VẺ ĐẸP NGÔN NGỮ TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN TUÂN QUA "CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ" VÀ "NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ"
VẺ ĐẸP NGÔN NGỮ TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN TUÂN QUA
"CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ" VÀ "NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ"
I.
Mở đầu
Ngôn ngữ là một trong những
khía cạnh quan trọng để khám phá tác phẩm văn học. Là một phần của hình thức
nghệ thuật, ngôn ngữ không chỉ đóng vai trò như một vẻ đẹp, mà còn góp phần
quan trọng trong việc tạo nên những tầng nghĩa lẩn khuất, sâu xa, thể hiện tốt
nội dung tác phẩm, làm nổi bật phong cách nghệ thuật của tác giả, tạo nên nét đẹp
thẩm mỹ cho văn học. Đây cũng là nét đặc trưng của loại hình nghệ thuật này.
Cũng giống với những nguyên liệu để làm nên nghệ thuật, nhưng ngôn ngữ chỉ tạo
nên những giá trị phi vật thể, đòi hỏi người đọc và cả người sáng tác phải vận
dụng tối đa khả năng quan sát, trí liên tưởng tưởng tượng,... mới có thể tiếp cận
với hình tượng nghệ thuật mà ngôn ngữ đã dày công nhào nặn. Sự huy động những
khả năng ấy của con người, giúp cho mỗi chúng ta sống tinh tế hơn, hình tượng
cũng sẽ sống muôn hình vạn trạng tùy theo quan niệm thẩm mỹ của mỗi người, tác
phẩm nhờ vậy mà có thêcắm rễ sâu trong lòng người đọc.
"Nguyễn Tuân là một định
nghĩa về người nghệ sĩ tài hoa" (Nguyễn Minh Châu). Toàn bộ cuộc đời cũng
như gần 5000 trang viết của ông đã tạo nên một "huyền sử" - huyền sử
của một người ưu lối chơi "độc tấu". Cung đàn văn chương Nguyễn Tuân
được viết trên cùng một khuông nhạc nhưng với thanh âm trầm bổng khác nhau của
các nốt nhạc. Phong cách Nguyễn Tuân vì vậy mà có sức hấp dẫn người đọc. Những
nét thống nhất và khác biệt ấy thể hiện rõ qua hai tác phẩm "Chữ người tử
tù" (1939) và "Người lái đò sông Đà" (1960). Trong văn học hiện
đại Việt Nam, Nguyễn Tuân là một trong những cây bút phức tạp nhất, nhưng cũng
có phong cách rõ nét, ổn định nhất. Mọi phương diện trong tác phẩm của ông, nhất
là ngôn ngữ, đều in đậm dấu ấn của một phong cách. Nói đến Nguyễn Tuân, hoàn
toàn có thể nói đến một phong cách ngôn ngữ.
II.
Giải quyết vấn đề.
Vẻ
đẹp ngôn ngữ của Nguyễn Tuân qua "Chữ người tử tù" và "Người lái
đò sông Đà".
“Ngôn ngữ không chỉ là công cụ
của tư duy, cái vỏ chứa tư tưởng mà còn sản sinh ra tư tưởng”. Nghiên cứu phong
cách của một nhà văn không thể né tránh ngôn ngữ văn chương. Và trong các thuộc
tính của ngôn ngữ văn chương, tính cá thể là điều được nhấn mạnh. Đó là cơ sở để
nói đến khái niệm phong cách ngôn ngữ của tác giả trong tác phẩm văn học. Nó
không hề mâu thuẫn với quan điểm của các nhà lý luận khi họ xem phong cách là
biểu hiện của sự độc đáo, cá biệt của một nhà văn. Như vậy, bên cạnh khái niệm
phong cách nghệ thuật, còn tồn tại khái niệm phong cách ngôn ngữ của tác giả.
Xét trong tương quan, phong cách ngôn ngữ là sự biểu hiện rõ nét, sinh động của
phong cách nghệ thuật. Vẻ đẹp của ngôn ngữ có thể nói cũng vhính là vẻ đẹp
trong phong cách nghệ thuật của những tác gia tài hoa. Với một con người như
Nguyễn Tuân, thì ngôn ngữ là cách mà ông thể hiện sự tài hoa tài tử của chính
mình.
1. Về mặt từ ngữ, dễ nhận thấy lớp từ Hán Việt đã được
Nguyễn Tuân sử dụng với mật độ đặc biệt cao và với hiệu quả nghệ thuật rõ rệt.
Không chỉ những truyện tái hiện
cuộc sống thời quá vãng, mà ngay cả ở những tùy viết về cuộc sống sau cách mạng,
hoặc các tiểu luận, các chân dung văn học, Nguyễn Tuân vẫn dùng từ Hán Việt một
cách rất phóng khoáng. Và một điều rất đáng lưu ý, mật độ từ ngữ Hán Việt trong
văn bản thuộc các thể loại khác nhau của Nguyễn Tuân không chênh lệch nhau bao
nhiêu. Cách dùng của ông cũng không giống ai. Ông ít động đến những từ ngữ Hán
Việt thông dụng, ngược lại, thường chọn những từ lạ, hiếm gặp, chẳng hạn: loạn
đả, chư hiền, lão kĩ, hạp ấm, trà nô, tái tòng, tuý lan, bạch tuấn, bản trang,
trì hồ, hội diện, vũ sảnh, tửu lâu, ngân đơn, thư phái, tuý hương, hải vị, vưu
vật, dị thú, ngân thị, hư linh học, nhất đẳng điền, thân khuê oán, tương tư thảo,
tình cố giao, tứ phương bát diện, tứ diện thụ địch, bát điền đại thủ, vô sở bất
chí, cảnh thổ, thiết lộ, câu dầm, đối ngạn, quần phong, mộ dạ, triêu dương, cự
phú, thiên trường hận ca, âm phần, nhập nhĩ nhập nhỡn, cường kí, âm tưởng, song
loan, vạn toàn, xa phí, địa bạ, độc đạo, hỗn thế hỗn trần, đỉnh chung, quan
phu, sơn xuyên, chương trình đại công tác, độc kế, thổ trạch, trung hưng kinh tế,
văn hoả, tửu phần, tửu đồ, trầm trệ, vận hoả tâm, nhật kỡ, lộng hiểm, tiểu chủ,
triệt soạn, khất đài, quyện huyệt, liễm kết, hồng hoa, hồng hoàng, tư lường, vật
tính, bầu hậu, tự điền... Cụ thể:
·
Trong
"Chữ người tử tù"
Nghệ thuật viết
văn xuôi trong “Chữ người tử tù” thật điêu luyện, ngôn ngữ trong sáng gần đạt tới
sự hoàn thiện, hoàn mĩ, đến nay chưa có cây bút nào có thể vượt qua. Để đạt được
trình độ như trên, nhà văn đã sử dụng hệ thống từ ngữ và hình ảnh cổ điển một
cách chính xác và hoàn hảo. Tác giả có dụng ý rõ rệt khi dựng lại một khung cảnh
xưa cũ và đã đưa chúng ta trở lại quá khứ cách đây hàng trăm năm. Mở đầu là dòng
chữ: phiến trát của Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường. Tả cảnh vật thì có vọng canh,
chiếc hèo hoa, giá gươm, án thư, con song, giấy bản, ty Niết, tàn đèn, chiếc
gong, chậu mực, bức châm,… Tả người thì có thầy bát, thằng thập, thủ xướng, ngục
tốt… Tả việc thì có cho chữ, thay bút con, đề xong khoản lạc, lĩnh ý, bái
lĩnh,… Nhà văn đã mượn chữ nghĩa xưa mà khơi dậy cái không khí cổ kính trong
khung cảnh của một quá khứ xa xôi. Chỉ cần mấy dòng, tác giả đã lột tả được thần
thái, tính hồn của một thời đã qua, “phục chế” chính xác và sinh động ngôn ngữ,
cử chỉ của những con người chỉ còn thấp thoáng trong màn sương mờ ảo của dĩ
vãng. Thiếu sự “phục chế” này, chắc chắn tác phẩm Chữ người tử tù mất hẳn sự hấp
dẫn đối với người đọc. Truyện chỉ dùng một vài từ nhưng cũng đủ đưa người đọc
trở về với một thời kì văn hoá xưa cũ, đắm mình vào không khí của một cửa ngục
tiêu biểu cho thời phong kiến suy tàn, đầy quyền lực mà ngu xuẩn, hùa nhau huỷ
diệt nhân cách và đức tài. May mà trong đó còn nổi lên một tấm lòng biết quý trọng,
tôn kính Cái Đẹp của đức độ, tài ba. Những điều chứa chất sâu lắng bên trong nội
dung của truyện đã chinh phục được người đọc. Người xưa nói trong văn có nhạc, có họa, điều đó thật đúng với "Chữ
người tử tù". Khi viết về con người của dĩ vãng xa xăm, Nguyễn Tuân thường
tạo cho câu văn nhịp điệu đĩnh đạc, thong thả, từ tốn, tưởng chừng nhà văn cố
diễn đạt cầu kì nhưng suy nghĩ kĩ mới thấy nhịp điệu và kết cấu câu văn đã góp
phần gợi không khí cho truyện, tạo nên sự cộng hưởng hài hoà, giúp người đọc hình
dung ra phần nào cuộc sống chậm rãi, thậm chí gần như tù đọng của một thời đã
qua: “Thầy thơ lại rút chiếc hèo hoa ở
giá gươm, phe phẩy roi, đi xuống phía trại giam tối om. Nơi góc chiếc án thư cũ
đã nhợt màu vàng son, một cây đèn đế leo lét rọi vào một khuôn mặt nghĩ ngợi.
Ngục quan băn khoăn ngồi bóp thái dương”… “Người ngồi đấy, đầu đã điểm hoa râm,
râu đã ngả màu. Những đường nhăn nheo của một bộ mặt tư lự, bây giờ đã biến mất
hẳn. Ở đây giờ chỉ còn là mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ.”
·
Trong
"Người lái đò sông Đà"
Với thiên tùy bút “Người lái đò
sông Đà”, Nguyễn Tuân tiếp tục sử dụng tài hoa của mình trong việc liên kết giữa
quá khứ, hiện tại và tương lai. Trong tâm thế của con người sau Cách Mạng ấy, sự
đối lập dần được thay thế, nhường chỗ cho cho sự con người ôn hòa, dễ chịu hơn.
Để làm được điều ấy, sự góp mặt của những yếu tố Hán Việt là điều không thể thiếu.
Qua cảm nhận của Nguyễn Tuân, chất thơ của phong cảnh sông Đà thường đậm đà màu
sắc cổ điển: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình
như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi.
Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không
một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn
búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn
nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một
tiếng còi xúp lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái –
Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn
tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi
tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách sông Đà, có phải
ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Có thể gọi đấy là nhừng dòng thơ
văn xuôi đập chất cổ điển của nhà tùy bút.
Việc sử dụng từ ngữ Hán Việt
trong các tác phẩm thuộc các thể loại của Nguyễn Tuân trước hết xuất phát từ đỏi
hỏi của đối tượng được miêu tả. Do viết về đề tài "vang bóng" các
nhân vật chính là nho sĩ nên ngôn ngữ Nguyễn Tuân trong "Chữ người tử
tù" rất cổ kính, bác học. Viết về cuộc sống của những con người tài tử, tài hoa một thời vang bóng, về
luật hình phong kiến, về thú chơi chữ, thả thơ, hát ả đào,... thì lớp từ Hán Việt
dĩ nhiên là đắc địa. Bên cạnh đó, từ ngữ Hán Việt còn góp phần tạo ra âm hưởng
đặc biệt cho lời văn Nguyễn Tuân. Ấy là cái âm hưởng vừa hiện đại, vừa đĩnh đạc
cổ kính, đọc lên đã cảm thấy không lẫn với giọng điệu của bất cứ nhà văn nào.
Những từ ngữ ấy được Nguyễn Tuân sử dụng một cách nhuần nhuyễn, linh hoạt, tạo
âm vang ngàn xưa vọng lại - âm vang của một thời xa vắng. Trong "Người lái
đò sông Đà", người đọc được thưởng thức một loạt ngôn từ mới mẻ, sáng tạo,
mang bản sắc riêng: "lặng tờ, bờ tiền sử, nỗi niềm cổ tích, thơ ngộ…"
Nhà văn thực sự là một ông lái tài hoa trên dòng sông ngôn ngữ. Các câu văn
Nguyễn Tuân giàu nhạc điệu, co duỗi nhịp nhàng. Nhạc điệu trầm bổng, đưa người
đọc đến với cái yên ả của dòng sông đà nơi hạ lưu: "Dòng sông quãng này lững
lờ như thương nhớ những hòn thác đá xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Và
con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông
đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải no khác hẳn những con đò đuôi én
thắt mình dây cổ điển dòng trên". Đọc "Chữ người tử tù" ta không
thể nào quên những câu văn đầy chất thơ của ông: "Trong khung cửa sổ có
nhiều con song kẻ những nét đen thẳng lên nền trời lốm đốm, tinh tú, một ngôi
sao hôm nhấp nháy như muốn tụt xuống phía chân giời không định". Cái nhịp
điệu buồn buồn, kéo dài văng vẳng một nỗi tiếc nuối như thấm vào câu văn. Chính
câu văn giàu nhịp điệu và âm vang cho nên Vũ Ngọc Phan có cảm tưởng "Đọc
lên nó ngân sâu như những tiếng đàn trầm".
Ở Nguyễn Tuân, ta còn bắt gặp
hai thao tác ngỡ mâu thuẫn mà thực ra là thống nhất: sử dụng từ ngữ chuyên biệt,
chính xác song song với hình thức biểu đạt kiểu lạ hóa.
Thao tác thứ nhất, Nguyễn Tuân
lựa chọn những từ ngữ thật đích đáng để gọi sự vật đúng tên của nó, đặc tả sự vật
đúng tính chất của nó. Chẳng hạn:
·
Trong
“Chữ người tử tù”
Ông gọi tâm hồn và tấm lòng của
quản tù "là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật
đều hỗn loạn xô bồ". Có thể nói, bậc thầy ngôn từ - Nguyễn Tuân đã có những
câu văn đặc sắc, giàu tính tạo hình khi ông lột tả chiếc gông cùm của sáu tên tử
tù: "Sáu phạm nhân mang chung một chiếc gông dài tám thước. Cái thang dài ấy
đặt ngang trên sáu bộ vai gầy. Cái thang gỗ lim nặng, đóng khung lấy sáu cái cổ
phiến loạn, nếu đem bắt lên mỏ cân, có thể nặng đến bảy tám tạ. Thật là một cái
gông xứng đáng với tội án sáu người tử tù. Gỗ thân gông đã cũ và mồ hôi cổ mồ
hôi tay kẻ phải đeo nó đã phủ lên một nước quang dầu bóng loáng. Những đoạn
gông đã bóng thì loáng như có người đánh lá chuối khô. Những đoạn không bóng
thì lại sỉn lại những chất ghét đen sánh"
Để đặc tả không gian đỏ rực và màn khói trắng, Nguyễn
Tuân đã tạc lên bức điêu khắc biểu tượng, hội tụ cái đẹp: "Trong một không
khí khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên
ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ.
Khói bốc tỏa cay mắt, họ dụi mắt lia lịa. Một người tù cổ đeo gông, chân vướng
xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng phẳng trên mảnh ván.
Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền
kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run
run bưng chậu mực." Cái uyên bác của Nguyễn Tuân đã đem lại cho trang văn
tính tạo hình và trở nên phong phú và chính xác hơn.
·
Trong
“Người lái đò sông Đà”
Thoạt tiên là, tác giả gọi những
"hút nước" ở sông Đà là những "cái giếng sâu", gọi
"thiên nhiên Tây Bắc" là "thứ kẻ thù số một", gọi "chiến
trường sông Đà" là "quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà", thay
cho việc dùng từ "trận đá" bằng từ "thạch trận", tiếp đó là
sử dụng tri thức về âm nhạc với bản hợp âm náo loạn, kinh khiếp của thác dữ:
“Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu
sôi vào”, “Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi
lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một
ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa”… Những
cách ví von mới lạ, độc đáo cùng ngôn ngữ giàu tính biểu cảm, giàu sức gợi và
nhịp điệu câu văn nhanh, gấp, đã tác động mạnh vào tâm trí người đọc, liên tục
đẩy âm thanh thác dữ đến hồi cao trào, quyết liệt nhất, để rồi, khi tất cả đã
qua đi, người ta có cảm giác đầu óc mình đã căng quá độ, bây giờ thừ ra nghe
“Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. “Sông nước lại thanh bình”. Nếu như vẽ một
cái biểu đồ tần số âm thanh sông Đà thì ta đã có một đường lên rất cao rồi đột
ngột trở về với thanh ngang ghi âm của biểu đồ.Thoạt tiên là tri thức về âm nhạc
với bản hợp âm náo loạn, kinh khiếp của thác dữ: “Nước ở đây thở và kêu như cửa
cống cái bị sặc”, “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”, “Tiếng nước thác
nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích,
giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng
đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa”… Những cách ví von mới lạ, độc
đáo cùng ngôn ngữ giàu tính biểu cảm, giàu sức gợi và nhịp điệu câu văn nhanh,
gấp, đã tác động mạnh vào tâm trí người đọc, liên tục đẩy âm thanh thác dữ đến
hồi cao trào, quyết liệt nhất, để rồi, khi tất cả đã qua đi, người ta có cảm
giác đầu óc mình đã căng quá độ, bây giờ thừ ra nghe “Sóng thác xèo xèo tan
trong trí nhớ”. “Sông nước lại thanh bình”. Nếu như vẽ một cái biểu đồ tần số
âm thanh sông Đà thì ta đã có một đường lên rất cao rồi đột ngột trở về với
thanh ngang ghi âm của biểu đồ.
Song hành với âm thanh là hình ảnh.
Bằng vốn hiểu biết phong phú về hội họa và điêu khắc, cùng trí tưởng tượng độc
đáo và óc quan sát sắc sảo được diễn tả bằng vốn ngôn ngữ phong phú, điêu luyện,
giàu giá trị tạo hình, nhà văn đã giúp ta mường tượng về độ cao hun hút khôn
cùng của “đá bờ sông dựng vách thành” gợi lên nét hùng vĩ, hoang sơ, và cả sự
ghê rợn nữa. Đặc biệt là khi “chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu” thì sức nước
hẳn phải ghê gớm, dữ dằn lắm! Cách so sánh, liên tưởng mới mẻ, bất ngờ của Nguyễn
Tuân quả khiến người đọc cũng “thấy lạnh” như đang ngồi chung khoang đò qua
quãng ấy với Nguyễn Tuân vậy. Vài nét vẽ mà thật giàu sức gợi, từ ngữ của Nguyễn
Tuân cũng góc cạnh, sắc nét như những đường chạm trổ của người thợ tài hoa.
Thao tác thứ hai, Nguyễn Tuân
luôn tìm kiếm những hình thức biểu đạt rất khác thường. Ông rất công phu trong
việc ghép từ, hoặc thay thế một từ thông dụng bằng từ ngữ lạ hoắc, gây bỡ ngỡ
cho người đọc.
·
Trong
"Chữ người tử tù"
Từ ngữ, câu văn được lạ hóa: "Những đoạn không bóng
thì lại sỉn lại những chất ghét đen sánh"; "mưa rệp"; "biệt
nhỡn"; "tính ông vốn khoảnh"; "Ông Trời nhiều khi hay chơi
ác đem đầy ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã";...
·
Trong
“Người lái đò sông Đà”
Những từ ngữ được lạ hoá như: "thanh viện" (hỗ
trợ bằng âm thanh), "thanh la, não bạt" (nhạc cụ bộ gõ bằng đồng tạo
âm thanh mới lạ), "đánh hồi lùng" (đánh dồn dập), "đòn âm"
(đòn ngầm), "trùng vi" (vòng vây nhiều lớp), "tế mạnh" (phi
mạnh, lao mạnh)...
Hình thức biểu đạt kiểu lạ hóa
đã được Nguyễn Tuân đẩy đến mức cao hơn khi trước một đối tượng cần miêu tả,
ông dùng đồng thời nhiều cách định danh, nhằm nói cho kiệt cùng mọi sự cảm nhận
của mình.
2. Nguyễn Tuân thuộc số những cây bút đặc biệt chú trọng
hình thức câu văn.
Điều này thể hiện
rõ ở sự gia công của ông về cách cấu tạo câu cũng như về các biện pháp tu từ
trong câu. Nếu cấu tạo câu thời kì trước Cách Mạng trong văn ông phù hợp với giọng
điệu cổ kính trang nghiêm, thì với thời kì sau Cách Mạng câu văn cầu kì, nhiều
khi dài hơi, trau truốt hơn phù hợp với cá tính phô bày tri thức của mình và
tài dùng chữ.
Câu văn của Nguyễn Tuân thường có xu hướng phức hóa. Bất
cứ thành phần nào trong câu văn của ông cũng đều có thể được phát triển một
cách dễ dàng. Ông mang trong mình cái giọng kể khoan thai trong những thiên
truyện, giọng giãi bày miên man trong những thiên tùy bút, giọng phân tích, phẩm
bình tỉ mỉ kiểu "chẻ sợi tóc làm tư" trong các bài viết về văn học
nghệ thuật.
Sự chau chuốt trong câu văn
Nguyễn Tuân không chỉ thể hiện ở bình diện cấu trúc mà còn ở mặt tu từ. Nói
cách khác, yêu cầu về tu từ đã được đáp ứng bằng những đặc điểm của cấu trúc.
Những biện pháp và phương tiện được nhà văn sử dụng thường khiến cho câu văn phải
dãn ra, trổ nhiều cành nhánh rậm rạp, với những tầng bậc khác nhau và đạt hiệu
quả thẩm mĩ rõ rệt. Trong các phép tu từ, thì sóng đôi cú pháp, điệp, giải
nghĩa, tách câu là những biện pháp được Nguyễn Tuân ưa dùng hơn cả. Có những kiểu
tu từ dễ kéo câu văn trở về kiểu du dương biền ngẫu cũ kĩ một thời, (ví như
phép sóng đôi cú pháp), nhưng Nguyễn Tuân vẫn sử dụng một cách thoải mái, và bằng
sự cao tay của mình, ông viết nên những câu văn nhịp nhàng cân đối mà vẫn rất
hiện đại.
·
Trong
“Chữ người tủ tù”
Chẳng hạn: "Tiếng dội chó sủa ma, tiếng trống thành
phủ, tiếng kiểng mõ canh nổi lên nhiều nhiều"; câu văn "trổ nhánh rậm
rạp": "Ðêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ
trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, đã bày ra trong một buồng
tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột phân
gián"; "Lửa đóm cháy rừng rực, lửa rụng xuống nền đất ẩm phòng giam,
tàn lửa tắt nghe xèo xèo"...
·
Trong
“Người lái đò sông Đà”
Chẳng hạn: "Tiếng nước
thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là
khiêu giọng gằn mà chế nhạo"; “Có
chỗ vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ
tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ
này sang bờ kia.” . Có những phép tu từ tưởng chỉ phù hợp với kiểu câu văn giải
thích đậm tính duy lí của ngữ pháp châu Âu (ví như phép giải ngữ), vậy mà, qua
bàn tay Nguyễn Tuân, chúng bỗng phát huy hiệu quả bất ngờ trong việc tạo nên âm
giọng điệu đặc biệt cho lời văn: “Tôi sợ hãi khán giả, đã dũng cảm dám ngồi vào
một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy
cái hút sông Đà – từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sôbng chênh
nhau tới một cột nước cao đến vài sải”. Câu văn trổ nhánh rậm rạp ở đây có thể
kể đến: “Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá cô
sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi sợ
xuýt bắt người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy”; hay: “Không thuyền nào dám
men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng
sông, y như là ô tô sang số nhấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp
ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những
cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào.”
Tóm lại, cả về mặt cấu
trúc và phương diện tu từ cú pháp, Nguyễn Tuân đã thể hiện nhiều khổ công tìm
tòi, sáng tạo. Câu văn của ông vừa cho thấy dấu vết của một lộ trình: ấy là lộ
trình hiện đại hóa của câu văn quốc ngữ, vừa phản ánh khá rõ nét những đặc điểm
phong cách ngôn ngữ của một cá nhân.
3. Nói đến những tìm tòi, sáng tạo của Nguyễn Tuân về
ngôn ngữ, không thể không đề cập nghệ thuật so sánh đặc sắc của ông.
Về lượng, câu văn so sánh trong
các văn bản thuộc mọi thể loại của Nguyễn Tuân có tỉ lệ cao một cách khác thường
so với tác phẩm của các tác giả trong cùng bối cảnh văn học. Nhưng điều đáng
nói hơn là hiệu quả nghệ thuật của phép tu từ so sánh trong lời văn Nguyễn
Tuân. Hiệu quả này có được là nhờ những tìm tòi không mệt mỏi của nhà văn về cấu
trúc so sánh, về từ chỉ quan hệ so sánh, và đặc biệt là hình ảnh dùng để so
sánh. Săn tìm những hình ảnh dị thường, ít ai nghĩ tới, làm cho mỗi câu văn so
sánh thực sự là một kết quả khám phá, thể hiện một cái nhìn khác biệt về đối tượng,
đó là những thao tác thường thấy ở Nguyễn Tuân. Thao tác này được nhà văn sử dụng
rộng rãi ở mọi thể loại, mọi giai đoạn sáng tác. Vì vậy, thật khó mà thấy được
sự khác biệt nghệ thuật so sánh của câu văn trong truyện, trong tùy bút hay
trong phê bình, chân dung văn học của ông.
·
Trong
“Chữ người tử tù”
Khuôn mặt vô tư lự của một viên quan coi ngục được Nguyễn
Tuân ví với "mặt nước ao xuân bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ", còn tính
cách dịu dàng của con người ấy thì "như một thanh âm trong trẻo chen vào
giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn độn, xô bồ"; "ngày đêm của tử
tù đợi phút cuối cùng...vẫn đằng đẵng như nghìn năm ở ngoài"; "Sáu
người né mình tiến vào như một bọn thợ nề thận trọng khiêng cái thang gỗ đặt
ngang trên vai"; "một ngôi sao Hôm nhấp nháy như muốn trụt xuống phía
chân trời không định";
·
Trong
“Người lái đò sông Đà”
Có thể nói, nghệ thuật so sánh trong "Người lái đò
sông Đà" không chỉ đơn thuần dừng lại ở việc đối chiếu sự vật này với sự vật
khác mà còn mang cả dấu ấn phong cách riêng của Nguyễn Tuân, hàm chứa những cái
nhìn độc đáo, tài hoa, tinh tế: ông đã diễn tả đoạn sông bin chẹt giữa hai vách
đá dựng thành cao vút "ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà
cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một
khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện";
"nước ở đây thở và kêu như cái cống bị sặc"; "cái phim ảnh thu
được trong lòng giếng xoáy tít đáy, truyền cảm lại cho người xem phim kí sự thấy
mình đang lấy gân ngồi giữ chặt như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một
cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn"; "mặt
sông rung tít lên như tuyếc-bin thuỷ điện nơi đáy hầm đập";...
Sự liên tưởng đặc sắc nhất trong "Người lái đò sông
Đà" nằm ở chính những trận chiếc trên sông Đà. Với thạch trận mà sông đà
hung bạo giăng ra để chặn đánh người lái đò, đó là: "hàng tiền vệ, có hai
hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, nhưng chính hai đứa giữ vai trò dụ cái
thuyền đối phương đi vào sâu nữa, vào tận tuyến giữa rồi nước sóng luồng mới
đánh khuýp quật vu hồi lại... Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới.
Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn đá bệ vệ oai
phong lẫm liệt, một hòn ấy trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền
phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách
thức cái thuyền có giỏi thì tiến vào." Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, con thủy
quái sông Đà không chỉ hung hãn. Nó còn hết sức xảo quyệt. Trong cuộc vật lộn với
ông lái đò, nó đã trổ ra đủ mưu ma chước quỷ để lừa người ta vào thế trận đã
bày sẵn và hướng người ta vào cửa tử. Chỗ ngoặt sông thì đánh phục kích. Dụ được
vào sâu thì đánh khuýp vu hồi. Giáp lá cà thì giở đủ ngón hiểm ác: đòn âm, đòn
dương, đá trái, thúc gối, túm thắt lưng, lật nửa người, bóp chặt hạ bộ,... vừa
đánh vừa hò la vang trời dậy đất để áp đảo tinh thần đối phương. Sự liên tươtng
được tiếp nối sang thứ tính cách thứ hai của sông Đà: trữ tình. Nó "tuôn
dài như một áng tóc trữ tình, đàu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc
bung nở hoa ban hoa gạo"...
Cái nhìn lãng mạn và lối so
sánh, liên tưởng đầy sở trường đó vẫn vẹn nguyên khi ông phát hiện con sông Đà
"tuôn dài, tuôn dài như áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong
mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt
nương xuân".
III.
Kết luận
Nhận xét về phong cách nghệ thuật
Nguyễn Tuân, Anh Đức viết: "Không biết chừng nào mới lại có một nhà văn
như thế, một nhà văn mà khi ta gọi là một bậc thầy của ngôn từ ta không hề thấy
ngại miệng, một nhà văn độc đáo, vô song mà mỗi dòng, mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn
bút đều như có đóng một dấu triện riêng". Nét phong cách này thể hiện rõ
trong "Chữ người tử tù" và "Người lái đò sông Đà". Ngôn ngữ
trong văn ông đa dạng, phong phú, mới mẻ, in đậm dấu ấn cá tính riêng.Nguyễn
Tuân đã tung ra biết bao chữ nghĩa đắt giá, biết bao thủ pháp có sức diễn tả
mãnh liệt để "quyết một phen thi tài với Tạo hóa". Trong sự nghiệp
sáng tác của mình, ông đã đạt được sự cân bằng giữa hai thời kì lịch sử trước
và sau Cách Mạng tháng Tám. Qua cái mốc ấy, tư tưởng và phong cách của ông tất
nhiên có những biến đổi nhất định. Nhưng dù biến đổi thế nào, vẫn trên một căn
bản thống nhất của một cái tôi râst Nguyễn Tuân: tài hoa, uyên bác, thích cảm
giác mạnh, suốt đời say mê đi tìm và diễn tả cái đẹp.
Dù viết về vấn đề gì, sử dụng
thể loại nào, điều khiến Nguyễn Tuân phải tận tâm, tận lực là làm sao khai thác
cao nhất khả năng biểu đạt của ngôn từ, để tiếng Việt có thể phô hết mọi sắc
màu của nó. Dường như ranh giới giữa các thể loại là điều mà ông không mấy bận
tâm. Như nhiều người đã chỉ ra, với kiểu hành ngôn này, truyện của Nguyễn Tuân
rất đậm chất tùy bút, ngược lại, tùy bút cũng rất giàu tính truyện; văn xuôi mà
đọc lên cứ nghe như âm điệu của thơ; phê bình, tiểu luận và chân dung văn học hấp
dẫn người đọc bởi lối diễn đạt đầy tính nghệ thuật... Tôi không nghĩ con đường
Nguyễn Tuân đã đi cũng như cách xử lí ngôn ngữ của Nguyễn Tuân là "khuôn
vàng thước ngọc". Đó cũng chỉ là một trong muôn nẻo đường hành ngôn nghệ
thuật. Đã từng tồn tại nhiều vẻ đẹp ngôn ngữ khác biệt, thậm chí đối lập với những
sắc thái thẩm mĩ trong ngôn ngữ Nguyễn Tuân. Có như thế, văn chương mới bung nở
nhiều phong cách. Nếu cần phải minh hoạ cho bản chất sáng tạo của văn học thì
phải kể đến Nguyễn Tuân - người với những trang văn tài hoa, độc đáo đã tạo ra
không chỉ một con đường, một lối đi riêng mà phải nói là một "đại lộ"
riêng trên các ngả khai phá của văn học Việt Nam. Trên "đại lộ" ấy ta
bắt gặp nét quen thuộc và cả những điều mới mẻ - cái làm nên hồn cốt Nguyễn
Tuân.
IV. Đề luyện tập
Đề 1. Trả lời câu hỏi: Làm thế nào để có một truyện
ngắn hay, có ý kiến cho rằng: Viết ra không khó, cái khó là tìm
được những câu chuyện
đáng kể, những tư tưởng đáng ghi.
Ý kiến khác lại cho rằng: Điều quan
trọng không phải là câu chuyện được kể, mà là cách kể.
Anh/chị hiểu
như thế nào về hai ý kiến trên? Hãy bày tỏ quan điểm của mình qua việc phân
tích một truyện ngắn tự chọn thuộc giai đoạn văn học Việt Nam 1930 -
1945.
Hướng
dẫn
I. Yêu cầu về kĩ năng:
- Học sinh biết cách làm bài nghị luận hai ý kiến
bàn về văn học, biết vận dụng linh hoạt các thao tác lập luận, biết lựa chọn
tác phẩm tiêu biểu, biết phân tích, cảm thụ để làm sáng tỏ vấn đề.
- Bố cục rõ ràng, mạch lạc; lập luận chặt chẽ, thuyết
phục.
- Hành văn trong sáng, giàu cảm xúc; không mắc lỗi
chính tả, dùng từ, đặt câu.
II. Yêu cầu về kiến thức:
Học sinh có thể trình bày theo nhiều
cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau:
1. Giải thích hai ý kiến
- Ý kiến thứ nhất: Từ việc nêu cách hiểu
về các cụm từ những câu chuyện
đáng kể, những tư tưởng đáng ghi, học sinh cần khái quát được
nội dung chính của ý kiến này là nhấn mạnh vai trò của nội dung tư
tưởng trong việc tạo nên giá trị của một truyện ngắn.
- Ý kiến thứ hai: Học sinh giải nghĩa được
các cụm từ câu chuyện được kể
và cách kể, từ đó khái quát
nội dung của ý kiến này là nhấn mạnh đến vai trò của hình thức
nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật trần thuật trong việc tạo nên
nét đặc sắc cho một tác phẩm truyện ngắn.
2. Trình bày suy nghĩ về hai ý kiến
- Học sinh có thể đồng tình với một trong
hai ý kiến, cũng có thể đồng tình với cả hai bởi thực chất hai ý
kiến này không hoàn toàn đối lập loại trừ nhau mà chỉ là những
cách nói nhấn mạnh, bổ sung cho nhau để giúp ta nhận thức rõ hơn về
giá trị thực sự của một tác phẩm truyện ngắn. Dù bày tỏ quan điểm
theo hướng nào, học sinh cũng cần có những luận giải phù hợp, chặt
chẽ, giàu sức thuyết phục.
- Ý kiến thứ nhất đề cao vai trò của nội
dung tư tưởng, bởi đó là yếu tố quan trọng trong truyện ngắn. Không
giống như tiểu thuyết, truyện ngắn là một lát cắt của đời sống,
một khoảnh khắc đầy ý nghĩa mà nhà văn lựa chọn để chuyển tải
thông điệp của mình. Vì vậy lựa chọn câu chuyện đáng kể và chắt
lọc những tư tưởng mới mẻ nhân văn là điều tạo nên sức hấp dẫn đáng
kể cho truyện ngắn.
- Ý kiến thứ hai nhấn mạnh vai trò của hình
thức nghệ thuật, bởi cách kể câu chuyện như thế nào cũng là một
vấn đề then chốt tạo nên cái hay cho truyện ngắn. Cùng một cốt
truyện, một chủ đề, nhà văn sáng tạo tình huống, sắp đặt trình tự
kể, lựa chọn ngôi kể, giọng điệu, linh hoạt điều chỉnh tốc độ kể
nhanh hay chậm, phối hợp đa dạng các điểm nhìn trần thuật...Tất cả
những yếu tố nghệ thuật đó sẽ tạo nên sự lôi cuốn cho câu chuyện,
đưa người đọc vào thế giới nghệ thuật riêng biệt mà nhà văn sáng
tạo nên.
- Hai yếu tố trên thực ra thống nhất và gắn
bó với nhau vô cùng chặt chẽ. Nội dung tư tưởng sâu sắc bao giờ cũng
chỉ được làm nổi bật khi nó được chuyển tải qua một hình thức phù
hợp. Và ngược lại, nếu hình thức nghệ thuật độc đáo hấp dẫn nhưng
câu chuyện kể và tư tưởng của nhà văn cũ kĩ sáo mòn hoặc thậm chí
lệch lạc thì sức sống của tác phẩm truyện ngắn đó cũng không thể
bền lâu...
3. Phân tích một truyện ngắn tự
chọn để làm sáng tỏ quan điểm của bản thân.
- Học
sinh có thể lựa chọn bất kì truyện ngắn nào trong chương trình thuộc
văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945
và phân tích theo định hướng lý luận như trên để làm rõ quan
điểm của mình. Tránh phân tích lan man dài dòng không cần thiết hoặc
diễn xuôi văn bản.
4. Đánh giá,
mở rộng vấn đề:
- Yêu cầu đối với người sáng tác: Để tạo nên một
truyện ngắn hay, nhà văn cần phải biết đi sâu vào đời sống để tìm hiểu
và khai phá chất liệu hiện thực, từ đó chắt lọc những tư tưởng lớn
lao giàu ý nghĩa nhân văn, mang tinh thần thời đại; đồng thời không ngừng
lao động và sáng tạo để tạo nên sự hài hòa cân xứng giữa nội dung và hình thức
nghệ thuật…
- Yêu cầu đối với người tiếp nhận: Người đọc cần
phát huy vai trò chủ động, tích cực của mình trong việc tiếp nhận những giá trị
nội dung tư tưởng và hình thức nghệ
thuật của một tác phẩm truyện ngắn, làm giàu cho đời sống tâm hồn và
thị hiếu thẩm mỹ của mình.
Đề 2. Nhận xét về tài năng nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân,
nhà văn Anh Đức từng viết : “ khi ta gọi là một bậc thầy của nghệ thuật ngôn từ
ta không hề thấy ngại miệng, một nhà văn độc đáo vô song mà mỗi dòng, mỗi chữ
tuôn ra đầu ngọn bút đều như có đóng một dấu triện riêng”. Anh ( chị ) hãy làm
sáng tỏ nhận xét trên qua tác phẩm của Nguyễn Tuân trong chương trình Ngữ văn
11- ban cơ bản.
Hướng dẫn
1. Giới thiệu và
dẫn dắt vấn đề
2.
Giải thích nhận xét:
– Bậc thầy nghệ thuật ngôn từ: khả năng sử dụng ngôn từ lão
luyện khiến người khác phải học hỏi.
– “ một nhà văn độc đáo vô song mà mỗi dòng, mỗi chữ
tuôn ra đầu ngọn bút đều như có đóng một dấu triện riêng”: cách sử dụng ngôn
từ của Nguyễn Tuân độc đáo chỉ thấy trong văn và mang phong cách của Nguyễn
Tuân
– Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân:
+ Tiếp cận thế giới ở phương diện tài hoa thẩm mí, con người
ở phương diện tài hoa thẩm mĩ
+ NT ưa thích những tính cách phi thường, những cảm giác
mãnh liệt
+ NT là người tài hoa, uyên bác và lịch lãm. Ông thường vận
dụng tri thức của nhiều ngành văn hóa khác nhau để tăng khả năng quan sát, diễn
tả của nghệ thuật văn chương.
+ NT là bậc thầy nghê thuật ngôn ntù, ông có một kho từ vựng
phong phú và có khả năng tổ chức câu văn xuôi đầy giá trị tạo hình, có nhạc
điệu trầm bổng và co duỗi 1 cách nhịp nhàng nên văn của NT đĩnh đạc, cổ kính và
cũng rất trẻ trung hiện đại.
3. Phân tích, chứng minh tác phẩm: Chữ người tử tù- NV11 :
* Nguyễn Tuân xây dựng lên hình tượng nhân vật Huấn Cao
chính là cách tiếp cận nhân vật ở phương diện tài hoa nghệ sĩ, ở phẩm chất phi
thường.
– Là người có tài năng viết chữ đẹp-> trân trọng với nghệ
thuật thư pháp của DT
– Có tài võ- > Ca ngợi con người anh hùng trong lịch sử.
* Tạo tình huống đặc sắc: 1 cai nguc - 1 tử tù hai người hai
chiến tuyến gặp nhau nơi ngục tù tăm tốià thành tri âm tri kỉ.
* Khắc họa tính cách các nhân vậtà thể hiện tầm vóc các nhân
vật ( Huấn Cao; quản ngục (dẫn chứng)
* Ngôn ngữ giàu hình ảnh; vừa cổ kính vừa hiện đại. Có nhịp
điệu riêng, truyền cảm (miêu tả cảnh nhận tù, ngôn ngữ xưng hô giữa các nhân
vật- dẫn chứng)
* Bút pháp tươg phản, đối lập ( Cảnh cho chữ – phân tích kĩ , đây là cảnh tượng
xưa nay chưa từng có- dẫn chứng)
+ Nhiều câu văn có nhiều dư ba: “Trong hoàn cảnh đề lao
người ta sống bằng…..hỗn loạn xô bồ”
+ Trong văn NT có sự kết hợp cả bút pháp của hội họa, điêu
khắc ( cảnh quản ngục ngồi trầm ngâm suy nghĩ trước đêm nhận tù; Cảnh 6
người tử tù mang chung một chiếc gong nặng; cảnh cho chữ)
4. Khẳng định lại vấn đề – đánh giá nâng cao.
Đề 3: Về đoạn trích tuỳ
bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, có ý kiến
cho rằng: Đó là một công trình khảo cứu công phu.
Nhưng ý kiến khác lại nhấn mạnh: Đó là một áng văn giàu tính thẩm
mĩ.
Từ việc phân tích đoạn trích tuỳ bút, anh/chị hãy bình luận
những ý kiến trên.
Hướng
dẫn
I.
Mở
bài:
Vài nét về tác giả, tác phẩm (0,5 điểm)
– Nguyễn Tuân là một nhà văn tài năng với một phong cách độc
đáo.
– Tuỳ bút Sông Đà là kết
quả chuyến đi thực tế Tây Bắc trong và sau kháng chiến chống Pháp.
– Nêu 2 ý kiến cần nghị luận
II.
Thân
bài:
1. Giải thích ý kiến (0,5 điểm)
– Công trình khảo cứu công phu: là một tác phẩm được
tạo nên từ công sức tìm tòi, nghiên cứu dựa trên các tài liệu phong phú. Nó thể
hiện vốn và tầm hiểu biết của nhà văn, đồng thời cũng đem đến cho người đọc những
hiểu biết phong phú về các đặc điểm, tính chất của đối tượng được đề cập.
– Áng văn giàu tính thẩm mĩ: là tác phẩm nghệ thuật
đạt đến độ hoàn hảo trong việc tái hiện cái đẹp, khơi gợi những hứng thú và khả
năng cảm nhận cái đẹp ở người đọc.
2. Phân tích biểu hiện (2,0 điểm)
a) Công trình khảo cứu công phu (1,0 điểm)
–Tác giả huy động một vốn
kiến thức tổng hợp khá đồ sộ về rất nhiều ngành nghề khoa học và nghệ thuật.
+
Địa lí: Sắc nước mỗi mùa, tên của các con thác dọc sông Đà, đặc điểm địa hình,
địa thế của sông…
+
Lịch sử: Các thời kì lịch sử khác nhau gắn với Sông Đà: thời tiền sử, thời Hùng
Vương, Thời vua chúa phong kiến, thời kháng chiến, thời xây dựng chủ nghĩa xã hội…
+ Văn hoá: Những sinh hoạt vật chất ( đốt lửa
trong hang đá, nướng ống cơm lam) và tinh thần ( bàn cá anh vũ, cá dầm xanh…)
+
Văn học: Hình ảnh con sông Đà trong thơ văn ( Đà giang độc bắc lưu), gợi nhớ
thơ Lí Bạch, thơ Ba Lan…
+
Các kiến thức khác: quân sự, thể thao, âm nhạc, hội hoạ, điện ảnh, sân khấu…
– Cung cấp cho người đọc những hiểu biết về con
sông Đà và về cuộc sống người lao động trên sông:
+
Về con sông Đà: từ chiều dài sông, đầu nguồn, lưu vực, tên sông qua các thời kì
lịch sử ( Linh Giang)…
+
Về ông đò: Công việc lái đò rất vất vả, khi phải chống chọi lại với ghềnh thác
và những hiểm hoạ bất ngờ của thiên nhiên nên đã làm bộc lộ ở người lái đò khả
năng chinh phục thiên nhiên.
b) Áng văn giàu tính thẩm mĩ (1,0 điểm)
– Người đọc có được
khoái cảm thẩm mĩ thực sự trước vẻ đẹp tuyệt vời của con sông Đà hung bạo và trữ
tình; vẻ đẹp của ông đò anh hùng và nghệ sĩ. Bên cạnh đó, người đọc còn được
thưởng thức vẻ đẹp của một thiên anh hùng ca và một bản tình ca say đắm về
thiên nhiên và cuộc sống.
–
Nhà văn đã biến những thông tin khô khan, tư liệu lạnh lùng thành hình tượng sống
động, có đời sống, có tâm lí, tính cách, khả năng, số phận…cụ thể
– Giá trị thẩm mĩ còn thể hiện ở thể văn Tuỳ bút vừa thực tế vừa tự do
phóng túng, ở tài năng lựa chọn ngôn ngữ và sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân.
3. Bình
luận hai ý kiến (1,0 điểm)
– Hai ý kiến đề cập
đến những phương diện khác nhau về vẻ đẹp của đoạn trích tuỳ bút. Ý kiến thứ nhất
nhấn mạnh đến chất trí tuệ, ở lao động nghệ thuật rất công phu của một con người
thiết tha yêu những giá trị vật chất và tinh thần của đất nước, của dân tộc và
tình yêu, sự gần gũi đối với những người lao động bình thường. Ý kiến thứ hai
thể hiện chất tài hoa, tài tử và phong cách độc đáo vừa thống nhất vừa cách tân
sáng tạo trong nghệ thuật của Nguyễn Tuân .
- Hai ý kiến tuy khác nhau nhưng không đối lập
mà bổ sung cho nhau, hợp thành sự nhìn nhận toàn diện và thống nhất; giúp người
đọc có cái nhìn sâu sắc và thấu đáo hơn về vẻ đẹp của Tuỳ bút Sông Đà và tư tưởng của nhà văn.
Trương Văn Quỳnh