làm bài văn nghị luận,
NXB Giáo dục, H. 2005.
11. (Thống). Đỗ Ngọc Thống (Chủ
biên), Dạy và học nghị luận xã hội, NXB Giáo dục Việt Nam,
H.2010.
12. (Thống). Đỗ Ngọc Thống, Dàn
bài làm văn 10, NXB Giáo dục Việt Nam, H.2009.
13. (Thống). Đỗ Ngọc Thống, Dàn
bài làm văn 11, NXB Giáo dục Việt Nam, H.2009.
14. (Thống). Đỗ Ngọc Thống, Dàn
bài làm văn 12, NXB Giáo dục Việt Nam, H.2009.
15. (Thống). Đỗ Ngọc Thống, Hệ
thống đề mở Ngữ văn 12, NXB Giáo dục Việt Nam, H.2008.
16. Sách giáo khoa, Sách giáo viên
Ngữ văn 10, 11, 12 (Cơ bản và Nâng cao)
17. (Quyên). Bảo Quyên, Rèn
kĩ năng làm văn nghị luận, NXB Giáo dục, H. 2007.